Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN một số kinh nghiệm trong dạy văn miêu tả người cho học sinh lớp 5 trường tiểu học cẩm sơn, huyện cẩm thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 28 trang )

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

MỤC LỤC
Đề mục
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề.
3.1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của đề


bài.
3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý, lập dàn bài.
3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh có những kĩ năng
cần thiết để viết văn hay.
3.4. Biện pháp 4: Khích lệ hứng thú học tập của học sinh
bằng nhận xét, đánh giá.
4. Một số trò chơi học tập lồng ghép trong dạy học văn tả
người.
5. Hiệu quả của sáng kiến.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trang
1
1
1
1
2
2
2
3
4
4
5
7
12
13
19
20



I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là môn học chủ công trong nhà trường tiểu học, góp phần đắc
lực thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ. Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường
tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt văn hoá để suy nghĩ, giao tiếp và
học tâp. Qua đó, rèn cho các em năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo
dục các em những tư tưởng lành mạnh, trong sáng.
Trong chương trình tiểu học mới, môn Tiếng Việt được chia thành các
phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn cho HS một số kĩ năng nhất định.
Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, rèn cho HS cả
bốn kĩ năng, trong đó chú trọng vào các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân
môn này HS phải được hình thành và rèn luyện năng lực trình bày văn bản (nói
và viết) ở nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn
khó trong các phân môn của Tiếng Việt. Để thực hiện được mục tiêu của phân
môn Tập làm văn, HS cần huy động tất cả kiến thức của Tiếng Việt thu được qua
việc học các phân môn khác. Trường Tiểu học Cẩm Sơn, số học sinh dân tộc
thiểu số chiếm trên 80%, đa số còn sai về phương ngữ nên việc giúp các em đạt
được các yêu cầu trên là vấn đề hết sức cần thiết. Với HS lớp 5, việc rèn kĩ năng
làm văn miêu tả cho HS là thiết thực. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận
lợi để HS học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học lên lớp trên.
Việc dạy Tập làm văn nói chung và dạy văn tả người nói riêng bên cạnh
những thành công còn nhiều hạn chế. Học sinh thường có tâm trạng chung là
ngại viết và sợ viết văn. Các bài văn miêu tả của các em thường hời hợt, chung
chung, thiếu những sắc thái cảm xúc riêng biệt. Nhiều giáo viên còn lúng túng
trong phương pháp dạy văn mới, năng lực, sự am hiểu thực sự về môn học còn
hạn chế...Chính vì vậy, kết quả làm văn của học sinh hầu như chưa được như
mong muốn, năng khiếu, sự sáng tạo của học sinh khá giỏi đa phần chưa được
phát huy.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã trăn trở suy nghĩ, tìm tòi, học

hỏi và tìm ra biện pháp giúp học sinh viết văn miêu tả người được tốt, làm tiền
đề, cơ sở vững chắc để học sinh có thể học tốt ở những lớp cao hơn. Đó là lý do
tôi chọn: “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người cho học sinh lớp 5” là
vấn đề nghiên cứu trong năm học 2016 - 2017.
2. Mục đích nghiên cứu
Bản thân chọn sáng kiến “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người
cho học sinh lớp 5” nhằm tìm ra một số biện pháp và trò chơi học tập giúp các
em có thêm kĩ năng về viết văn miêu tả, nhất là kiểu bài “Tả người” được tốt
hơn, là điều kiện thuận lợi để HS học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học
lên lớp trên.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người
cho học sinh lớp 5”.
1


- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Cẩm Sơn Cẩm Thủy - Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Nghiên cứu tài liệu: Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, sách giáo viên Tiếng
Việt 5, các loại sách tham khảo về Tiếng Việt 5.
+ Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục có liên quan đến sáng kiến.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Tìm hiểu về tình hình thực tế học sinh, phụ huynh ở địa phương.
+ Dự giờ đồng nghiệp, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về rèn kĩ năng làm
văn miêu tả cho học sinh.
+ Điều tra, thu thập thông tin.
+ Phương pháp quan sát, đàm thoại, thực nghiệm, kiểm tra…nội dung về
kiểu bài văn miêu tả.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kĩ năng từ các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu,... để viết nên một bài văn hay. Góp phần cùng các môn học
khác mở rộng vốn sống, rèn tư duy logic và bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ.
Học làm văn là học làm Người, chính vì vậy mà mục đích dạy văn ở mọi
nhà trường, dù khác nhau do đòi hỏi của mỗi thời kì lịch sử vẫn có nét chung là
vươn tới những giá trị tinh thần vĩnh cửu: Cái đẹp, lòng tốt, tình thương đồng
loại, đức hạnh, thuỷ chung,...
Trong phân môn Tập làm văn lớp 5, Miêu tả là thể loại văn điển hình,
chiếm số lượng lớn. Học miêu tả, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp
muôn màu của cuộc sống. Qua đó, tình cảm yêu mến thiên nhiên, con
người,...của trẻ được nảy nở, tâm hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú. Dạy
học sinh làm văn miêu tả tốt, người giáo viên sẽ tiếp thêm một phương tiện để
các em khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương, của cuộc sống... và tự khám
phá những năng lực sáng tạo còn tiềm ẩn ngay trong những tâm hồn thông minh
và đáng yêu. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt
đẹp của trẻ.
Chương trình Tập làm văn lớp 5 tiếp tục dạy về văn miêu tả với hai kiểu
bài: “Tả cảnh”, “Tả người”. Trong mỗi kiểu bài nói trên, ngoài việc tiếp tục rèn
luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản đã dạy ở lớp 4 như:
- Quan sát đối tượng miêu tả.
- Lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả.
- Dựng đoạn và viết bài miêu tả.
Chương trình còn chú trọng rèn luyện một số kĩ năng miêu tả gắn với đặc
điểm của kiểu bài cụ thể. Ví dụ về kiểu bài tả người: tả ngoại hình của người, tả
hoạt động của người.
2



2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Về giáo viên :
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Ban giám hiệu nhà trường.
- Đa số giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, đều tích cực tự học tự bồi
dưỡng và có thể cập nhật thông tin trên mạng Internet.
- Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong và ngoài
nhà trường.
* Khó khăn:
- Nhiều giáo viên còn lúng túng trong phương pháp dạy văn mới, vốn từ,
sự am hiểu thực sự về môn học còn hạn chế.
- Các tiết trả bài, giáo viên thường nhận xét chung chung, chưa chỉ rõ hết
những sai sót mà học sinh thường mắc phải, dẫn đến việc rút kinh nghiệm cho
học sinh qua tiết trả bài chưa đọng lại được bao nhiêu.
2.2. Về học sinh :
* Thuận lợi:
- Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy các em có lực học tương đối đồng đều.
Đa phần các em biết viết văn có đủ bố cục 3 phần, nắm được yêu cầu từng phần.
- Các em có động cơ học tập đúng đắn và luôn muốn tìm tòi khám phá
thế giới muôn màu, muôn vẻ ở xung quanh.
* Khó khăn :
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Bài viết của các em diễn đạt còn lủng củng, bài văn thường nghèo nàn,
thiếu ý, tạo cảm giác đơn điệu cho người đọc.
- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn
hời hợt, thiếu tính chân thực.
- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
- Nhiều học sinh chưa ham học, đọc sách báo, tài liệu để tham khảo.
- Học sinh lớp tôi phụ trách đa số các em là người dân tộc thiểu số, bố mẹ
làm nghề nông là chủ yếu nên một số phụ huynh chưa có điều kiện quan tâm

đến con em mình.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm
văn trở nên nặng nề đối với học sinh và giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập
làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận
thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
Sau một thời gian giảng dạy, tôi tiến hành khảo sát học sinh lớp 5A với đề
bài gợi ý sau: Chọn một trong các đề sau:
1. Tả một em bé đang tuổi tập đi, tập nói.
2. Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em…) của em.
3. Tả một bạn học của em.
4. Tả một người lao động (công nhân, nông dân, thợ thủ công, bác sĩ, y
tá, cô giáo, thầy giáo,…) đang làm việc.
Sau khi kiểm tra kết quả đạt được như sau :
3


Lớ
p


số

Hoàn thành tốt
Số lượng
Tỉ lệ

Khảo sát chất lượng
Hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ


Chưa hoàn thành
Số lượng Tỉ lệ

5A

24
3
12,5%
15
62,5%
6
25%
Qua bảng khảo sát cho thấy :
- Có 12,5 % HS có kĩ năng viết văn thành thạo: Sử dụng dấu câu tốt, có ý
thức tìm tòi để viết hay song chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong
miêu tả.
- Có 62,5% học sinh hoàn thành bài văn. Trong đó:
+ 20,8 % HS viết thành câu nhưng chưa có kĩ năng dùng từ miêu tả sinh
động, nội dung tả còn nghèo, diễn đạt vụng.
+ 41,7 % HS viết chưa rõ ý.
- 25 % HS diễn đạt yếu.
2.3. Kế hoạch rèn viết văn:
- Với thực trạng học sinh như vậy, để phát huy hết khả năng sáng tạo vốn
có của học sinh, tôi đề ra kế hoạch hướng dẫn các em luyện viết văn tả người
như sau:
- Tiếp tục rèn viết văn cho mọi đối tượng học sinh ở tất cả các tiết học
chính khoá. Quan tâm đặc biệt tới học sinh diễn đạt yếu, viết chậm. Rèn tư duy
logic, bồi dưỡng khả năng cảm thụ văn học cho các em ở mọi lúc, mọi nơi trong
tất cả các môn học.

- Củng cố, nâng cao cách hành văn cho học sinh khá, giỏi trong các giờ
Hoạt động ngoại khoá và trong các tiết Hướng dẫn học buổi chiều.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề:
Chất lượng bài văn viết của học sinh sau mỗi tiết học chính là kết quả
cuối cùng của việc dạy Tập làm văn. Bài văn miêu tả tốt phải tả được sự vật, sự
việc một cách đầy đủ, chân thật, từ ngữ trong sáng, giàu màu sắc hình ảnh,... thể
hiện được tình cảm, cảm xúc phù hợp với lứa tuổi.
Để đạt được những mục tiêu đó, tôi tiến hành thực hiện một số biện pháp
sau:
3.1. Biện pháp1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của đề bài:
Kết quả của giờ Tập làm văn phụ thuộc ở nhiều yếu tố, trong đó sự tìm hiểu,
nắm vững yêu cầu của bài tập là hết sức cần thiết. Kĩ năng này có vai trò định
hướng khái quát, quyết định bài văn đáp ứng đúng hay sai yêu cầu của đề bài.
Trong quá trình tìm hiểu đề văn miêu tả, người viết cần xác định rõ những yêu cầu
về đối tượng miêu tả, trọng tâm miêu tả và trình tự tả bài văn miêu tả. Vì thế, giúp
học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập cũng như đề bài văn miêu tả, giáo viên đã
giúp các em định hướng rõ nội dung cần thực hiện một cách chính xác, có hệ
thống. Không những vậy, học sinh còn có thể "tự do", thả sức bay bổng vào thế
giới sáng tạo của riêng mình mà không sợ "nhầm đường, lạc lối".
4


Do vậy, với mỗi bài tập hay đề bài văn bất kì, tôi đều hướng dẫn các em
tìm hiểu để nắm vững yêu cầu của đề, từ đó xây dựng nội dung, trình tự tả... một
cách hợp lí qua các gợi ý sau:
- Đọc thầm yêu cầu của đề.
- Xác định thể loại của bài (Đề bài yêu cầu viết thể loại văn nào ? Miêu tả,
kể chuyện hay viết thư? ....).
- Xác định đối tượng miêu tả (Nghĩa là HS phải trả lời được câu hỏi "Bài
văn miêu tả người nào ?").

- Trọng tâm miêu tả (Hình dáng, tính tình hay hoạt động của người,
vật...?).
- Trình tự tả.
* Ví dụ: Với yêu cầu: "Viết một đoạn văn tả hoạt động một người mà em
yêu quí" . Tôi hướng dẫn học sinh xác định như sau:
+ Thể loại: Miêu tả.
+ Đối tượng tả: Tả người (có thể là mẹ, cô giáo, bạn cùng lớp, hoặc người
hàng xóm...).
+ Trọng tâm miêu tả: Hoạt động của một người mà em yêu quí.
+ Trình tự tả: Từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể hoặc ngược lại. Bằng
phương pháp gợi mở với những câu hỏi ngắn gọn của giáo viên, học
sinh có thể nắm vững yêu cầu của bài tập và biết cách thực hiện các yêu cầu đó
một cách tốt nhất.
Ngoài ra, để giúp học sinh hiểu đề sâu hơn, tôi dành thời gian giải thích
thêm về yêu cầu của bài, chốt lại những kiến thức, kĩ năng mà các em cần nắm
vững.
Ví dụ: với bài tập: "Tả hoạt động của người em yêu quí". Tôi nêu: Bài tập
yêu cầu chúng ta chú trọng tả về hoạt động của người mà mình yêu quí. Đây là
người gần gũi, quen thuộc với em. Em cần nêu đủ, đúng, sinh động những nét
tiêu biểu về hoạt động của người đó qua một công việc cụ thể...
Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của bài tập, xác định rõ việc
cần làm, tránh thái độ vội vàng nôn nóng đó cũng là cách dạy học sinh rèn luyện
để tự mình có thể làm ra những "sản phẩm tinh thần" đích thực và có chất lượng.
3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý, lập dàn bài:
Tập viết văn là một loại lao động đặc biệt. Lao động viết văn muốn trở
thành kĩ năng và đạt được những thành quả phải trải qua một quá trình học tập
và rèn luyện. Để tạo lập được một văn bản tốt, học sinh cần kiên trì tiến hành
từng bước luyện tập theo một trình tự nhất định.
Tiếp theo việc nắm nội dung, cùng với việc hướng tới người đọc và mục
đích đạt tới của bài văn, học sinh phải tìm ý để triển khai nội dung đề bài văn.

Câu hỏi đặt ra là: Muốn tìm ý phải làm gì? Tìm ý ở đâu? Ý nhất định phải
hiện ra trong óc, trong sự suy nghĩ của trí tuệ, sự hồi tưởng của kí ức, là phải do
sự xúc cảm thôi thúc từ con tim.... Đây cũng là những điều quan trọng mà giáo
viên cần chuyển tải tới các em học sinh.
5


Ý bắt nguồn từ cuộc sống, vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh có
thói quen quan sát để tích luỹ các nhận xét sau này làm ý cho bài văn. Tôi luôn
đặt ra yêu cầu với học sinh là: Nhận xét thấy gì, ghi thế ấy, nhận xét đến đâu, ghi
luôn đến đó.
Bằng cách làm như vậy, học sinh đều có thể tìm được các ý miêu tả cho
bài viết của mình.
Tuy nhiên, giáo viên cần lưu ý học sinh là các "ý" trong một bài văn cần
có quan hệ với nhau bởi các ý đó trước hết phải nhằm biểu hiện thống nhất nội
dung bài văn.
Do vậy, để tránh hiện tượng sa đà vào ghi chép dẫn tới lan man, xa đề, tôi
luôn hướng dẫn các em bám sát yêu cầu của đề, xác định rõ trọng tâm của bài,
tự đặt ra những câu hỏi: Đề bài yêu cầu chúng ta miêu tả gì? Để làm tốt bài văn
ta phải thu thập những ý nào? (miêu tả, bộc lộ cảm xúc...), ý nào có trong sách,
ý nào lấy ở thực tế quan sát đời sống, ý nào lấy trong " Sổ tay văn học"?
Với mỗi đề bài cụ thể, tôi yêu cầu học sinh lập một dàn ý chi tiết theo các
bước sau:
- Xác định cấu tạo của bài văn (tả người) nói chung.
- Quan sát đối tượng, tìm ý (qua thực tế và qua sách vở); (Công việc này
yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà).
- Chuyển Dàn bài chung thành Dàn ý chi tiết.
Ví dụ: Với bài văn tả một người trong gia đình em, học sinh cần tìm được
các ý thống nhất cho nội dung miêu tả người định tả đó là:
- Phần mở bài giới thiệu về người định

tả. - Phần thân bài:
+ Tả hình dáng (tuổi tác, tầm vóc, nước da, mắt, má, chân, tay, dáng đi,
cách nói, ăn mặc, ... ).
+ Tả tính tình (những thói quen của người đó trong cuộc sống, người đó
khi làm, thái độ với mọi người xung quanh,…).
+ Tả hoạt động (những việc người đó thường làm, hay việc làm cụ thể,
…).
- Phần kết bài nêu tình cảm, cảm nghĩ của mình với người đó. Em đã làm
gì để thể hiện tình cảm đó.
Với vai trò là người hướng dẫn, khêu gợi, học sinh suy nghĩ tự lực làm
việc, tôi đã giúp huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và thực hiện ghi
chép đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, những gì trẻ em đã có còn chưa rõ nét, chưa đầy
đủ, toàn diện nên sau khi khơi gợi được vốn sống của các em thì điều quan trọng
tiếp theo là phải "Làm rõ hơn những gì trẻ em đã có, làm phong phú, giàu có
hơn những hiểu biết của các em về kiểu bài miêu tả".
Giáo viên lưu ý học sinh, dàn bài của mỗi em không nhất thiết phải y như
mẫu (Dàn bài chung). Ví dụ như: Tả một người, không nhất thiết phải tả cả đầu,
tóc, mắt, mũi, miệng, chân, tay,... cũng như không nhất thiết phải tả hình dáng
rồi mới đến tính tình. Giáo viên gợi ý học sinh có thể tả lồng tính tình với hình
dáng. Và như một hoạ sĩ vẽ ngựa có tài chỉ phác vài nét đã làm hiện lên cực kì
6


sinh động một con ngựa đang phi nước đại. Có thể tả con sông, cánh đồng chỉ
bằng những chi tiết, hình ảnh gợi cho em nhiều ấn tượng nhất mà vẫn hiện lên
đúng con sông, cánh đồng của riêng em, không lẫn với con sông, cánh đồng của
người khác, không lẫn với con sông, cánh đồng của môn Tự nhiên xã hội.
Hướng dẫn học sinh tìm ý, hoàn chỉnh dàn ý trên cơ sở tôn trọng cái
riêng, tôn trọng cách nghĩ, cách cảm của mỗi học sinh, tôi đã giúp các em có cơ
sở vững chắc để tạo lập được những văn bản hoàn chỉnh.

3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh có những kĩ năng cần thiết để
viết văn hay:
Viết văn hay đòi hỏi một số kĩ năng nhất định ở người viết. Phần lớn các
kĩ năng cơ bản như: tìm ý, sắp xếp ý, lập dàn bài,… các em đều nắm được qua
các giờ học chính khoá. Nhưng với những hiểu biết đó, không phải ai cũng viết
được văn hay.
Để học sinh có được những bài viết thực sự có chất lượng và đạt kết quả
cao, tôi đã hướng dẫn các em một số kĩ năng cần thiết sau:
3.3.1. Tạo cảm hứng để viết văn hay:
Cảm hứng là động cơ thúc đẩy ham muốn viết văn. Cảm hứng thôi thúc
tình cảm (yêu, ghét, ...), gợi mở trí tuệ (chọn lựa từ ngữ, sắp xếp ý tứ trong câu
trong đoạn vv…) để viết bài văn hay.
Đứng trước sự vật mà lòng ta dửng dưng, không mảy may xúc động thì
khó có thể có được những nhận xét, phát hiện tinh tế, mới mẻ và độc đáo.
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã viết: "Khi người ta cảm hứng, dường như
giọng và ngữ điệu nảy sinh trước và từ ngữ dường như được gọi đến để thể hiện
ngữ điệu thành lời, thành câu,…"
Vì vậy, tạo cảm hứng là việc làm hết sức cần thiết để có thể viết được bài
văn hay. Tạo cảm hứng không chỉ diễn ra trong một tiết học, một thời điểm…mà
cần diễn ra trong cả một quá trình học tập lâu dài.
Giáo viên giúp học sinh tạo cảm hứng viết văn thông qua các biện pháp:
a- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học:
Cảm hứng bắt nguồn từ cảm thụ văn học (qua sách báo, kể chuyện, thơ và
văn được học và được đọc).
Khi đọc một cuốn truyện, một bài văn, bài thơ hay, các em cảm nhận
được bao điều mới mẻ, lí thú và hấp dẫn về thiên nhiên, về cuộc sống, con
người... Vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống được tích luỹ, những kiến thức cơ
bản về văn học được trang bị. Đó sẽ là nguồn cảm hứng dồi dào giúp các em
làm tốt bài văn miêu tả sau này.
Do vậy, tôi tập cho học sinh thói quen đọc sách, biết đọc có suy nghĩ, có

chọn lọc. Ngoài các truyện đọc ở lớp, tôi gợi ý các em tìm đọc những tác phẩm
viết cho thiếu nhi (truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện lịch sử, văn học hay
khoa học viễn tưởng vv…) như: Góc sân và khoảng trời (Trần Đăng Khoa), Đất
rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Dế mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài),…
Có sách tốt rồi, tôi hướng dẫn các em cách đọc, đó là: Tập trung tư tưởng
cao và luôn nghĩ về những điều đang đọc. Tìm hiểu để thấy được cái hay, cái
7


đẹp (về cả nội dung và nghệ thuật) của tác phẩm. Đồng cảm để biết vui cùng
vui, buồn cùng buồn …với từng số phận trong câu chuyện. Cảm nhận những câu
văn hay, những chi tiết xúc động…Và chia sẻ điều mình cảm nhận được với
thầy, với bạn.
Các giờ học ngoại khoá, các tiết Hoạt động tập thể (Đọc truyện, đọc báo
Đội) là những thời gian thích hợp giúp giáo viên tiến hành các công việc trên.
Ngoài ra, để cảm thụ văn học tốt, sau mỗi bài Tập đọc trên lớp, tôi đều
hướng dẫn học sinh rút ra nội dung, ý nghĩa giáo dục, thu nhận, tích luỹ những
điều bổ ích mà bài văn đem lại.
b- Bày tỏ cảm xúc văn học:
Giúp học sinh biết phát biểu, nhận xét đúng đắn, biết bày tỏ cảm xúc chân
thực trước một hình ảnh, một chi tiết,…trong cuốn truyện, bài thơ cũng là biết
khêu gợi cảm hứng văn học trong các em.
Do vậy, tôi đã ra những bài tập yêu cầu thể hiện năng lực cảm thụ văn học
như: "Kể lại cho bạn nghe một bài thơ đã để lại nhiều ý nghĩ tình cảm nhất”.
Hay: "Cảm nhận của em về thơ Trần Đăng Khoa?" vv… Qua những bài tập như
vậy, học sinh đều bộc lộ rõ suy nghĩ, tình cảm của mình với từng tác phẩm.
c- Bồi dưỡng cảm xúc qua thực tế cuộc sống:
Giáo dục học sinh biết yêu thiên nhiên, quí trọng con người từ thực tế
cuộc sống thường ngày là việc làm hết sức cần thiết. Biết yêu cảnh vật xung
quanh mình (ngôi trường, hàng cây, con đường…), yêu những người thân (bạn

bè, cha mẹ, thầy cô…), học sinh đã có một nguồn " tư liệu sống" hết sức phong
phú và sinh động để làm bài.
Để làm được điều này, tôi tiến hành tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá
(tổ chức vào tiết sinh hoạt cuối tuần) như: Hướng dẫn học sinh trồng và chăm
sóc cây cảnh ở vườn trường, cho các em đi thăm quan, dã ngoại các cảnh đẹp
của địa phương…để các em có điều kiện gần gũi với thiên nhiên, cảm nhận vẻ
đẹp của thiên nhiên. Tổ chức cho các em đi thăm bạn ốm, quyên góp giúp đỡ
bạn nghèo …qua đó giáo dục cho các em ý thức đoàn kết, tình cảm bạn bè. Tổ
chức kỉ niệm các ngày lễ: Mùng 8 - 3, 20 - 11, 22 - 12…qua đó bồi dưỡng tình
cảm với bà, với mẹ, với cô giáo, với chú bộ đội,….
d- Sử dụng các đề văn theo hướng mở:
Để tạo ra nhu cầu nói viết ở mỗi học sinh thì điều quan trọng là tạo điều
kiện cho học sinh được viết về những gì các em gắn bó, quan tâm, những gì thực
sự làm rung động trái tim các em....
Chính vì vậy, đề bài luôn phải hấp dẫn và gần gũi với các em. Các đề cần
có phạm vi thật rộng rãi. Khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo của mỗi em.
Ví dụ: "Tả một người mà em yêu quí"
Khi yêu cầu học sinh Tả người, tôi gợi ý các em: Có thể tả ông hay bà,
bạn trai, bạn gái…Tả người lao động em không nhất thiết phải chọn công nhân
mà có thể tả nông dân, bác sĩ, y tá,... Yêu quí người mình chọn tả, các em hiểu rõ
vì sao yêu: Người đó đẹp, thông minh, người đó vui tính, … Người đó gần
8


gũi với em…Cũng vì yêu quí người mình tả, các em sẽ rất hứng thú trước khi
bắt tay cầm bút viết bài.
"Phương pháp chỉ hình thức của sự tự vận động bên trong của chính nội
dung" (Hê ghen). Khi cách dạy làm dấy lên trong lòng học sinh những rung
động, tạo được cho các em tâm trạng có giai điệu và nhu cầu thể hiện tâm trạng
ấy thì sự diễn đạt của các em sẽ trở nên lưu loát, trôi chảy, bài viết sẽ có sức

thuyết phục, hấp dẫn và truyền cảm mạnh mẽ.
3.3.2. Rèn óc quan sát, phát huy trí tưởng tượng:
Một bài viết đủ về nội dung, phong phú về ý là kết quả của óc quan sát
tinh tế và trí tưởng tượng tốt. Quan sát giúp phát hiện những chi tiết sinh động,
phong phú của sự vật, sự việc, tìm ra "cái để viết" ra nội dung bài văn.
Do vậy, bản thân người viết phải là cây ăng ten nhạy cảm theo định hướng
yêu cái đẹp, trọng sự thực và quý điều thiện thì quan sát mới có hiệu quả, mới
bắt được làn sóng tốt lành.
Quan sát chính xác về đối tượng giúp cho việc tìm được những chi tiết
tiêu biểu để không lẫn nó với đối tượng khác (tả ông không lẫn với tả bà, tả em
bé này không lẫn với em bé khác…), đồng thời để người được tả là một người
cụ thể chứ không phải là một người chung chung ước lệ.
Do đó, trước hết, giáo viên giúp học sinh xác định đối tượng và mục đích
quan sát để tìm ý cho bài văn.
Ví dụ: Để xây dựng nội dung cho bài văn "Tả một người trong gia đình"
tôi hưóng dẫn xác định như sau:
- Đọc kĩ yêu cầu đề bài.
- Hãy nêu đối tượng cần quan sát? (Bố hoặc mẹ, ông, bà, anh, chị, em..)
- Em cần quan sát những gì để thực hiện đúng yêu cầu của đề bài? (Đặc
điểm nổi bật về ngoại hình, tính tình hoặc hoạt động của người đó).
Bằng cách làm như vậy, các em đều tìm được các chi tiết cụ thể cho bài
viết.
Để giúp học sinh biết cách quan sát, trong những điều kiện thích hợp, tôi
hướng dẫn học sinh quan sát một đối tượng cụ thể, để qua đó các em có được
những kĩ năng khi thực hiện quan sát những đối tượng khác. Để quan sát có hiệu
quả, giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng tất cả các giác quan khi quan sát như:
thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác….
Ngoài ra, giáo viên cần yêu cầu học sinh quan kĩ đối tượng trong những
thời điểm nhất định để thấy được những điều mới và của riêng mình.
Ví dụ: Để tìm ý cho bài văn "Tả hoạt động của một bạn nhỏ", tôi yêu cầu

học sinh quan sát kĩ các hoạt động của bạn nhỏ ấy khi: học tập, vui chơi, làm
việc giúp đỡ gia đình…
Để giúp học sinh hiểu được thế nào là nghệ thuật quan sát và miêu tả,
giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận cách quan sát tinh tế của tác giả trong
những đoạn văn mẫu của tiết Tập Làm Văn. Các bước tiến hành như sau:
- Yêu cầu cả lớp đọc thầm đoạn văn.
- Thảo luận nhóm để trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa.
9


- Học sinh trình bày ý kiến.
- Giáo viên nhấn mạnh nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết miêu tả
của tác giả bài văn.
Rèn cho học sinh thói quen quan sát không chỉ thể hiện khi thực sự cần
thiết cho việc viết một bài văn mà phải là thói quen thường xuyên khi tiếp xúc
với mọi vật quanh ta ở mọi nơi, mọi lúc. Tôi thường đặt ra một số câu hỏi với
các em như: Trên đường đến lớp, em thấy cảnh vật, con người ra sao? Quang
cảnh nói chung? Chiều về, cảnh có gì thay đổi? …hay em bé của nhà em có vẻ
gì ngộ nghĩnh? Em đã phát triển lớn lên như thế nào?...
Quan sát kết hợp với trí tưởng tượng phong phú tạo ra sự hấp dẫn cho
người đọc. Tưởng tượng trong bài văn có thể là chi tiết: một người, một vật, một
hành động,…cũng có thể là một sự việc hoàn chỉnh, đều do người viết nghĩ ra.
Giáo viên phát huy trí tưởng tượng của các em bằng các câu hỏi gợi ý,
bằng các loại tranh ảnh tĩnh, động,.. băng, đĩa có hình ảnh, nội dung miêu tả
cảnh thiên nhiên, con người …
Với những cách làm trên, học sinh đã được rèn luyện óc quan sát và biết
phát huy trí tưởng tượng khi quan sát, có được các kĩ năng cần thiết để viết ra
bài văn hay.
3.3.3. Biết diễn đạt có nghệ thuật khi viết văn:
Vẻ đẹp của một bài văn hay không chỉ ở ý nghĩa, nội dung, tình cảm, cảm

xúc mà nội dung và cảm xúc đó phải được thể hiện thông qua vẻ đẹp của Tiếng
Việt.
Do vậy, dạy viết văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh những kĩ
năng diễn đạt ngôn ngữ, đó là:
a- Biết lựa chọn và sử dụng từ ngữ:
Từ ngữ là vật liệu chính để xây dựng bài văn. Dạy viết văn, người giáo
viên cần hướng dẫn các em biết lựa chọn từ ngữ có sức gợi tả hình ảnh, âm điệu
và gợi cảm xúc để diễn đạt nội dung đề bài một cách tốt nhất, hay nhất.
"Có bột mới gột nên hồ", muốn sử dụng từ đúng và hay, học sinh phải có
vốn từ phong phú và luôn biết cách làm giàu vốn từ ngữ đó.
Giáo viên cần tập cho học sinh thói quen tích luỹ vốn từ ngữ cho riêng
mình thông qua quá trình quan sát thực tế, qua đọc sách, báo, truyện,…qua một
số hoạt động được tổ chức như: Câu lạc bộ yêu văn thơ, xem băng đĩa hình …
Biết lắng nghe để học cách nói, cách viết của các nhà thơ, nhà văn, của thầy, của
bạn, của mọi người qua tiếp xúc hàng ngày.
Ví dụ: Khi tìm hiểu "Hạng A Cháng" học sinh phát hiện các đặc điểm
ngoại hình của Hạng A Cháng qua "ngực nở vòng cung, da đỏ như lim, bắp tay
bắp chân rắn như trắc, gụ… sức lực tràn trề…", thấy sự dồi dào của thân thể
Hạng A Cháng qua hoạt động cày "thân hình nhoài thành đường cong mềm
mại… đôi chân xoải dài… băm những bước ngắn, gấp gấp…".
Sau mỗi lần tìm hiểu như vậy, tôi yêu cầu các em chọn lọc, ghi chép để
thu nhận, tích luỹ những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp. Mỗi em sẽ tập cho
10


mình thói quen ghi "Sổ tay văn học", nhờ vậy vốn hiểu biết được nâng cao, vốn
từ ngữ sẽ mỗi ngày thêm phong phú.
Có được vốn từ nhất định, tôi luôn khuyến khích học sinh sử dụng các từ
láy, các tính từ tuyệt đối… khi miêu tả bởi đây là những từ ngữ có giá trị gợi tả
và gợi cảm cao.

Tôi giúp học sinh nắm được một số dạng từ láy thường dùng trong miêu
tả:
- Từ láy gợi tả hình ảnh. ( ví dụ: nhăn nheo,…)
- Từ láy gợi tả màu sắc, âm thanh. (đỏ chon chót, rào rào,…)
- Từ láy gợi tả trạng thái cảm xúc. (hậm hực, hân hoan,…)
Và các tính từ tuyệt đối dùng đặc tả màu sắc, hương vị…(vàng óng, thơm
ngát…)
Các dạng từ trên được luyện tập, củng cố lồng ghép trong quá trình dạy
học (Thông qua tiết Tập đọc, Luyện từ và câu và một số môn học khác...).
Tuy nhiên, để sử dụng tốt vốn từ ngữ, giáo viên nhắc gợi cho các em một
số điểm cần nắm vững khi lựa chọn và sử dụng từ ngữ để có được bài văn hay.
Trước tiên, giáo viên cần nhắc học sinh tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của từ và
cách dùng từ ở những hoàn cảnh nói, viết phù hợp.
Ví dụ, trong quá trình miêu tả, có em viết: "Da bạn xanh ngắt", tôi phân
tích để các em hiểu: xanh ngắt (màu xanh đậm), xanh thẳm (vừa xanh vừa sâu)
…dùng để diễn tả màu xanh của nước, của trời. Diễn tả màu xanh của da người
không khoẻ, người ta dùng: xanh lét, xanh xao…(xanh thiếu máu).
Để giúp học sinh biết cách tìm từ ngữ phù hợp với đối tượng miêu tả, giáo
viên có thể ra một số bài tập so sánh nội dung, ý nghĩa và chủ đề của một số
đoạn văn làm ví dụ minh hoạ.
Ví dụ: So sánh sự khác nhau về đối tượng tả và cách dùng từ miêu tả
trong các đoạn văn sau:
* "Tuyết Mai có dáng người loắt choắt, làn da trắng hồng. Đôi mắt đen
tròn. Cặp môi đỏ của Tuyết Mai như đang cười…"
* "Dáng người bà nhỏ nhắn. Bước đi vẫn nhanh nhẹn cho dù Bà đã gần
80. Đôi mắt bà không còn được tinh tường như xưa… Nước da ngăm đen vì
nắng gió của bà đã điểm những nét đồi mồi và có những nếp nhăn nheo…"
Qua tìm hiểu, học sinh thấy rõ đây là những đoạn văn miêu tả hình dáng
hai người khác nhau: người bà, người bạn (một già, một trẻ). Mỗi đoạn là một vẻ
mặt khác nhau, thật cụ thể, thật chi tiết, … trong cách diễn tả bằng từ ngữ phù

hợp với đặc điểm lứa tuổi, đối tượng miêu tả.
Bằng những hướng dẫn cụ thể, có sự chỉ dẫn rõ ràng, học sinh lớp tôi đều
biết cách lựa chọn và có ý thức sử dụng từ ngữ đúng và hay.
b- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi viết văn:
Trong miêu tả các biện pháp so sánh, nhân hoá giữ vai trò quan trọng
trong việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm,
thuộc tính riêng của sự vật hiện tượng.
11


Giáo viên cần khai thác giá trị của những biện pháp này để hướng dẫn học
sinh sử dụng cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật viết văn.
Giáo viên cung cấp cho học sinh một số biện pháp so sánh trong miêu tả
như:
- Biện pháp so sánh có giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh. Ví dụ: "Cánh
đồng vàng rực trông như một biển vàng"…
- So sánh người với người, người với cây, với hoa...Ví dụ: "Cô như người
mẹ thứ hai", "Bàn tay bà cụ như những rễ cây xù xì"…
- So sánh đặc biệt tả cảm xúc (so sánh tu từ). Ví dụ: "Vạn vật như bừng
tỉnh được tiếp thêm sức sống dạt dào, mãnh liệt"…
Và định hướng cho học sinh sử dụng nhân hoá trong các trường hợp:
- Miêu tả sự vật giống như con người. Ví dụ: "Con gà trống bước đi oai vệ
như một lão tướng".
- Miêu tả tâm trạng. Ví dụ: "Cành lá chao lượn trong không gian như còn
luyến tiếc khung trời rộng".
- Để thể hiện sự yêu mến gắn bó với sự vật, dùng các đại từ xưng hô của
con người để xưng hô với loài vật, cây cối…Ví dụ: "Trên cánh đồng, chú Sẻ, chị
Cò, bác Bồ Nông đang tha thẩn tìm mồi…".
3.4. Biện pháp 4: Khích lệ hứng thú học tập của học sinh bằng nhận
xét, đánh giá.

Khích lệ hứng thú học tập cho học sinh là việc làm hết sức cần thiết bởi
nếu không kích thích, phát huy được hứng thú học tập của học sinh thì không
thể có được hiệu quả học tập, càng không thể nói đến đến lòng ham học, ham
hiểu biết của các em, nhất là đối với môn Tập Làm Văn, một môn học được coi
là khó, khiến nhiều học sinh e ngại.
Việc đòi hỏi dạy học phải nghiêm khắc và đặt ra yêu cầu cao không có
nghĩa là cho phép chúng ta khắt khe trong đánh giá và chặt chẽ khi nhận xét
bằng những nhận xét khích lệ cho những bài làm của HS. Không khắt khe khi
cùng nhận xét tốt với những bài nói, bài viết, câu trả lời khác nhau bởi giống
như một vườn hoa mà mỗi bông đều có vẻ đẹp riêng, hương sắc riêng. Một bài
viết giản dị, ngắn gọn cũng rất đáng được nhận được lời nhận xét tốt mặc dù,
bên cạnh đó có thể có những bài dường như còn tuyệt vời hơn…Làm như vậy
người giáo viên đã khiến các em vô cùng phấn chấn tự tin bởi thành công đã
được nhìn nhận.
Giáo viên cần có quan niệm đánh giá đúng, đó là không xem suy nghĩ,
cảm thụ của mình là khuôn mẫu, chuẩn mực để áp đặt vào việc đánh giá học
sinh mà cần tôn trọng, khuyến khích cái riêng, cái mới, cái độc đáo trong cách
nghĩ, cách cảm của mỗi em, bởi mỗi cái riêng luôn phong phú và muôn màu
muôn vẻ.
Khích lệ học sinh tích cực làm việc giúp các em dễ dàng vượt qua khó
khăn trong học tập. Người giáo viên cần khéo "dạy", khéo "dỗ" bằng những
nhận xét lạc quan: "Em giỏi lắm!", "Một ý kiến thú vị!", "Bài viết thật độc
12


đáo!", "Bạn dùng từ rất hay!", "Bài viết hay!"…Cần nghiêm khắc với tính ẩu và
sự lười biếng nhưng không nặng lời trách mắng, chê bai.
Không ngần ngại động viên các em, tôi đã có được những thành công bất
ngờ. Niềm vui của tôi được nhân lên khi tôi cảm nhận được sự xúc động, niềm
vui sướng từ phía các em. Chưa bao giờ học sinh của tôi lại yêu thích môn làm

văn và hào hứng khi viết văn đến vậy.
Thái độ nâng đỡ, khích lệ, cảm thông… của giáo viên đã khơi gợi niềm tự
hào về thành công ở mỗi học sinh, điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn, bởi chỉ có
thành công, niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới
là nguồn gốc của sự mong muốn học hỏi.
4. Một số trò chơi học tập lồng ghép trong dạy học văn tả người.
Trò chơi học tập là một hoạt động giúp học sinh thư giãn sau mỗi tiết học
căng thẳng. Bên cạnh đó qua trò chơi học tập, còn giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức của bài học một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn đạt hiệu quả cao. Từ thực tế đó,
trong các tiết luyện tập về văn tả người, tôi đã áp dụng một số trò chơi học tập
vào tiết dạy. Bước đầu tôi đã gặt hái được kết quả nhất định.
Tôi xin giới thiệu một số trò chơi lồng ghép trong những tiết tập làm văn
tả người:
Trò chơi: Tả gương mặt người (Cả lớp, nhóm, cặp, cá nhân)
*Mục tiêu:
- Giúp HS phát triển kĩ năng vận dụng từ ngữ miêu tả người (gương mặt,
hình dáng bên ngoài...) qua việc sử dụng tranh, ảnh.
- Giúp cho các tiết luyện tập miêu tả trở nên sinh động hơn.
- Hỗ trợ cho các tiết làm văn miệng.
*Đồ dùng:
- GV sưu tầm hình chụp hay tranh vẽ lớn một gương mặt người với các
chi tiết rõ ràng cho cả lớp quan sát. Ví dụ :

+ Một số thẻ từ miêu tả đặc điểm gương mặt người:
13


Khuôn mặt
đầy đặn, vuông
vức, chữ điền,

bầu bĩnh, trái
xoan, thanh tú,
phúc hậu,...
- Các thẻ ghi tên
Hay

Làn da

Đôi mắt
đen nhánh,
hiền hậu, một
mí, bồ câu,
nhung huyền, ti
hí, nâu đen...
các bộ phận:

Khuôn
mặt

Đôi mắt

Mái tóc
đen mượt, hoa
râm, mượt mà,
ngắn, lơ thơ,
dày dặn, muối
tiêu,.. ...
Mái tóc

Làn da

Trắng hồng,
ngăm đen, sạm
nắng, nhăn
nheo, mượt mà,
xanh xao,…..

Miệng

Mũi

- Vài tờ giấy lớn.
- Bút lông.
* Cách thực hiện:
B1: Để vận dụng vốn từ sẵn có của HS, GV có thể gắn các tờ giấy ghi tên
các bộ phận của gương mặt lên bảng. Yêu cầu HS xung phong viết các từ miêu
tả vào mỗi tờ giấy. Các từ sẽ được cả lớp vận dụng trong các bước tiếp theo.
B2: GV gắn hình chụp lên bảng, cả lớp có vài phút xem hình.
B3: GV yêu cầu cả lớp viết các câu văn miêu tả sử dụng các từ ngữ miêu tả
các bộ phận được viết ra trong bước 1. (GV có thể gắn thêm các thẻ từ miêu tả
lên bảng hỗ trợ HS trong việc chọn hay sử dụng từ để đặt câu).
B4: HS đọc lại và sửa các câu miêu tả.
B5: GV yêu cầu HS xung phong viết các câu miêu tả hoàn chỉnh lên bảng
hay một tờ giấy lớn. Cả lớp đọc và nhận xét các câu miêu tả của bạn.
Trò chơi: Người tôi yêu quý (Cả lớp, nhóm, cặp, cá nhân)
* Mục tiêu:
- Phát triển kĩ năng viết văn miêu tả người (tính cách) của học sinh.
- Tạo điều kiện cho HS chia sẻ với các bạn khác về hoàn cảnh, ước muốn
và khả năng của bản thân thông qua việc viết.
* Vật liệu: GV và HS mang đến lớp một số ảnh chụp của bản thân hay các
thành viên trong gia đình. Có một số em trong lớp sẽ không có ảnh chụp, GV có

thể cắt hình từ tạp chí cũ để các em này có cơ hội tham gia hoạt động.
- Một số thẻ từ miêu tả tính cách, nghề nghiệp, sở thích...
Nghề nghiệp
Công an, họa sĩ,
giáo viên, bác
sĩ, nông dân,
công nhân...

Sở thích
Nội trợ, nghe
nhạc, du lịch,
đọc sách ,vẽ
tranh, xem hoạt
hình...

Tính cách
Giản dị, nhiệt
tình, thân thiện,
mạnh mẽ, ích
kỉ, thật thà,….

Khả năng
Đá bóng giỏi,
hát hay, ngâm
thơ, vẽ đẹp, giỏi
toán,
Airobich giỏi,...


14



* Cách thực hiện:
B1: HS trao đổi ảnh chụp với các bạn trong nhóm.
B2: HS xem ảnh và suy nghĩ về một số câu hỏi giúp mình có thông tin về
hình người trong ảnh. Các em viết câu hỏi của mình ra mẩu giấy nhỏ (Các câu
hỏi về tính cách, sở thích, nghề nghiệp...).
VD: Em bé này có quan hệ gì với bạn ? Em tên gì ?
Bạn này thích làm việc gì nhất khi rãnh rỗi ?
Bạn này ước mơ trở thành một người như thề nào khi lớn lên ?
B3: HS trả lại ảnh chụp cho bạn kèm theo mẩu giấy có các câu hỏi.
B4: HS viết một đoạn miêu tả ngắn về ảnh chụp của mình heo các câu
hỏi. GV gắn các thẻ từ miêu tả tính cách, nghề nghiệp,... trên bảng để HS tham
khảo khi viết miêu tả.
B5: Các em đặt câu hỏi và đọc các đoạn miêu tả về ảnh chụp của bạn và
nhận xét.
Hoạt động này còn có thể thực hiện tiếp theo bằng cách GV gắn các hình
hay ảnh chụp lên bảng. Mỗi em nhận một đoạn miêu tả và tìm ảnh phù hợp trên
bảng để đặt bên cạnh.
Trò chơi ô: Miêu tả người (Hoạt động nhóm)
* Mục tiêu:
- Giúp HS phát triển vốn từ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả ngoại
hình.
- Giúp cho các tiết làm văn miệng trở nên lí thú hơn đối với HS.
VD: Vận dụng cho bài “Luyện tập tả người” (TV5, tập 1- trang 132)
*Vật liệu: - Bảng trò chơi ô hình rắn kích thước 1/2 tờ A0.

Xuất
phát


Nơi
đặt
bộ thẻ
hình

15


- Các thẻ chơi hay vòng nhựa có màu khác nhau đủ cho số HS trong một
nhóm.
- Xúc xắc.
- Bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau...
(12 - 15
ảnh). VD:

16


17


Cách thực hiện:
B1: Các nhóm nhận một bảng trò chơi ô, bộ ảnh chụp, các vòng nhựa
màu khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một con xúc xắc.
B2: Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp vào vị trí Nơi đặt bộ thẻ hình trên
bảng trò chơi ô. Tất cả các HS trong nhóm cùng đặt các vòng nhựa của mình vào
vị trí Bắt Đầu.
B3: Trong nhóm lần lượt từng em đổ xúc xắc. Tùy theo số trên mặt xúc
xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình treo số các vòng tròn nhỏ trên
bảng trò chơi ô sao cho phù hợp.

+ Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ lớn, thì em sẽ lấy một
ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. Em này sẽ xem ảnh và đặt 2- 3 câu
văn miêu tả về người trong ảnh. Cả nhóm xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của
bạn.
VD:
Đây là bé gái người dân tộc
Kinh. Bé có khuôn mặt bầu bĩnh.
Nước da trắng hồng. Mái tóc cắt
ngắn trông rất xinh xắn.

+ Sau khi thực hiện xong, em đặt ảnh chụp vào vị trí dưới cùng của bộ
thẻ.
+ Nếu vòng nhựa của em nào vào các vòng tròn nhỏ, thì em hết lượt đi.
B4: Trò chơi sẽ kết thúc khi tất cả các em trong nhóm cùng về đến Đích
hay tất cả các ảnh đã được HS xem và miêu tả hết.
Bộ thẻ đọc: “Các bài miêu tả hay”
*Mục tiêu:
- Cung cấp tài liệu đọc về văn miêu tả cho GV và HS.
- Phát triển lòng yêu thích đọc và viết văn miêu tả của HS.
*Vật liệu :
GV sưu tầm các bài hay đoạn văn miêu tả tiêu biểu, hay và đạt hiệu quả,
viết ra và trình bày trên các tờ giấy kích thước A4 và ép nhựa cho HS đọc. Nếu
18


được, các bài hay đoạn văn miêu tả này nên kèm theo tranh hay hình ảnh minh
họa. Các bài nên được lựa chọn theo nhiều đề bài đa dạng theo chương trình dạy
và học môn Tập làm văn miêu tả của chương trình lớp 5.
* Cách sử dụng các bài văn miêu tả hay với HS
- Bộ thẻ đọc “Các bài miêu tả hay” là tài liệu học tập của lớp. Do đó, bộ

thẻ đọc này nên được giữ thường xuyên trong lớp học để HS dễ dàng mượn đọc
khi cần.
- GV tổ chức cho HS đọc và thảo luận về mỗi bài miêu tả hay (chủ yếu là
cách dùng từ và viết câu miêu tả).
- HS tự đọc các bài miêu tả này trong các giờ ra chơi.
- GV vận dụng các bài miêu tả hay này trong các tiết giới thiệu cách viết
bài văn miêu tả.
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Hơn một học kì, tôi đem áp dụng cách dạy Tập làm văn như trên thì kết quả
cho thấy:
- Các em đều có hứng thú trong giờ học, tiết Tập làm văn luôn sôi nổi hào
hứng.
- 100 % các em đều viết đúng theo yêu cầu bài văn và viết hay, có sáng tạo.
- Đã có nhiều HS viết hay, biết dùng từ chính xác, sinh động, gợi tả, biết thể
hiện cảm xúc khi viết văn. Lời văn trong sáng, giàu hình ảnh.
- Nhiều em bộc lộ rõ ràng năng khiếu viết văn như em Nguyễn Ngọc Hương
Vân, Hà Minh Thư, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Anh Tiến, Phạm Thị Thanh
Thảo, Triệu Thùy Trang, Phạm Quốc Huy,...
Kết quả cụ thể về kiểm tra văn viết đến giữa học kì II như sau:
Lớp Sĩ số
Khảo sát chất lượng
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa HT
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
5A
24

9
37,5%
15
62,5%
0
Trên đây là một số kết quả viết văn mà học sinh lớp tôi đã đạt được trong
hơn một học kì qua. Kết quả đạt được tuy ở mức độ khiêm tốn nhưng đã động
viên được cả thầy và trò cố gắng hơn để đạt được kết quả cao hơn trong thời
gian tới.
Giải pháp trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục duy trì phát huy hiệu quả các biện pháp
trên để giúp học sinh viết văn ngày càng tốt hơn. Tìm và nghiên cứu tài liệu về
cách dạy học sinh viết văn nói chung và cách dạy viết văn tả người nói riêng.
Đặc biệt, tôi sẽ cố gắng tổ chức nhiều hơn các tiết học ngoại khoá, đưa
thêm một số hình thức vào giờ sinh hoạt lớp. Cụ thể: thi sáng tác thơ, viết văn
theo mùa, theo các chủ đề: Kỉ niệm ngày 8/3, 26/3, 30/4, 19/5...Thi viết về bà,
về mẹ, về anh bộ đội Cụ Hồ và về Bác Hồ kính yêu...
19


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Hơn một học kì tiến hành áp dụng dạy học sinh viết văn miêu tả kiểu bài
“Tả người” đạt kết quả tốt, tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Muốn dạy học sinh viết văn tả người tốt, giáo viên cần nắm vững các
kiến thức của môn học và hình thành cho học sinh các kiến thức cơ bản để thực
hiện chính xác và đầy đủ các yêu cầu của bài văn tả người.
- Luôn trau dồi vốn kiến thức văn học cho bản thân. Rèn luyện để có khả
năng cảm thụ văn học tốt.
- Nâng cao ý thức học văn cho học sinh, đồng thời giúp học sinh có
những kĩ năng cần thiết để viết văn hay bằng sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo,

cụ thể,... của giáo viên.
- Cần hướng dẫn học sinh học tốt ở tất cả các môn học: Tập đọc, Đạo
đức,... thực hiện phương châm “Mưa dầm thấm lâu”.
- Luôn động viên, khích lệ học sinh tự phát huy tính sáng tạo. Nhấn mạnh
vào thành công dù là nhỏ bé ở mỗi học sinh.
Trên đây là một vài suy nghĩ và biện pháp khi hướng dẫn học sinh viết
văn miêu tả kiểu bài “Tả người” theo phương pháp mới mà tôi đã làm bước đầu
có hiệu quả tốt.
Rất mong được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo và bạn
bè đồng nghiệp để giúp tôi ngày càng dạy tốt hơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Sơn, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hạnh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 1 + tập 2 - Nhà xuất bản Giáo
dục.
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 5, tập 1 + tập 2 - Nhà xuất bản giáo
dục.
3. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 tập 2 - Nhà xuất

bản Giáo dục.
4. Các hoạt động và trò chơi hỗ trợ dạy và học tích cực trong môn Tiếng
Việt.

5. Chuyên đề giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản giáo dục.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Cẩm Sơn.
TT

1
2
3

4

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp Kết quả
loại (Phòng, Sở,
đánh giá
Tỉnh,..)
xếp loại

(A, B
hoặc C)
Lồng ghép một số trò
Phòng Giáo dục và
Loại C
chơi trong dạy học
Đào tạo huyện Cẩm
Luyện từ và câu lớp 4.
Thủy.
Rèn chữ viết cho học
Phòng Giáo dục và
Loại C
sinh lớp 4.
Đào tạo huyện Cẩm
Thủy.
Một số kinh nghiệm
Phòng Giáo dục và
Loại C
trong dạy văn miêu tả
Đào tạo huyện Cẩm
trong phân môn Tập làm Thủy.
văn lớp 5.
Một số biện pháp trong Phòng Giáo dục và
Loại A
dạy học văn tả người
Đào tạo huyện Cẩm
cho học sinh lớp 5
Thủy.

Năm học

đánh giá
xếp loại
2010 - 2011
2012 - 2013
2014 - 2015

2016 - 2017

22


ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG.
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
……................................................................................................................................
........................................................................................................................................
............................................................. ……………………………………………………..

……................................................................................................................................
..............................................................……………………………………………………..

……................................................................................................................................
..............................................................
XẾP LOẠI: ………………….................

23



×