Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số KN nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn lịch sử lớp 5 ở trường TH đông hòa, đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.44 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT ĐÔNG SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ LỚP 5
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG HÒA
ĐÔNG SƠN – THANH HOÁ

Người thực hiện: Lê Phú Hồng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Đông Hòa
SKKN thuộc môn: Lịch sử
1
THANH HOÁ, NĂM 2016


MỤC LỤC

NỘI DUNG

TRANG

Mục lục
Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu



3

3. Đối tượng nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

3

Phần II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận

4

2. Thực trạng

5

3. Thực trạng chung

5

4. Thực trạng của vấn đề trong sử dụng trực quan trong dạy

5

học phân môn Lịch sử lớp 5B ở trường Tiểu học Đông
Hòa – Đông Sơn

5. Các biện pháp thực hiện

7

6. Biện pháp 1

7

7. Biện pháp 2

11

8. Biện pháp 3

11

9. Biện pháp 4

16

10. Biện pháp 5

16

11. Biện pháp 6

17

12. Hiệu quả thực tế giảng dạy phân môn Lịch sử lớp 5B mà
Tôi đã thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, nhằm hỗ trợ bài


19

dạy trên lớp
Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

20

2


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, phân môn Lịch sử ở Tiểu học có vị trí và ý nghĩa quan
trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu
rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên và
từ đó xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp
quy luật của tương lai.
Sinh thời, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Câu nói giản dị của Bác thật thấm thía và sâu sắc, bởi đã là người Việt Nam
thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình, đó cũng chính là đạo lí: “Uống nước
nhớ nguồn” của dân tộc. Lịch sử và tương lai được ví như đôi quang gánh, và cần
phải giữ cho đôi quang ghánh ấy được thăng bằng không được thiên về bên nào.
Bởi nếu ta nghiêng về phía sau thì ta sẽ trở thành người lạc hậu, còn nếu ta thiên về
phía trước thì bánh xe lịch sử sẽ đè bẹp chúng ta. Từ những suy nghĩ đó, ta nhận
thấy phân môn Lịch sử cũng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đó
cũng chính là điều mà Đảng và Nhà nước ta đang quan tâm.
Như chúng ta biết, con đường nhận thức ngắn nhất của học sinh nói chung và

học sinh Tiểu học nói riêng sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận
thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”.
Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hoá hoạt động
học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học sinh
tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình bằng
các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng trực quan” đã trở thành một
nhân tố khá quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là phương tiện giúp học
sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh rất
dễ nắm bắt.
Vì vậy, việc cho các em quan sát đồ dùng trực quan rồi từ đó các em rút ra
những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là con đường phát
triển tối ưu của giáo dục - đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm, làm
chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của
giáo viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học
sinh. Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh được
gọi là phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay còn
gọi là kiểu dạy học truyền thống.
Nhận thức được điều này, trong quá trình trực tiếp giảng dạy ở lớp 5 trường
Tiểu học Đông Hòa, Tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích, nó có ý nghĩa rất lớn
đối với việc nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử ở lớp 5. Chính vì vậy,
3


tôi đã tìm tòi được "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 5B trường Tiểu học Đông Hòa
– Đông Sơn" với mục đích tạo được niềm say mê, hứng thú học tập, đặc biệt là
tính tích cực, chủ động vấng tạo cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng phương pháp trực quan, đề ra một số phương pháp đổi mới nhằm

phát huy tính tích cực, chủ động học tập phân môn Lịch sử cho các em để tìm ra
những ưu điểm và hạn chế của việc học tập bộ môn, thái độ của từng học sinh đối
với phân môn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học phân môn lịch sử lớp 5".
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận
b. Phương pháp điều tra, phỏng vấn
c. Phương pháp thử nghiệm
d. Phương pháp xử lý số liệu, thống kê

4


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Trước sự đổi mới từng ngày, từng giờ của tri thức khoa học, cùng với sự
bùng nổ nhanh về kiến thức qua các phương tiện thông tin đại chúng thì việc truyền
thụ kiến thức cho học sinh đòi hỏi phải chính xác, kịp thời và có hệ thống, có định
hướng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Chính vì vậy, để dạy tốt một
tiết học giáo viên không ngừng phải nghiên cứu, tìm tòi nâng cao sự hiểu biết của
mình, và phải có kĩ năng sử dụng các tư liệu đặc biệt là đồ dùng trực quan minh
họa cho tiết dạy.
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học, tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực
tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy
học lịch sử, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện, khắc sâu kiến thức, khắc phục tình trạng
hiện đại hóa lịch sử của học sinh.

Trong dạy học phân môn lịch sử, đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu về
bản chất của các sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các
khái niệm lịch sử, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được giữ lại đặc biệt
vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực
quan. Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Mỗi khi quan sát vào loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng
thích nhận xét, phán đoán, hình dung xem quá khứ lịch sử được phản ánh, minh
họa như thế nào. Từ đó các em mới suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói
chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Trước tiên, hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học
lịch sử là do nhiều yếu tố quyết định như: Chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật,
bản đồ, tranh ảnh lịch sử,.… Phương pháp sử dụng, kỹ năng và năng lực sư phạm
của người giáo viên, đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Vì đồ dùng trực
quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết
hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “Tai nghe – mắt thấy” tạo
điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời
khá phong phú; phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, niềm say mê, hứng
thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu không sử dụng đồ
dùng trực quan đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán tư
tưởng, không tập trung vào các dấu hiệu, nội dung chính, thậm chí hạn chế sự phát
triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh.

5


Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực
quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập

cho học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, kiến
thức lịch sử. Nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ, khách quan với đời
sống hiện tại.
II. Thực trạng
1. Thực trạng chung
Trong những năm gần đây, phân môn Lịch sử ở Tiểu học nói chung và phân
môn Lịch sử lớp 5 nói riêng trong trường Tiểu học đã được chú trọng hơn trước.
Điều đó được thể hiện ở chỗ phân môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn
khác như Toán, Tiếng Việt, Khoa học,… được tổ chức kiểm tra cuối mỗi học kì và
kiểm tra tập trung theo lịch của Sở giáo dục, việc ra đề cũng được chú trọng hơn.
Thực tế giảng dạy ở Trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu học Đông
Hòa – Đông Sơn nói riêng cho thấy: Đồ dùng trực quan còn ít, chưa phong phú.
Không ít giáo viên đã coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan hoặc khi phải sử
dụng thì chủ yếu là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính
hình thức, chứ không dùng trong khi giảng dạy. Để đáp ứng yêu cầu dạy và học
lịch sử cũng như khắc phục tình trạng trước đây thì chúng ta cần phải biết kết hợp
hài hoà giữa nội dung bài học và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan.
2. Thực trạng của việc sử dụng trực quan trong dạy học phân môn Lịch
sử lớp 5B ở trường Tiểu học Đông Hòa – Đông Sơn
Cũng như thực trạng chung đại đa số giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra
những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông
qua các phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực
quan, ... Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò
và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã
kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương
tiện dạy học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ sách giáo khoa, hiện vật, phim, đèn
chiếu,…từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử.
Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy nghĩ trả lời các câu
hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời câu hỏi ở cuối mục
trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên lược đồ cho nên khi

học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy, tích cực thảo luận nhóm, đưa ra
các tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết.
Song bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên cũng như học sinh chưa thực sự
coi trọng việc sử dụng trực quan trong dạy và học. Cụ thể:
* Về phía giáo viên: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn
toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt
động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến
thức như: vẫn còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò
6


chép”. Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn
vào sách giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên.
- Thiết bị dạy học phân môn lịch sử (bản đồ, hiện vật,…) còn thiếu, các tranh
ảnh, lược đồ sách giáo khoa thì một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài
hoặc quan sát qua loa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ lược đồ mà
không hướng dẫn kỹ càng, học sinh không biết cách vẽ nên tiết dạy không có lược
đồ,… đặc biệt là đói với giáo viên dạy Tiểu học cùng một lúc phải dạy nhiều môn,
khiến cho việc sử dụng phương pháp đồ dùng trực quan càng khó khăn, dẫn đến tiết
học nhàm chán, học sinh nắm bắt kiến thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập
của học sinh chưa cao.
- Việc sử dụng hình vẽ, tranh ảnh chưa phù hợp về thời gian và cách khai thác.
Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh nhanh trả lời;
chưa có câu hỏi giành cho học sinh học chậm (chưa hoàn thành) nên các đối tượng
học sinh này ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một số ít
giáo viên lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi gợi mở
nên học sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học sinh. Vấn
đề này được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận nhóm, giáo
viên chỉ biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học sinh trả lời câu
hỏi như thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề nên học sinh

không trả lời được,...
- Sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ còn lúng túng về phương pháp, cách khai
thác tẻ nhạt, đại khái.
- Sử dụng băng hình, video còn nhiều hạn chế.
* Về phía học sinh: Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông
qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học
sinh còn đọc nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, một số học sinh còn lười
học thậm chí trên lớp không tập trung suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu
hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, so sánh, giải thích,…thì học sinh trả
lời còn lúng túng hoặc mang tính chất chung chung, không rõ ràng.
* Năm học 2015 – 2016, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy
lớp 5B. Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả học tập của các em để nắm bắt tình hình
về chất lượng học tập môn Lịch sử ở lớp dưới (lớp 4B) từ đó để có những biện
pháp phù hợp để dạy học. Kết quả khảo sát chất lượng học sinh thu được như sau
(tại thời điểm tháng 09 năm 2015):
Lớp
4B
(2014-2015)


số
25

Điểm 9, 10
TS
TL%
2
8.0


Điểm 7, 8
TS
TL%
6
24.0

Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
TS
TL%
TS
TL%
9
36.0
8
32.0

7


Như vậy, căn cứ vào bảng khảo sát chất lượng trên, Tôi nhận thấy rằng: Số
lượng các em học sinh chưa hoàn thành ở phân môn Lịch Sử lớp 4B rất cao. Tìm
hiểu nguyên nhân từ các câu trả lời rất thật của các em, đó là: Môn học đang còn
nặng về đọc hiểu giống như môn Tập đọc. Nội dung bài học cần cung cấp rất ít.
(Kênh chữ); Một số hình ảnh, tư liệu phục vụ việc tìm hiểu nội dung bài chưa có.
(Một bài chỉ có 2 đến 3 tranh ảnh, hình ảnh, lược đồ,…Bài nào nhiều nhất thì cũng
chỉ có 4 tranh ảnh, hình ảnh, lược đồ). Vì vậy, rất khó tìm câu trả lời của giáo viên
trong bài học.
III. Các biện pháp thực hiện
Trong qúa trình giảng dạy, các hình thức trùc quan thường dùng ë phân m«n

LÞch sö lớp 5 bao gåm chñ yÕu c¸c lo¹i sau:
- Hình vẽ, tranh, ảnh (Có trong SGK; Đồ dùng dạy học của phân môn trong
thư viện nhà trường)
- Mô hình (chỉ chuẩn bị được ở một số tiết hoặc đồ dùng tự làm trong tổ khối)
- Bản đồ, lược đồ (mượn ở thư viện nhà trường)
- Băng video (phải chuẩn bị hoặc sưu tầm, phục vụ cho một số bài giảng đặc
thù: Bài 10-Lịch sử lớp 5: Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập. Nhằm dẫn chứng giọng
nói đầy cảm xúc của Bác trong ngày quốc khánh 2-9-1945,...)
- Máy chiếu.
- Giáo án điện tử (GV soạn giảng, phải có đầu tư chuyên môn phục vụ bài
giảng, nhằm tạo cho bài giảng thêm sinh động)
1. Biện pháp 1: Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa
Hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình
có tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá
khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực.
a) Chân dung, hình vẽ (kênh hình)
Kênh hình trong sách giáo khoa là một bộ phận quan trọng của đồ dùng trực
quan trong dạy học phân môn lịch sử. Khác với trước đây kênh hình chủ yếu được
trình bày trong sách giáo khoa với vai trò để minh hoạ cho nội dung kiến thức trong
kênh chữ. Kênh hình trong sách giáo khoa mới được xây dựng và biên soạn được
trình bày với tư cách là nguồn cung cấp thông tin độc lập cho học sinh vừa là
phương tiện để minh hoạ, cụ thể hoá nội dung kiến thức có trong kênh chữ. Nó
cùng có nhiệm vụ chung trong việc cung cấp kiến thức cho học sinh, giúp các em
hiểu rõ các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tiến tới hình thành khái niệm và góp phần
giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cũng như phát triển toàn diện học sinh.
Học sinh lớp 5 cũng như các lớp nhỏ rất thích xem tranh ảnh, chân dung các
nhà Cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh khoa học,
các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài
mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh.


8


Vì vậy tôi đã làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh,
kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm
phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch
sử ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình
đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật.
+ Ví dụ: Khi giảng bài 10: “Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập” Khi dạy đến
hoạt động 1: tôi cho học sinh quan sát Hình 2-SGK trang 22 giới thiệu về quang
cảnh lễ đài, Bác Hồ cùng một số vị lãnh đạo của Nhà nước đang đứng trên lễ đài
của buổi lễ, tại Quảng trường Ba đình lịch sử vào ngày 2-9-1945; sẽ gây được hứng
thú cho học sinh trong việc tìm hiểu về sự trang trọng, niềm tự hào dân tộc.

Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập

9


+ Khi dạy bài 17: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ” trong phần hướng dẫn
học sinh khai thác, tìm hiểu nội dung bài, tôi cho học sinh quan sát Hình 1; Hình 2;
Hình 3; Hình 4; Chú ý hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ Hình 3: Lược đồ chiến
dịch Điện Biên Phủ. Sau đó, tôi mô phỏng trên lược đồ, dùng que chỉ: Nêu lên 3
mũi tấn công của quân ta; Các căn cứ điểm của địch,…; Dựa vào lược đồ, sự mô
phỏng, giảng giải của tôi, học sinh rất hứng thú, chăm chú lắng nghe không chớp
mắt. Lúc này, tôi phải đóng vai trò là một hướng dẫn viên du lịch. Vì vậy, tôi phải
chuẩn bị thật kĩ càng về nội dung thuyết trình của mình. Cũng như các thao tác chỉ
lược đồ phù hợp, chính xác với lời nói.
Có thể là hình vẽ được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ minh hoạ các sự

kiện lịch sử , ...)
Đối với hình vẽ: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiến hành theo các bước
sau: - Đọc tên và cho biết các sự kiện lịch sử trên hình vẽ.
- Tìm hiểu mốc thời gian diễn ra sự kiện lịch sử, địa phương diễn ra sự
kiện đó. - Rút ra nguyên nhân, ý nghĩa, bài học lịch sử từ sự kiện đó.
b) Tranh ảnh Lịch sử
- Đối với giáo viên: Tham khảo sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu lịch sử có liên
quan đến tiết dạy để minh hoạ trên lớp.
- Đối với học sinh: Ngoài việc làm bài tập và học ở nhà học sinh sưu tầm trên
sách báo, những tranh ảnh liên quan đến bài học. Đây cũng là yêu cầu rất khó đối
với các em học sinh Tiểu học của trường Tiểu học Đông Hòa – Đông Sơn. Vì nhiều
yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến.
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình
dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng.
Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt,
lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử, tôi luyện
cho các em thói quen quan sát một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích
để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử .
+ Ví dụ khi dạy bài 6: “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” tôi cho học sinh
quan sát:
Hình 1: Bức ảnh chụp Bến cảng Nhà Rồng đầu thế kỉ XX. Qua đó, nêu lên
được ý nghĩa lịch sử của địa danh này. Đây chính là nơi Bác Hồ ra đi tìm đường
cứu nước. Đây là một địa danh lịch sử không thể nào quên đối với Dân tộc ta, đối
với cá nhân con người Bác. Vì là nơi tiễn Người ra đi rời đất mẹ Việt Nam khi
người đang còn là một thanh niên mới tròn 21 tuổi.
Hình 2: Tàu Đô đốc La-tu-sơ Tờ-re-vin là con tàu Bác Hồ yêu quý của Dân
tộc ta có tên là Văn Ba đã làm phụ bếp trên tàu này.
+ Bài 8: “Xô Viết Nghệ-Tĩnh” để có nội dung trả lời cho câu hỏi 1: “Em hãy thuật
lại cuộc biểu tình ngày 12-9-1930 ở Nghệ An?”. Phong trào cách mạng 1930 -1931 với
đỉnh cao Xô viết Nghệ-Tĩnh tôi cho các em quan sát bức ảnh Xô Viết Nghệ-Tĩnh

10


Hình 1-sách giáo khoa trang 17; các em sẽ hiểu sâu sắc hơn không khí cũng
như tinh thần đấu tranh của nhân dân Nghệ-Tĩnh. Để học sinh có được sự hiểu biết
ban đầu về vai trò của Đảng vạch ra là hoàn toàn đúng đắn và xác thực với Cách
mạng Việt Nam mà Xô Viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào Cách mạng 1930
–1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách mạng tháng 8 sau này. Tôi cho học
sinh quan sát bức tranh hình 1 “Xô viết Nghệ-Tĩnh”, đặc biệt chú ý đến trang phục,
vũ khí,...của giai cấp nông dân và công nhân, khí thế đấu tranh của họ. Hướng dẫn
học sinh miêu tả.
Học sinh bước đầu nhận biết về vai trò, vị trí của Đảng Cộng Sản Việt Nam: Lần
đầu tiên nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng giai cấp công nhân và nông dân (đây là 2 lực
lượng đông đảo của Cách mạng đoàn kết bên nhau chống đế quốc và phong kiến)

Hình ảnh: Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh

Qua phong trào này Đảng ta đã huy động đông đảo quần chúng nhân dân
(hàng vạn người) đấu tranh có tổ chức, qua đó giáo dục họ. Đó là cuộc tổng diễn
tập đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945.
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện
trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học
sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa tương đối đầy đủ, do vậy việc sử
dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu và khắc sâu bài học lịch sử, phát huy tính tích
cực sáng tạo của học sinh là hiệu quả nhất. Hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa
có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư
tưởng, tình cảm mà còn phát triển tư duy học tập bộ môn lịch sử của học sinh. Sử
dụng tốt loại phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động,
11



tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát học sinh sẽ đi tới
công việc tư duy trừu tượng, nhưng quan sát tranh ảnh không thể gây ra sự chú ý,
tích cực trong việc nhận thức vấn đề của học sinh nếu không có sự hướng dẫn của
giáo viên. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh, rèn luyện khả năng sử
dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú, trong sáng. Vì vậy, trong dạy học
lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện qua
tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa, đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng
câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật, phân tích để nắm được kiến thức lịch sử biểu
hiện trong đồ dùng trực quan.
Tóm lại, việc sử dụng kênh hình (hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa) đã
in trong sách giáo khoa có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao kiến thức của học
sinh trong học tập bộ môn lịch sử. Bởi các hình ảnh rỏ ràng, cụ thể của kênh hình
không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh những cảm xúc
lịch sử trong tâm hồn các em. Đặc biệt là các ảnh chân dung còn tạo điều kiện giáo
dục thẩm mĩ cho các em và điều chủ yếu nhất là với hình ảnh cụ thể đó sẽ nâng cao
sự hấp dẫn của học sinh đối với bộ môn Lịch sử, làm cho kiến thức của các em
thêm phong phú, sinh động và sâu sắc. Với việc sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong
sách giáo khoa, học sinh lớp 5B tôi phụ trách đã hiểu bài tốt hơn.
Ví dụ: Lê Thị Trang, Nguyễn Thị Xuân Mai, Nguyễn Đăng Tú,....
2. Biện pháp 2: Sử dụng mô hình
Dùng những vật liệu đơn giản để tạo ra những hiện vật, những sự kiện lịch sử
đơn giản để minh hoạ cho tiết dạy sinh động hơn.
Tôi giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho sự kiện
lịch sử nào?.
Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các sự kiện lịch sử.
Từ các mô hình tôi giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức Lịch sử.
Cách sử dụng có hiệu quả:
- Tôi cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì?

- Mô hình đó gắn với sự kiện nào.
- Rút ra ý nghĩa, bài học
Việc sử dụng mô hình trong dạy học lịch sử lớp 5, phần lớn các em đã có ý
thức học tập phân môn và có phương pháp học tập tốt. Các em đã hiểu rõ và nắm
chắc các khái niệm, các sự kiện lịch sử trong chương trình Lịch sử lớp 5.
Cụ thể như các em: Trần Viết Khánh, Lê Thị Út, Lê Thị Trúc.....
3. Biện pháp 3: Sử dụng bản đồ, niên biểu, lược đồ, sơ đồ
Bản đồ, niên biểu, lược đồ là những đồ dung trực quan quy ước không thể
thiếu được trong dạy học phân môn Lịch sử nói chung và phân môn Lịch sử lớp 5
nói riêng. Nhờ có những đồ dùng trực quan này mà học sinh có biểu tượng đúng
đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta cũng biết mỗi một
sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với mốc thời gian và không gian nhất định,
12


nếu ta tách sự kiện lịch sử khỏi không gian và thời gian ta sẽ không hiểu được nội
dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không
chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa điểm
đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian, thời gian cũng như đặc điểm điều
kiện tự nhiên của địa điểm đó.
Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích
các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát
triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học.
+ VÝ dô: Khi dạy bài 14: Thu - Đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”.
Tôi treo lược đồ hình 2: Lược đồ chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Thông qua
việc trực quan của lược đồ này, tôi mới định hướng cho học sinh xác định các địa
danh tiêu biểu và trả lời được câu hỏi 2-SGK trang 32; “Nêu một số địa danh tiêu
biểu cho chiến thắng của ta trong chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947”.


Lược đồ chiến dịch Thu – Đông 1947
13


Chỉ ghi một vài địa danh như: Hà Nội, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao
Bằng,...
Chuẩn bị một số mũi tên đính kèm bằng giấy màu. GV giới thiệu về 3 màu
của mũi tên, để học sinh nhận biết trên lược đồ:
Mũi tên màu đen: Đường tiến công của giặc.
Mũi tên màu đỏ: Quân ta tiến công chặn đánh.
Mũi tên nét đứt: Quân địch rút lui, tháo chạy.
Qua các ký hiệu được nổi lên trên lược đồ trống học sinh hiểu được một cách
dễ dàng, qua các đợt tấn công của ta quân địch bị phân tán lực lượng chủ yếu từ
một nơi thành 5 nơi, giống như võ sĩ khổng lồ nay bị ta căng tay căng chân ra thì võ
sĩ ấy dứt khoát khoẻ mấy cũng thua. Như vậy, địch từ chỗ chủ động tập trung đánh
ta nay bị động phải phân tán ra đối phó với lực lượng của chúng bị tiêu hao.
+ Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ cho là “một
pháo đài bất khả xâm phạm”. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng lược đồ Hình 2:
Lược đồ chiến dịch Biên Giới Thu-Đông 1950, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và
một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện Biên
Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến
trường Lào và Bắc bộ.

14


Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã học, nội
dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng nắm bắt, việc
sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư

duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về Địa lí.
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu
ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung
lịch sử được thể hiện trên bản đồ.
Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các
em khai thác kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã
được mã hoá trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ.
- Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện
được các kỹ năng bản đồ.
- Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì.
- Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng
đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì? Bằng màu sắc gì?...
- Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ.
- Hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với các kiến thức lịch sử để
phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự kiện giữa các đối tượng.
Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu thực tế đã
đạt được những kết quả cao, hầu hết các em đã chăm chú tìm hiểu số liệu, thời gian
các sự kiện, lắng nghe, dể hiểu và nắm được bài ngay trên lớp. Qua các việc sử
dụng lược đồ các em cũng có thể đánh giá được tác động của các điều kiện tự nhiên
liên quan đến sự kiện lịch sử và cũng qua đó giáo viên cũng có thể đánh giá được
khả năng lĩnh hội của các em và có hướng điều chỉnh, sửa chữa kịp thời cho các em
và đây cũng là phương pháp kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo của học sinh.
Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong kĩ năng quan sát và kể lại, trình bày
lại diễn biến cuộc kháng chiến qua bản đồ, lược đồ.
Một phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử không thể
thiếu là sử dụng niên biểu để hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời
gian, đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều
nước trong một thời kì.
Ví dụ: Khi dạy bài 11: Các sự kiện lịch sử tiêu biểu từ năm 1858 đến năm 1945.


Thời gian

Các sự kiện tiêu biểu

1-9-1858

Pháp nổ súng xâm lược nước ta

1859 - 1864

Phong trào chống Pháp của Trương Định
Phong trào Cần Vương.
Phong trào Đông Du
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

1905 - 1908
3-2-1930

Các nhân vật lịch
sử tiêu biểu
Trương Định
Tôn Thất Thuyết
Phan Bội Châu
Nguyễn Ái Quốc
15


Tháng 8 - 1945

Cách mạng tháng Tám


Ví dụ: Khi dạy bài 29
Ôn tập: Lịch sử nước ta từ giữa thế kỉ XIX đến nay

Thời gian
Sự kiện tiêu biểu
Cuối 1945 - 1946 Toàn Đảng, toàn dân diệt “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”.
Toàn quốc đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
19/12/1946
Thu – Đông 1947 Chiến dịch Việt Bắc.
Thu – Đông 1950 Chiến dịch Biên giới.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
07/5/1954
Sau 1954
12/1955

Nước nhà bị chia cắt.
Miền Bắc xây dựng Nhà máy Cơ khí Hà Nội.

17–1–1960
Miền Nam “Đồng khởi”, tiêu biểu là của nhân dân tỉnh Bến Tre
Tết Mậu thân 1968 Tấn công vào các thành phố, cơ quan đầu não của Mĩ – Ngụy.
12 - 1972
30/4/1975
25–4–1976
06/11/1979

Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn
Miền Nam – thống nhất đất nước.

Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam thống nhất
Khởi công xây dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình.

Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng dạy học là sử dụng bản đồ, lược đồ, lập niên
biểu, việc sử dụng sơ đồ vào dạy học lịch sử cũng góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Thông qua việc giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ
sơ đồ vào dạy lịch sử sẽ cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng những mô hình, hình học
đơn giản, diễn tả tổ chức cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các
sự kiện lịch sử...
Ví dụ: Khi dạy bài 11:
Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp
xâm lược và đô hộ ( 1858 – 1945)
Câu 4: Nêu tên sự kiện lịch sử tương ứng với các năm trân trục thời gian.
1858
Pháp nổ súng
xâm lược nước ta.

1930
Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời.

1945
Bác Hồ đọc Bản
tuyên ngôn Độc lập.

16


Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu thực tế đã
đạt được những kết quả cao, hầu hết các em đã chăm chú tìm hiểu số liệu, thời gian

các sự kiện, lắng nghe, dể hiểu và nắm được bài ngay trên lớp. Không những thế
còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử, khắc sâu kiến thức lịch sử, có thái độ căm
phẫn trước những hành động vơ tàn bạo của thực dân Pháp.
Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu, sơ đồ... trong quá trình
giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi gây được sự chú ý tập trung của học sinh,
phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như việc khái quát, tổng kết kiến thức lịch
sử của học sinh. Chính vì thế trong các giờ dạy lịch sử tôi đã tích cực sử dụng có
hiệu quả các loại đồ dùng trực quan này nên học sinh hiểu bài hơn rất nhiều.
Ví dụ: Nguyễn Quỳnh Anh, Lê Thị Trà My, ......
4. Biện pháp 4: Sử dụng băng hình, video
Là loại phương tiện và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo cho học sinh có những
phương pháp học tập mới, biết quan sát, nghe, nhìn; có khả năng lĩnh hội kiến thức
với chất lượng cao, tốc độ nhanh. Với loại phương tiện này người giáo viên đòi hỏi
phải có sự chuẩn bị công phu: Phòng bộ môn, tivi, đầu video... và cơ bản là phải
hướng dẫn, chỉ đạo tốt học sinh mới lĩnh hội chắc kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy bài Chiến dịch Biên giới thu- đông 1950 tôi đã sử dụng băng
video học sinh rất dễ dàng hiểu được quá trình chuẩn bị của quân và dân ta cũng
như diễn biến của chiến dịch, học sinh tiếp thu bài nhanh, rất hứng thú với bài học.
Hoặc khi dạy bài 26-Lịch sử lớp 5: “Tiến vào Dinh Độc lập” tôi sử dụng băng
video thì học sinh dễ cảm nhận được hào khí của dân tộc, của những chiếc xe tăng
đầu tiên húc đổ cổng Dinh Độc lập, hình ảnh do bà Phơ-răng-xoa đờ Muyn-đơ
cung cấp. Quân đội ta cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch tiến
vào trung tâm Sài Gòn,... Diễn biến của chiến dịch như thế học sinh sẽ tiếp thu bài
rất nhanh và sẽ nhớ lâu những hình ảnh mà mình đã được xem qua băng hình...
Thông qua băng hình, video tư liệu trên giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về nội
dung bài học, từ đó các em có ý thức lên án chiến tranh, bảo bệ nền hòa bình. Sống
trong thời kỳ hòa bình phải biết sống như thế nào cho xứng đáng với cha ông, với
các anh hùng đã hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời các em có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo
đức, ý thức về vị trí và vai trò của phân môn Lịch sử.

Tóm lại, trong dạy học Lịch sử ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói
riêng, việc kết hợp chặt chẽ giữa lời nói sinh động với sử dụng đồ dùng trực quan là
một trong những điều quan trọng nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục
và phát triển, học sinh hieur bài hơn.
Ví dụ: Lê Phú Thông, Lê Quốc Khánh, Lê Sỹ Thắng, Lê Thị Vân....
5. Biện pháp 5: Sử dụng đèn chiếu trong dạy học lịch sử

17


Sử dụng đèn chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số
tranh ảnh, phần bài học quan trọng giáo viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong
sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học
trên máy chiếu.
Máy chiếu (kết nối với máy vi tính) là phương tiện nghe nhìn được sử dụng
hiệu quả khi thực hành giảng dạy, hỗ trợ cho việc trình chiếu và hiển thị các thông
tin trong nội dung bài giảng, phục vụ đặc lực cho việc truyền đạt ý tưởng của giáo
viên đến học sinh. Việc biên soạn giáo án điện tử và triển khai bài giảng, không thể
thiếu thiết bị máy chiếu. Hiệu quả của quá trình dạy, học phụ thuộc vào việc đổi
mới phương pháp giảng dạy của giáo viên theo hướng tích cực, trong đó phải biết
kết hợp sử dụng linh hoạt máy chiếu với các phương tiện khác.
Ví dụ: Khi dạy bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Giáo viên dùng đèn chiếu trình chiếu một số hình ảnh Quân và Dân ta đang
phục vụ cho chiến dịch.

Thông qua quá trình sử dụng, máy chiếu Projector có thể mang lại những tác
dụng lớn như: làm cho công việc dạy học nhẹ nhàng, thoải mái; hỗ trợ giáo viên hệ
thống hóa kiến thức; có khả năng phóng lớn nội dung bài giảng; sử dụng hình ảnh,
màu sắc, âm thanh phong phú, sống động; tự động hoá việc triển khai bài giảng.
Kết quả có nhiều học sinh hiểu bài hơn.

Ví dụ: Nguyễn Xuân Thành, Lê Xuân Mai, Nguyễn Hiền, Lê Sỹ Đại, ....

18


6. Biện pháp 6: Đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự làm, hoặc tự
sưu tầm
Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa đã phong phú hơn trước. Song do
hạn chế về số trang nên các bản đồ, lược đồ, niên biểu, tranh ảnh minh họa thì lại
thiếu hẳn đôi lúc không có. Chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại này trong quá trình
giảng dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung nhằm tăng tính hình ảnh,
tính cụ thể cho các sự kiện trong sách giáo khoa, giúp cho việc tiếp thu kiến thức
của các em có hiệu quả. Đối với những bài học nào cần có bản đồ mà sách giáo
khoa không có, giáo viên tự sưu tầm trên mạng, trong nhà sách, ken phóng to hoặc
tự vẽ trên cơ sở nội dung của bài nhằm bổ sung cho sách giáo khoa.
Đối với những bài cần tranh ảnh chân dung lịch sử minh họa, giáo viên và học
sinh nên sưu tầm: trên mạng, tài liệu tham khảo và đưa vào nội dung của bài học
nhằm tăng tính hình ảnh gây hứng thú, khắc sâu bài học. Những bức ảnh này có giá
trị lịch sử to lớn giúp học sinh hiểu sự kiện một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm xúc
lịch sử của các em.
Ví dụ: Khi dạy bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu chiến dịch Điện Biên Phủ qua sa bàn tự
làm, sau khi quan sát và phân tích sa bàn tôi cho học sinh tìm hiểu nội dung và
tường thuật lại diễn biến của chiến dịch Với cách tiếp cận bài mới như vậy, học
sinh không những dễ nắm vững kiến thức bài học mà còn hứng thú xây dựng bài,
và nhớ lâu hơn về sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc.

19



Đồ dùng dạy học tự làm

Tóm lại: Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng
các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho
sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch
sử. Song khi sử dụng giáo viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học bộ môn lịch sử và đã có nhiều học sinh tiến bộ rõ rệt.
Ví dụ: Hoàng Anh, Nguyễn Hằng, Nguyễn Quỳnh, Xuân Mai,....
IV. Hiệu quả thực tế giảng dạy phân môn Lịch sử lớp 5B mà tôi đã
thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, nhằm hỗ trợ bài dạy trên lớp
Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm
này vào các tiết dạy phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Đông Hòa đạt được
kết quả khá cao. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất
phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và các tiết dạy có sử dụng đồ dùng
trực quan, gây được hứng thú học tập hơn, học sinh tích cực chủ động, sáng tạo để

20


mở rộng hiểu biết, đồng thời nhanh chóng lĩnh hội kiến thức sâu sắc, không khí học
tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi hy vọng với việc áp
dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao hơn trong các kì thi và đặc biệt
học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn. Kết quả kiểm tra khảo sát sau khi áp dụng
Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
phân môn Lịch sử lớp 5B trường Tiểu học Đông Hòa – Đông Sơn đã đạt kết quả
học sinh đạt được cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát tại thời điểm tháng 3 năm học 2016
Lớp
5B



số
25

Điểm 9, 10
TS
TL%
8
32.0

Điểm 7, 8
TS
TL%
9
36.0

Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
TS
TL%
TS
TL%
8
32.0
0
0

Kết quả đạt được ở trên cho thấy tính khả thi của việc áp dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học phân môn Lịch sử là rất phù hợp, rất cần thiết. Bởi thông qua
đồ dùng trực quan giúp học sinh lĩnh hội tri thức, phát huy tính tích cực, chủ động

hoạt động độc lập gây hứng thú trong học tập, chất lượng học sinh đạt điểm 9, 10
tương đối cao, không có học sinh chưa hoàn thành.
Như vậy, sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường Tiểu học là
một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo vận
dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động chuyên môn. Mỗi
giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận
xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định
những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.

21


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Như đã nói ở những phần trên, Lịch sử là môn khoa học xã hội nghiên cứu về
quá khứ để hiểu hiện tại và dự đoán tương lai. Cho nên nó là môn học rất thiết thực
đối với đời sống xã hội loài người. Lịch sử là môn khoa học xuất hiện sớm so với
các môn khoa học khác như: Toán, Địa lí... học sinh được tiếp xúc ngay từ khi mới
vào đầu cấp. Muốn học sinh học tốt môn học này, phải thu hút các em vào học từ
những ngày đầu tiên khi được học. Để thu hút được học sinh tích cực học tập, trước
sự thay đổi mạnh mẽ của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, hiện đại hoá đất nước
đòi hỏi ngành giáo dục đào tạo phải nâng cao chất lượng, đổi mới trong giáo dục
cho học sinh tích cực học tập, một trong những phương pháp phát huy được tính
chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh đó là việc sử dùng trực quan, nó chính là
một khâu quan trọng trong quá trình dạy học.
Đồ dùng trực quan là phương tiện dạy học không thể thiếu được trong hoạt
động dạy học các môn học nói chung và dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 nói riêng.
Bằng những dụng cụ trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương pháp tốt nhất
giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai trò chủ thể của học
sinh trong quá trình học tập. Muốn thực hiện tốt phương pháp sử dụng đồ dùng trực

quan trong giảng dạy lịch sử, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc
thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không
có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng
không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo
thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ
bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo,… đáp ứng được
những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp
hoá - hiện đại hoá.
2. Kiến nghị
* Với nhà trường
Cần tổ chức những buổi học ngoại khoá, những buổi tham quan thực địa trong
các tiết học ngoại khoá, giúp các em có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu thêm những
kiến thức ở sách vở, rút ngắn khoảng cách giữa lí thuyết với thực tế.
* Với gia đình
Cần quan tâm đến con em, tạo điều kiện cho các em học tập thật tốt, giành cho
các em nhiều thời gian hơn để các em học phân môn Lịch sử. Các em ngoài học
trên lớp cũng cần có nhiều thời gian ở nhà để tự học tập, nghiên cứu và tìm tòi.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nho nhỏ được rút ra từ thực tiễn trong quá
trình giảng dạy của bản thân cá nhân tôi. Với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô
22


giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về chuyên môn của nhà trường để bản
thân được học hỏi thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn giờ dạy Lịch sử ở Trường Tiểu
học nói chung và ở trường Tiểu học Đông Hòa nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Hòa, ngày 23 tháng 3 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ

TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT ĐỀ TÀI

Lê Phú Hồng

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo dục học đại cương.
2. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm.
3. Tâm lí học đại cương.
4. Phát huy tính tích cực trong dạy học.
5. Chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
6. Đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học.
7. Tư duy lịch sử.
8. Thiết kế bài giảng lịch sử.
9. Phương pháp dạy học lịch sử (NXB Giáo dục Hà Nội 2000).

10. Đại cương lịch sử Việt Nam tập III (NXB GD).
11. Sách hướng dẫn giảng dạy lịch sử 5 (NXB GD).
12. Những cơ sở lí luận dạy học (NXB GD).

24




×