Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 theo chương trình tiểu học mới VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.93 KB, 21 trang )

PHẦN I : MỞ ĐẦU
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Tiếng Việt là một môn học quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương
trình Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh.
Phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt vì nó đảm nhận
việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng
hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông .
Dạy phân môn Tập đọc trong các trường Tiểu học đang là một vấn đề được
các trường, các nhà nghiên cứu và toàn xã hội quan tâm. Biết đọc là có thêm một
công cụ mới để học tập, để giao tiếp, để nắm bắt được mọi thông tin diễn ra hàng
ngày trong xã hội. Thông qua việc đọc các tác phẩm văn chương, con người không
những được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những
ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh cũng như được bồi
dưỡng tâm hồn. Chính vì vậy, dạy Tập đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học, nó trở
thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Học sinh đọc tốt, đọc
một cách có ý thức sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, bồi dưỡng các em lòng yêu
cái thiện, cái đẹp, dạy các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như có những kỹ
năng mà các em sẽ sử dụng suốt đời.
Trong khi đó, ở trường tiểu học việc dạy đọc bên cạnh những thành công, còn
nhiều hạn chế, phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Học sinh của chúng ta
chưa đọc được như mong muốn. Kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được
yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các em chưa nắm chắc được công cụ hữu
hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn
bản được đọc. Giáo viên cũng còn lúng túng khi dạy Tập đọc : Cần đọc bài tập đọc
với giọng như thế nào ; làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh ; làm thế nào
để các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn ; làm thế nào để các em hiểu
được văn bản được đọc ; làm thế nào để những gì đọc được tác động vào chính
1


cuộc sống của các em v,v…Đó là những gì trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ Tập


đọc.
Từ những suy nghĩ trên bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện
pháp rèn kĩ năng đọc trong dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 theo chương trình tiểu
học mới VNEN ” để nâng cao chất lượng dạy học của mình .
II . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tích lũy thêm cho bản thân những
kiến thức và kinh nghiệm và tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất, hiệu quả nhất
cho phân môn Tập đọc góp phần rèn kĩ năng đọc cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học.
III . ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Học sing lớp 2A trường Tiểu học Đông Cương năm học 2015 – 2016 .
IV . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau :
- Phương pháp sưu tầm, nghiên cứu tài liệu : Thường xuyên sưu tầm tra cứu
sách báo, tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài.
- Phương pháp quan sát : Thực hiện quan sát trong quá trình học tập trong lớp,
ngoài giờ học tập, đặc biệt theo dõi trong những giờ Tập đọc của HS nhằm đánh giá
thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin : Tôi xây dựng một
hệ thống một số các câu hỏi điều tra học sinh nhằm tìm ra nguyên nhân đọc chưa
đúng , chưa hay của học sinh . Tiến hành điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân
tích đánh giá việc học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp. Qua đó
nắm bắt được thực trạng.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu : Tôi sử dụng phương pháp này để
thống kê, xử lý các số liệu thu thập được.

2


PHẦN II : NỘI DUNG

I.CƠSỞLÍLUẬN :
Phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá
khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương
thời đều được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì chúng ta sẽ gặp khó
khăn trong việc tiếp cậnvới nguồn thông tin, tri thức của con người. Không biết
đọc, con người sẽ không có được những điều kiện giáo dục mà xã hội dành cho họ.
không thể hình thành một nhân cách toàn diện, không thể làm chủ trong xã hội hiện
đại. Biết đọc con người có thể dễ dàng tiếp thu nền văn minh của nhân loại.
Phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và
con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt. Biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều
hơn, hướng các em tới cái thiện, cái đẹp, dạy cho học sinh biết cách suy nghĩ lô gíc,
tư duy có hình ảnh.Những hiểu biết về các tác phẩm văn học sẽ góp phần rèn luyện
nhân cách cho học sinh.
II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ :
1. Thuận lợi
Trường Tiểu học Đông Cương thành phố Thanh Hoá những năm gần đây được
xây dựng khang trang, thoáng mát với diện tích khá rộng trên 1.300m 2, có đầy đủ
các cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo phục vụ cho việc dạy và học. Đội ngũ
giáo viên nhiệt tình, thân thiện luôn được sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám
Hiệu và các Đoàn thể trong nhà trường. Đối với học sinh luôn nhận được sự giúp
đỡ trong học tập từ nhiều phía.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội
dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn,
từng bài học ; chủ động điều chỉnh các hoạt động dạy học cho phù hợp với đặc
điểm trình độ học sinh của lớp mình, trường mình .
2. Khó khăn:
3


a. Học sinh:

Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học khả năng tập chung của
các em còn kém nên nhiều em còn ngại đọc bài , đọc qua loa không tìm hiểu nội
dung các bài đọc.
Đây là một trường vùng ven Thành phố, điều kiện kinh tế khó khăn, bố mẹ
chủ yếu làm nghề nông, buôn bán nhỏ lẻ, một số gia đình đi làm xa nhà để kiếm
sống nên nhiều em có hoàn cảnh khó khăn vì vậy nên gia đình ít quan tâm đến việc
học của các em , việc học tập của con em đều phó mặc cho giáo viên. Các em còn
ảnh hưởng của tiếng địa phương nên còn phát âm chưa chuẩn. Gia đình chưa chú
trọng đến việc rèn nói chuẩn tiếng phổ thông cho học sinh .
b. Giáo viên :
Nhiều năm giảng dạy Tập đọc ở lớp 2 tôi nhận thấy: Khả năng tiếp thu môn
học Tiếng việt của các em còn nhiều hạn chế so với các môn Toán hay Tự nhiên xã
hộivà các môn học khác....Ở phân môn Tập đọc lớp 2 đa số các em đọc to rõ ràng
song cũng có một số em đọc chưa lưu loát, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm,
dấu phẩy, nhiều em đọc chưa thể hiện được tình cảm nội dung văn bản, các em
chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng tâm . Trong khi sắm vai,
đọc đối thoại các em còn lúng túng, thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của
mình. Một số em học sinh đọc yếu chưa xác định được giới hạn của những câu đối
thoại, khi đọc thường cũng chưa biết cách thể hiện giọng đọc như thế nào cho phù
hợp .
Dạy học theo hướng dẫn học Tiếng Việt 2 , giáo viên phải vất vả hơn do phải
hỗ trợ kịp thời đối với từng nhóm, thậm trí từng cá nhân học sinh trong các nhóm.
Giáo viên cần phải linh hoạt, uyển chuyển trong hoạt động hướng dẫn học sinh
học . Giáo viên phải biết chọn những hoạt động nào mình trực tiếp giúp đỡ học
sinh, những hoạt động nào thì điều hành các nhóm trưởng hoặc những học sinh có
năng lực giúp đỡ học sinh còn khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ học tập.
4


Trong thực tế hiện nay, người giáo viên phải thay đổi cách dạy để các em có

thể nắm bắt được tri thức, việc rèn đọc cho học sinh là hết sức cần thiết. Giáo viên
cần dạy học sinh đọc như thế nào để người nghe hiểu được nguyên vẹn nội dung
cũng như giá trị nghệ thuật của văn bản, lôi cuốn được người nghe, cảm thụ được
cái hay, cái đẹp của văn bản. Học sinh không những đọc được nội dung văn bản,
mà cũng phải đọc hay, đọc diễn cảm, đây là mục tiêu mà các thầy giáo, cô giáo
dạy lớp 2 cần phải rèn và là đích để đạt tới .
Mặt khác phần luyện đọc nhiều giáo viên cho là dễ, nhưng thực chất đây là
phần khó nhất, phần trọng tâm của bài giảng. Ở khâu này, nhiều giáo viên lại không
biết dạy như thế nào. Dạy sa vào giảng văn nhiều hơn là rèn đọc, chưa chú ý đến
tốc độ đọc của các em theo yêu cầu về kiến thức và kỹ năng cơ bản phù hợp với
từng khối lớp, chưa phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong khi đọc.
Một số giáo viên mặc dù có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, nhưng do
phương pháp dạy học truyền thống còn tiềm tàng, khả năng nắm bắt phương pháp
mới cũng hạn chế, các bước lên lớp chưa linh hoạt. Vì vậy tiết Tập đọc còn buồn tẻ,
đơn điệu. Các em học vẹt. Khâu thực hành còn yếu, nhất là khâu luyện đọc, đặc
biệt là rèn đọc diễn cảm cho học sinh.
Hầu hết các giáo viên đều dạy học phụ thuộc vào sách Hướng dẫn học Tiếng
Việt, không mạnh dạn thay đổi, điều chỉnh, nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới sáng tạo
bởi sợ sai, sợ lệch hướng,... Vì vậy các giờ Tập đọc đều được dạy theo một khuôn
mẫu, rập khuôn máy móc, cứng nhắc. Nó có ưu điểm là thực hiện đúng phương
pháp song lại có nhiều nhược điểm là xa rời thực tế, tách rời học sinh , giờ học khô
khan, rời rạc. Bởi vậy, thực tế chất lượng học sinh chưa cao, khả năng đọc, hiểu,
cảm thụ hình thành ý thức và hành động ở học sinh chưa đáp ứng thoả đáng nhu
cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của nhà trường, gia đìnhvà xã hội .
Việc điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt đối với giáo viên còn nhiều
mới mẻ. Giáo viên vừa dạy vừa tự điều chỉnh và rút kinh nghiệm, học tập lẫn nhau
5


chưa có một tài liệu nào hướng dẫn cụ thể nên giáo viên còn gặp rất nhiều lúng

túng.
Năm học 2015 – 2016, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 2A . Ngay từ dầu năm học tôi đã tìm hiểu về khả năng đọc của từng học sinh.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau:

Lớp



Đọc ngọng

số

Đọc sai
phụ âm

Đọc sai

Đọc rõ

dấu

ràng, lưu

đầu

Đọc diễn cảm

loát
2A


31

SL
2

%
6,5

SL
3

% SL
9,7 5

% SL
16,1 16

%
51,6

SL
5

%
16,1

Kết quả trên cho thấy chất lượng đọc của học sinh lớp 2A chưa cao. Để nâng
cao chất lượng học sinh cũng như tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm, tôi
đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu một số giải pháp giúp học sinh đọc tốt hơn nữa và

mạnh dạn áp dụng vào giảng dạy .
III. GIẢI PHÁP VÀ CÁCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN :
Nhìn chung, một bài học của Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 tập trung vào 4 kĩ
năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Bốn kĩ năng được lồng ghép, tích hợp tự nhiên
vào các bài, không tách bạch thành các phân môn như sách giáo khoa và cách dạy
cũ. Không có kĩ năng nào bị coi nhẹ. Trong quá trình giảng dạy, từ những kinh
nghiệm đúc rút được trong những năm qua tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 :
1.Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh:
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần xác định rõ mục tiêu rèn đọc - tức là
rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế
đọc. Khi ngồi đọc, cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 20

6


đến 30 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu, thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô
giáo gọi đọc học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Các hình thức : từng HS đọc cá nhân, từng cặp HS đọc, cả nhóm (bàn, tổ) đọc
đồng thanh, đọc truyền điện , đọc tiếp sức, đọc phân vai …
Yêu cầu đầu tiên đối với khả năng đọc chính xác, luyện đọc chính xác thực
chất là rèn luyện ngữ âm cho học sinh.
Thống kê lỗi phát âm ở lớp mà các em hay sai, tôi qui về 3 loại sau đây:
+ Sai phụ âm đầu : ch/tr , s/x , l/n.
Ví dụ : cây tre/cây che; sung / xung , sâu / xâu; lón/nón…
+ Sai vần : lòe loẹt thành lè lẹt, khuya đọc thành khia….
+ Sai dấu thanh : dấu ngã đọc thành dấu hỏi .
Ví dụ : ''vẽ tranh'' đọc là ''vẻ tranh'' , ...
Phần lớn những lỗi mà học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân :
+ Nguyên nhân chủ quan : như nói lắp , nói ngắn lưỡi – khó đọc do bẩm sinh.

+ Nguyên nhân khách quan : do cách phát âm sai của phương ngữ tạo cho các em
thói quen nghe và nói từ khi nhớ .
- Để dạy cho học sinh phát âm đúng , tôi không quên rèn kĩ năng nghe. Giữa
nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng
hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc.
- Để chữa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ
âm và ý nghĩa từ. Sau khi giải thích rõ cho học sinh tôi đọc mẫu cho học sinh quan
7


sát thật kĩ, có thể kết hợp cho một vài học sinh khá giỏi đọc lại. Sau đó cho học
sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần . Giáo viên cần sửa lối
sai triệt để đến từng học sinh.
Ví dụ : phát âm s / x :
+ Khi phát âm s ( sờ ) : phải uốn lưỡi , hơi thoát ra chân răng đầu lưỡi.
+ Khi phát âm x ( xờ) : hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng .
Ví dụ : phát âm tr / ch :
+ Phát âm tr ( trờ ) : hơi ra qua động tác bật đầu lưỡi với chân răng .
- Mặt khác tôi cũng có thể sửa sai cho học sinh qua việc giảng nghĩa từ .
Ví dụ : ' '' cũ /củ'' : sách cũ, sách mới ; củ khoai.củ sắn.
“ mở/mỡ ” : mở cửa ; thịt mỡ
“ xâu / sâu '' : '' xâu kim '' với '' sâu trong lòng đất ''
Tôi có thể rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh bằng cách sau khi bạn trong nhóm
đọc, bạn khác phát hiện xem bạn đọc sai ở đâu , vì sao sai , nên đọc lại như thế nào
cho đúng.
Bên cạnh đó tôi có thể rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh bằng cách tùy theo
nội dung bài học tổ chức cho học sinh thi đọc đúng , đọc nhanh các từ khó đọc, câu
khó. Rèn cho các em ngắt giọng và nhấn giọng đúng.
Ví dụ : Trong bài tập đọc Người mẹ hiền ( Hoạt động cơ bản 2 Bài 8A ) giáo
viên cần hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng , ngắt nghỉ đúng câu : Cô xoa đầu

Nam / và gọi Minh đang thập thò ở của lớp, / nghiêm giọng hỏi :// “Từ nay các em
có trốn học đi chơi nữa không ?” //.
8


- GV cần lắng nghe HS đọc để phát hiện khả năng đọc của mỗi em, từ đó có
cách rèn luyện thích hợp với từng em ; khuyến khích HS trong lớp trao đổi, nhận
xét về chỗ “được”, hay “chưa được” của bạn, nhằm giúp HS biết rút kinh nghiệm
để đọc tốt hơn...
- Đặc biệt đối với những học sinh đọc sai do tiếng địa phương giáo viên cần
phối hợp kịp thời với phụ huynh để hướng dẫn học sinh nói, đọc, viết chuẩn tiếng
phổ thông. GV cần lập danh sách những học sinh phát âm chưa chuẩn, để rèn cho
các em.
Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 yêu cầu học sinh phải đọc rõ ràng,
rành mạch. Không đọc lí nhí, giọng quá nhỏ, không dừng lâu quá để đánh vần, nghỉ
hơi ở dấu chấm, dấu phẩy, chỗ cần tách ý. Biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ
láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra còn biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi, câu cảm
biết phân biệt lời dẫn chuyện với lời đối thoại. Dù đọc ở mức độ nào cũng đều yêu
cầu phát âm đúng.
2.Rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh:
Hoạt động đọc thầm phần lớn được diễn ra cùng với hoạt động đọc hiểu . Hoạt
động đọc thầm được dùng làm thông tin cho hoạt động đọc hiểu.Trong mô hình
VNEN, học sinh không chỉ biết phải học cái gì, mà quan trọng hơn, học sinh còn
phải biết học như thế nào, biết kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình.
Hướng dẫn học Tiếng việt 2 được biên soạn theo định hướng tổ chức học sinh
tự học theo sự hướng dẫn của giáo viên. Theo định hướng này , học sinh tự đọc các
nhiệm vụ trong sách và làm theo chỉ dẫn. Do vậy hoạt động đọc thầm của học sinh

9



diễn ra liên tục trong tất cả các bài học, ở hầu hết các hoạt động. Tốc độ và kết quả
học của học sinh phụ thuộc nhiều vào hoạt động đọc thầm.
Giáo viên cần kiểm soát quá trình đọc thầm bằng cách qui định thời gian đọc
thầm cho từng đoạn, từng bài. Học sinh sau khi đọc xong cần báo cáo kết quả của
mình cho nhóm trưởng hoặc giáo viên được biết. Hiệu quả của việc đọc thầm chính
là việc hiểu nội dung văn bản đó. Có nhiều học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 2 sau
khi đọc xong vẫn không hiểu được nội dung đó là gì. Vì vậy, Giáo viên nên cần có
chỉ dẫn định hướng cho các em đọc thầm từng nhiệm vụ : đọc thầm câu hỏi, đọc
thầm câu trả lời cho những câu hỏi trắc nghiệm có nhiều lựa chọn, đọc thầm đoạn
để tìm câu trả lời đúng…Qua đó giúp học sinh biết đọc thầm đúng hướng ,đúng
trọng tâm.
Ví dụ : Trong bài Tập đọc “ Bím tóc đuôi sam” ( Hoạt động cơ bản 6 Bài 4A )
Trao đổi và chọn câu trả lời đúng cho câu hỏi sau :
Các bạn gái khen Hà thế nào ? ( Đọc đoạn 1 )
a.Tóc bạn đẹp lắm !
b. Bím tóc đẹp quá !
c. Hà có hai bím tóc xinh xinh .
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh muốn trao đổi trước hết cần làm việc cá
nhân trước đọc thầm câu hỏi , đọc thầm các ý a, b, c. Sau đó đọc thầm đoạn văn để
tìm ra lựa chọn đúng. Nếu giáo viên không định hướng sẽ có học sinh không đọc
đoạn văn mà lựa chọn theo cảm tính.
Muốn rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh thì không chỉ giới hạn yêu cầu đọc
thầm trong lớp học, trong các bài học Tiếng việt. Các bài học ở những môn học
khác, các ấn phẩm có ở trong trường, ngoài cuộc sống đều là những phương tiện tốt
để luyện đọc thầm cho học sinh. Khi dạy các môn học khác giáo viên cần hướng
dẫn học sinh đọc thầm các nhiệm vụ, các chỉ dẫn nêu trong tài liệu như là hướng
dẫn học sinh đọc thầm các bài tập đọc của môn Tiếng Việt. Giáo viên các khích lệ
10



học sinh đọc các bảng nội qui, các bảng thông báo của nhà trường, đọc các sách
báo, ở thư viện, đọc các bảng hiệu, hoặc quảng cáo các em thường nhìn thấy trên
đường hoặc trên ti vi, đọc các chỉ dẫn ghi sử dụng các nhãn hàng hóa v.v...
Đối với những học sinh còn hơi yếu, tốc độ đọc thầm chưa tốt. Tôi có thể kết
hợp với phụ huynh cho con luyện đọc thêm ở nhà. Có thể rèn kĩ năng đọc thầm
bằng cách khuyến khích học sinh đọc sách truyện, báo, tạp chí…
Khi dạy Tập đọc theo mô hình trường học mới VNEN giáo viên cần phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh, giúp học sinh bước đầu rèn khả năng tự học
và hình thành phương pháp học tập. Bên cạnh đó, khi dạy cũng cần thể hiện tính
tương tác cao ( không chỉ tương tác với giáo viên, học sinh mà còn cả phụ huynh
học sinh và cộng đồng ), tạo nhiều cơ hội cho học sinh sáng tạo, phát triển tư duy
cũng như vận dụng những kiến thức kĩ năng học ở trường vào cuộc sống thực. Tạo
cơ hội cho học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tiễn giao tiếp cụ thể ,
sinh động trong đời sống, giúp học sinh có thể sử dụng tốt Tiếng Việt trong giao
tiếp và học tập.
3.Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh:
Ở lớp 2, yêu cầu rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh chỉ dừng ở mức độ rất đơn
giản. Khả năng nhận thức của học sinh còn hạn chế nên việc dạy học sinh đọc hiểu
văn bản chỉ yêu cầu hiểu nội dung ý nghĩa của tác phẩm, tư tưởng , tình cảm, thái
độ của tác giả ẩn chứa sau các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật. Việc hướng dẫn
học sinh hiểu văn bản nghệ thuật cũng chỉ dừng ở một số gợi mở ban đầu giúp các
em tích lũy vốn từ và yêu thích những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp trong kể chuyện ,
viết văn trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 mở ra nhiều khoảng trống cho sự sáng tạo của
giáo viên trong tổ chức hoạt động dạy học. Phần lớn hoạt động đọc hiểu diễn ra ở
hoạt động cơ bản và hoạt động thực hành .Với hoạt động đọc hiểu, Giáo viên có thể
bổ sung những câu hỏi, bài tập giúp giờ học uyển chuyển , nhịp nhàng, hoặc bổ
11



sung những câu hỏi tìm hiểu nội dung đoạn văn , khổ thơ để học sinh có thể trả lời
khái quát ý nghĩa bài đọc. Giáo viên có thể linh hoạt tận dụng ưu thể của phương
pháp học cả lớp nhưng cần tránh lạm dụng, làm mất đặc trưng của mô hình VNEN
“tự học có hướng dẫn”.
3.1 Tổ chức hoạt động tìm hiểu nghĩa từ :
Để tổ chức cho học sinh hiểu nghĩa từ tôi có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau như :
-Hiểu nghĩa từ bằng quan sát vật thật , vật thay thế . Ví dụ : lời mô tả về hoàng
hôn dù hấp đẫn đến mấy thì cũng khó lột tả nổi vẻ huy hoàng , lộng lẫy của thiên
nhiên ở thời điểm đặc biệt này so với những tấm ảnh chụp cảnh thực, và học sinh
được quan sát tận mắt. Cách giải nghĩa này sẽ giúp học sinh có những cảm xúc
thẩm mỹ nhất định.
- Hiểu nghĩa từ bằng lời mô tả. Ví dụ : Sáng kiến ( ý kiến hay và mới ), Bí mật
( giữ kín, không cho người khác biết ) lặng lẽ ( không nói gì ). Nếu giáo viên chỉ
yêu cầu mỗi HS tự đọc thầm từ ngữ và lời giải nghĩa thì khó kiểm sát được học
sinh có đọc hay không hoặc các em chỉ đọc hời hợt, đối phó.Vì vậy sau khi mỗi học
sinh đọc thầm, cần cho từng cặp học sinh đọc lại; một em đọc từ, một em đọc lời
giải nghĩa. Sau đó cho học sinh trao đổi, chia sẻ ý nghĩa của từ theo nhóm, chia sẻ
trước lớp. Với hình thức tổ chức này tôi thấy học sinh học rất hiệu quả, các em hiểu
nghĩa, ghi nhớ từ nhanh và rất hứng thú trong học tập.
- Hiểu nghĩa từ bằng cách thực hiện các bài tập ứng dụng .Giáo viên có thể tổ
chức nhiều hình thức khác nhau : Học cá nhân, cặp đôi, theo nhóm. Hoặc tổ chức
dưới hình thức các trò chơi . Ví dụ ở hoạt động cơ bản 3 Bài 8A , có thể tổ chức
thành trò chơi “Thi tìm từ nhanh” như sau :
-Nhóm trưởng lấy 5 thẻ từ : lấm lem , thập thò , tò mò , gánh xiếc,
lách. -HS mỗi nhóm ghép từng từ vào lời giải nghĩa sao cho thích hợp.

12



-Các nhóm nối tiếp nhau đọc kết quả (Ví dụ : Tò mò là muốn biết mọi chuyện;
Lấm lem là bị dính bẩn nhiều chỗ …). Nhóm nào ghép đúng , ghép nhanh,
báo cáo rõ ràng, gây ấn tượng sẽ thắng cuộc.
Điều cần chú ý là dù giải nghĩa theo cách nào cũng chỉ nên giới hạn trong phạm
vi nghĩa cụ thể ở bài đọc, không mở rộng ra những nghĩa khác, nhất là những nghĩa
xa lạ với học sinh lớp 2.
3.2 Tổ chức hoạt động tìm hiểu nội dung ý nghĩa bài học
Với đặc thù của môn Tiếng việt là thực hành giao tiếp. Giáo viên có thể linh
hoạt, sáng tạo tổ chức làm việc theo lớp, làm việc theo nhóm ( nhóm đôi, nhóm
vòng tròn ) kết hợp bổ sung các kĩ thuật học hỏi được như : học nhóm theo phương
án Khăn trải bàn , Phòng tranh , Bể cá …Ví dụ: Câu hỏi tìm hiểu chuyện Sự tích
cây vú sữa : Theo em nếu được gặp lại mẹ, cậu bé sẽ nói gì ? ( Hoạt động thực hành
2 , bài 12A ) GV có thể làm như sau :
- Phương án Khăn trải bàn : Chuẩn bị một tờ giấy khổ to và bút dạ . Mỗi học sinh
tự mình viết ý kiến của mình lên một góc khăn , sau đó cả nhóm thống nhất ý kiến
và viết vào giữa khăn .
-Phương án phòng tranh : Mỗi học sinh chuẩn bị một tờ giấy nhỏ. Các em viết suy
nghĩ ý tưởng của mình , sau đó đính lên góc học tập như một “phòng tranh” của
nhóm.
Một số bài tập tìm hiểu bài, giáo viên có thể tổ chức dưới hình thức hỏi- đáp
theo nội dung bài học :
- HS1 đọc từng câu hỏi SHD học, HS2 tìm câu trả lời trong bài đọc để đáp lại.
Sau đó đổi vai : em hỏi thành em trả lời và ngược lại .
-HS1 có thể nhìn sách nêu lần lượt từng câu hỏi, HS2 trả lời theo trí nhớ. Sau
đó đổi vai.

1
3



-Cuối cùng, một vài cặp học sinh thực hành hỏi – đáp trước lớp. Hai em đầu
dựa theo sách , những em sau thoát li sách . Ví dụ : Hỏi –đáp theo cặp trong Hoạt
động cơ bản 6, bài 3A( bài Bạn của Nai Nhỏ )
-Hỏi : Nai Nhỏ xin phép cha đi chơi xa với ai ?
-Đáp: Nai Nhỏ xin phép cha đi chơi xa với bạn .
-Hỏi : Nghe Nai Nhỏ xin phép , cha Nai nhỏ nói gì ?
-Đáp : Cha Nai Nhỏ nói : Cha không ngăn cản con. Nhưng con hãy kể cho cha
nghe về bạn của con…
Ở một số bài khác giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh dưới hình thức
trò chơi đóng vai để tìm hiểu nội dung bài. Ví dụ : Trong hoạt động cơ bản 5 bài
2C( bài Làm việc thật là vui ). Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lựa chọn các
vai : Cái đồng hồ, gà trống, chim tu hú, chim sâu, cành hoa đào, bé . Mỗi vai sẽ giới
thiệu mình là ai, mình đã làm gì, mình cảm thấy vui khi làm việc đó không.
Ví dụ : Tôi là chiếc đồng hồ. Tôi luôn kêu “tích tắc” để báo phút , báo giờ. Tôi
rất vui vì đã giúp các bạn nhỏ học và chơi đúng giờ.
Mô hình trường học mới yêu cầu học sinh cùng nhau tự học, tự đọc , tự tìm
hiểu bài dưới sự hỗ trợ giúp đỡ của giáo viên. Tuy nhiên giáo viên không thể phó
thác tự phát hiện và sửa lỗi cho nhau về cách phát âm, cách đọc, giọng đọc , khi mà
các em vừa mới kết thúc lớp 1( giai đoạn học vần ) ; cũng như không thể đòi hỏi
các em tự tìm đúng đáp án cho các câu hỏi, bài tập đọc hiểu, tự đánh giá mình , biết
sửa lỗi cho bạn về cách hiểu từ, câu, nội dung bài thơ, câu chuyện …Vì vậy , để
đảm bảo chất lượng đọc – hiểu của học sinh giáo viên phải kiểm soát được kết quả
đọc – hiểu của từng nhóm học sinh, từng học sinh .Từ đó hỗ trợ các em hoàn thành
nhiệm vụ. Cần phát huy vai trò tự quản của các nhóm, vai trò “trợ lý” cho thầy cô
của các nhóm trưởng . Giáo viên cần tạo môi trường học tập lôi cuốn để tất cả học
sinh đều đọc, đều tìm hiểu bài .
4.Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh:
1
4



Cần hiều rằng “ đọc diễn cảm ”không phải là đọc sao cho “ điệu ” thiếu tự
nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu
để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Vì vậy phải hòa nhập với câu chuyện, bài văn,
bài thơ, có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp.
Muốn rèn cho các em đọc diễn cảm thì trước hết phải rèn cho các em đọc đúng,
đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Đọc diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu
phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc
điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung
miêu tả trong văn bản.
Để đọc diễn cảm trước hết phải xác định được nội dung,ý nghĩa của bài đọc,
sắc thái tình cảm, cảm xúc, giọng điệu của bài đọc. Kết thúc quá trình đọc hiểu học
sinh phải xác định được cảm xúc của bài : vui, buồn, tự hào, thiết tha, trang
nghiêm, sâu lắng, ngợi ca…. Ngay trong một bài cũng có thể hòa trộn nhiều cảm
xúc khác nhau. Có thể hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm bằng nhiều cách khác
nhau :
- Biết ngắt giọng biểu cảm. Bên cạnh việc ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ
ngữ pháp còn cần phải biết ngắt giọng biểu cảm. Đó là những chỗ ngừng, nghỉ có
dụng ý gây ấn tượng về mặt cảm xúc, sự im lặng có tác dụng truyền cảm, tập trung
sự chú ý của người nghe.
Ví dụ : Câu thơ “ Mẹ / là ngọn gió của con suốt đời” ( Hoạt động cơ bản 2 Bài
12C ) Để lại hình ảnh thơ đẹp nhất, khái quát nhất tình yêu thương, sự chăm sóc
của mẹ theo con suốt cả cuộc đời- lắng đọng, ngân mãi.
- Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu .
Ví dụ : Trong bài tập đọc Sự tích cây vú sữa ” ( Hoạt động cơ bản 3 Bài 12A )
Khi đọc câu : “ Môi câu vừa chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm
như dòng sữa mẹ” cần nhấn giọng ở các từ gợi cảm gợi tả : “ trào ra, ngọt thơm
như dòng sữa mẹ ” để nói lên tình yêu thương sâu nặng của mẹ đối với con.
1

5


Ví dụ: Trong bài Bà cháu ( Hoạt động cơ bản 3 bài 11A ) :
Khi đọc câu : Hạt đào vừa gieo xuống đã nảy mầm, / ra lá, / đơm hoa, / kết bao
nhiêu là trái vàng, / trái bạc. Giáo viên phải lưu ý học sinh đọc nhấn giọng ở các
từ ngữ gợi tả, gợi cảm như : nảy mầm, ra lá, đơm hoa, biết bao nhiêu trái vàng, trái
bạc.
- Biết thể hiện ngữ điệu( Sự thay đổi cao độ, trường độ của giọng đọc) phù hợp
với từng loại câu ( câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến). Nói đến việc sử dụng cao
độ để đọc điễn cảm là muốn nói đến chỗ lên giọng , xuống giọng có dụng ý nghệ
thuật.
Ví dụ : Bài '' Có công mài sắt có ngày nên kim ''( Hoạt động cơ bản 6 Bài 1A ) cần
hướng dẫn học sinh đọc thể hiện đúng tình cảm :
+Câu kể : Mỗi khi cầm quyền sách, / cậu chỉ đọc vài dòng / đã ngáp ngắn
ngáp dài, / rồi bỏ dở.// ( Giọng đọc thong thả, cần chú ý hướng dẫn ngắt nghỉ, nhấn
giọng một các tự nhiên, không đọc nhát gừng, không đọc quá to những tiếng cần
nhấn giọng ).
+Câu hỏi : Bà ơi, / bà làm gì thế ? // ( Lời gọi với giọng lễ phép, phần sau thể
hiện sự tò mò )
+Câu cảm : Thỏi sắt to như thế , / làm sao bà mài thành kim được ? // (Giọng
đọc ngạc nhiên nhưng lễ phép )
- Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật, phân biệt lời của
của các nhân vật :
Ví dụ : Trong bài Tập đọc “ Bím tóc đuôi sam” ( Hoạt động cơ bản 2 Bài 4A )
cần hướng dẫn học sinh giọng Hà ngây thơ hồn nhiên ; giọng Tuấn ở cuối bài túng
túng nhưng chân thành, đáng yêu ; giọng các bạn gái hồ hởi ( “ Ái chà chà! Bím tóc
đẹp quá! ” ) ; giọng thầy giáo vui vẻ thân mật.
-Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc phân vai :


16


Ví dụ : Bài '' Những quả đào ''( Hoạt động cơ bản 3 Bài 29A ) – Có thể chia
nhóm 5 học sinh đọc phân các vai: người dẫn chuyện, ông, Xuân, Vân, Việt.
Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học tốt giúp cho việc đọc của học sinh tốt
hơn. Tuy nhiên , đối với học sinh lớp 2 kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm chưa cao
nên việc đọc đúng của học sinh cần chú trọng hơn. Ở đây, GV không cảm thụ thay
học sinh, mà khêu gợi vốn hiểu biết sẵn có của học sinh phát huy tư tưởng của các
em để tái hiện được bức tranh mà tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ sinh động.
Ví dụ: Hoạt động thực hành bài 2C (bài“Sáng kiến của bé Hà ” ) Giáo viên sử
dụng các câu hỏi gợi mở :
- Theo em bé Hà có những sáng kiến gì?
- Hà đã tặng ông món quà gì?
- Bé Hà trong truyện là một cô bé như thế nào?
Với những câu hỏi trên cùng với những câu hỏi gợi ý nội dung bài học sinh sẽ
tìm ra cách đọc thích hợp để diễn tả được cái không khí đầm ấm, vui vẻ của cả gia
đình bé Hà.
-Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thi đọc ( từng đoạn, cả bài ). Giáo viên
cần tạo điều kiện để nhiều học sinh được tham gia thi đọc. Có thể bố trí những học
sinh có trình độ tương đương nhau thi với nhau để đảm bảo công bằng, hết sức
tránh hiện tượng chỉ gọi học sinh khá giỏi. Có thể kết hợp tổ chức trò chơi luyện
đọc ( đọc tiếp sức, đọc truyền điện, đọc phân vai …).
Để hướng tới đọc diễn cảm có sáng tạo, khi giảng bài trên lớp giáo viên cần chú
ý hướng dẫn luyện đọc diễn cảm. Tuy nhiên chính nội dung này đã quy định ngữ
điệu của nó, nên không thể áp đặt sẵn giọng đọc của bài. Để hình thành kĩ năng đọc
diễn cảm học sinh cần phải:
+ Biết thở sâu chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi đọc.
+ Rèn cường độ giọng đọc ( luyện đọc cao giọng , nhấn giọng , hạ thấp giọng )
+ Đọc nhập vai nhân vật.

17


Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay, diễn cảm thì người giáo viên phải
dạy cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm ngay từ những lớp đầu cấp. Giáo viên
phải là người đọc mẫu chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng để giúp học
sinh xác định các yếu tố nghệ thuật và giá trị của chúng trong các bài tập đọc.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :
Khi mới áp dụng phương pháp dạy học mới VNEN bản thân tôi cũng như các
đồng nghiệp đã gặp không ít những khó khăn .Tuy nhiên sau một thời gian áp dụng
mô hình này vào thực tế giảng dạy, so sánh với những phương pháp dạy học trước
đây đã thấy được tính ưu việt của nó.
Việc thay đổi phương pháp dạy học Tiếng Việt đã phát huy tối đa tích tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh . Đặc biệt trong các giờ Tập đọc các em mạnh
dạn, tự tin hơn, thích học hơn .
Qua 1 thời gian giảng dạy ở lớp 2- áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy kĩ
năng đọc của học sinh lớp tôi đã tiến bộ rõ rệt,học sinh đọc tốt hơn nhiều so với
trước đây chưa áp dụng .
Kết quả cụ thể sau khi thực hiện như sau :
Lớp



Đọc ngọng

số

Đọc sai
phụ âm
đầu


Đọc sai

Đọc rõ

dấ
u

ràng, lưu

Đọc diễn cảm

loát
2A

31

SL
1

%
3,2

SL
1

% SL
3,2
1


% SL
3,2 15

%
48,5

SL
13

%
41,9

PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I.KẾT LUẬN :

18


Phương pháp dạy học mới huy động tối đa, tổng hòa các phương pháp dạy học
đã có để hướng đến tích cực hóa hoạt động của học sinh. Trong dạy Tập đọc việc
sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, các phiếu học
tập, các băng hình , máy chiếu … tận dụng các không gian lớp học, phối hợp dạy
học trong và ngoài lớp học, ở nhà trường, ở hiện trường,… Sử dụng các hình thức
tổ chức lớp học : học cá nhân , học cặp đôi , học theo nhóm , theo lớp đều có thể
vận dụng tối đa để nâng cao hiệu quả giờ Tập đọc .
Phương pháp dạy học mới coi trọng thực hành, vận dụng. Nhà trường chỉ dạy
những gì học sinh cần học chứ không phải dạy cái giáo viên có. Phương pháp dạy
học mới đòi hỏi hạn chế tối đa sự áp đặt của thầy trong quá trình học tập. Giáo viên
không phải là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh mà
cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá lẫn nhau .

Để dạy Tập đọc có hiệu quả , người giáo viên phải hiểu rõ được học sinh của
mình, đặc điểm trình độ đọc của học sinh. Các em có những kiến thức, kĩ năng đọc
gì. Cụ thể phải hiểu rõ học sinh của mình hứng thú với bài tập đọc nào, phát âm
những gì sai chuẩn, khó phát âm những từ ngữ nào trong bài, khó đọc đúng, đọc
hay những câu văn nào v,v..Để luyện đọc hiểu chúng ta cần nắm được học sinh của
mình chưa hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào trong bài …Sự hiểu biết
này sẽ giúp chúng ta xác định tính vừa sức với học sinh.
Giáo viên phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong
nhà trường ,với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các
em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các
phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên
chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, xem học sinh là con em của mình, chia
sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù
hợp.
II.NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT :
1
9


Trong quá trình dạy Tập đọc lớp 2 tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh còn nhiều
hạn chế. Vì thế tôi băn khoăn, trăn trở và mạnh dạn đề xuất một số biện pháp góp
phần trong việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2:
- Mỗi giáo viên cần phải có trình độ hiểu biết sâu rộng, có tri thức khoa học,
có năng lực sư phạm thực sự. Đọc mẫu là một bước quan trọng, giáo viên cần
chuẩn bị chu đáo cho bước này. Giáo viên không được phép phát âm sai. Nếu đọc
hay, giáo viên sẽ thu hút được học sinh hứng thú ngay từ bước này. Ngôn ngữ của
giáo viên phải chuẩn mực, chính xác, trong sáng.
-Giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, hình thức dạy
học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Biết cách tổ chức giờ học một cách hợp lí
tạo không khí thoải mái, cởi mở đối với học sinh khi học tập.

- Cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh (đặc biệt là học sinh nhút nhát và
học sinh yếu). Khuyến khích động viên những cố gắng nhỏ bé của học sinh để các
em tự tin hơn khi đọc bài. Cần chú ý tổ chức tốt các nhóm tự quản ngay từ đầu năm
học.
- Do điều kiện văn hóa xã hội ở từng địa phương trường đóng khác nhau, bối
cảnh lớp học khác nhau, đối tượng học sinh có những đặc điểm riêng.Vì vậy, giáo
viên cần phải điều chỉnh hoạt động học cho phù hợp với bối cảnh của lới mình phụ
trách.
- Từ khi trẻ bập bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình cần phải luôn
lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói cho con em mình. Không những thế người lớn còn
phải là tấm gương cho con trẻ noi theo.
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thiết nghĩ giáo viên cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, không ngừng học hỏi, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay
nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên
môn để đưa ra những bài giảng sinh động, hấp dẫn.
20


Đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo cung cấp thêm đồ dùng dạy học và tài liệu
thao khảo, tài liệu Hướng dẫn điều chỉnh dạy học Tiếng Việt phục vụ cho phân
môn Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung .
Trên đây là một số những kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình
nghiên cứu. Do thời gian hạn chế và năng lực còn có hạn nên không tránh khỏi
những sai sót. Rất mong sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa,ngày 8 tháng 4 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết , không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Phạm Thị Thủy

21



×