Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN sưu tầm và biên soạn tài liệu dạy học lịch sử địa lí địa phương huyện thường xuân cho học sinh lớp 5 trường tiểu học thị trấn thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.95 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN
TÀI LIỆU DẠY HỌC LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG
HUYỆN THƯỜNG XUÂN CHO HỌC SINH LỚP 5
TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Trịnh Ngọc Sơn
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học thị trấn Thường
Xuân
SKKN thuộc môn: Lịch sử và Địa lý

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC

Mục
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1
2.2


2.3
2.3.1
2.3.2
1.
2.
3.
4.
5.
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của Đề tài
Cơ sở lý luận
Thực trạng trước khi áp dụng đề tài
Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Sưu tầm tài liệu
Hướng dẫn dạy học Lịch sử - Địa lý địa phương
Mục tiêu dạy học lịch sử - địa lý địa phương
Nội dung dạy học lịch sử - địa lý địa phương
Nguyên tắc dạy học lịch sử địa phương
Phương pháp dạy học lịch sử -địa lý địa phương
Tài liệu dạy học cho học sinh và giáo viên

Hiệu quả của đề tài
Kết luận – kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
3
4
10
10
11
11
12
12
18
19
19
19


1. Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài:

Trong giáo dục phổ thông, các môn xã hội nói chung, môn Lịch sử nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn, nhân
cách, bản lĩnh và tư duy của con người. Bác Hồ kính yêu từng dạy “Dân ta phải
biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Do vậy, dạy lịch sử không
chỉ giúp học sinh nắm được lịch sử hình thành của một quốc gia, dân tộc mà còn
hình thành ở các em lòng tự hào để từ đó các em thêm yêu quê hương, đất nước
mình hơn.
Đối với bậc Tiểu học môn lịch sử chưa phải là môn học riêng như các cấp
học khác mà nó chỉ là một phần của môn Lịch sử và Địa lý lớp 4 – 5 vì vậy
dung lượng, thời lượng dạy học chỉ có 1 tiết/tuần, mục tiêu chỉ nhằm giới thiệu
các giai đoạn, các sự kiện lịch sử cho học sinh nắm bắt sơ bộ để học lên ở các
bậc học sau này.
“Có thể nói, lịch sử dân tộc hay lịch sử địa phương đều là dựng lại quá
khứ về lòng yêu nước, về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta trong
dựng nước và giữ nước, ghi lại những nét văn hóa truyền thống, tinh thần nhân
đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển. Bởi
qua mỗi bài học, mỗi sự kiện lịch sử, học sinh sẽ có thêm niềm tin vững chắc
vào lý tưởng cách mạng. Từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong
quá trình dựng nước và giữ nước, các em sẽ tự hào và ý thức hơn về tình yêu
quê hương, đất nước. Qua đó, các em ra sức học tập, rèn luyện để trở thành
những con người có ích góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”[3]
“Địa phương có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi con
người chúng ta. Đó là làng xã, thôn xóm, khu phố … những giá trị văn hóa và
phong tục tập quán của quê hương gắn liền với mỗi một con người chúng ta.
Đây là nơi các em được sinh ra và lớn lên vì thế các phong tục tập quán đã hằn
sâu trong các em từ đó đã tạo nên nét khác biệt của con người ở mỗi vùng đất
khác nhau.”[3]
“Đặc biệt viêc cung cấp và giới thiệu cho các em về nguồn gốc hình thành
nên vùng đất mà các em đang sinh sống sẽ có tác động to lớn và mạnh mẽ đến
tâm lý, tình cảm của các em. Vì vậy việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương

trong trường tiểu học là một phương thức dạy học gắn với đời sống xã hội, giúp
cho học sinh nắm chắc về địa phương và vận dụng được vào thực tế cuộc sống
đồng thời rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản, tạo hứng thú nghiên
cứu, tìm hiểu những vấn đề của lịch sử quê hương, có ý thức bảo vệ tôn tạo các
di tích lịch sử cũng như các giá trị văn hóa của quê hương đất nước.”[3]
Trong những năm học gần đây, thực hiện chủ trương của Bộ GD&ĐT đưa
chương trình giảng dạy lịch sử địa phương vào các nhà trường, Sở GD&ĐT Thanh
Hóa đã biên soạn cuốn tài liệu dạy học lịch sử địa lý địa phương cho học sinh lớp 5
từ năm 2013-2014. Tài liệu đã giúp cho học sinh nắm bắt được các yếu tố địa lý,
lịch sử, văn hóa … của tỉnh Thanh Hóa nói chung từ đó giúp các em học sinh tiểu
học hiểu sâu hơn về quê hương mình. Trên thực tế làm công tác quản lý nhà
trường, qua tìm hiểu tôi nhận thấy sau khi học các tiết học bằng bộ
1


tài liệu do Sở GD&ĐT biên soạn học sinh nắm chắc về các danh lam, thắng
cảnh, di tích lịch sử văn hóa, vị trí địa lý của tỉnh Thanh Hóa. Nhưng khi hỏi về
huyện Thường Xuân, về nơi các em sinh ra và đang sống các em không biết và
chỉ trả lời chung chung, chưa biết được về lịch sử, vị trí, sự hình thành của quê
hương mình. Chính vì lý do đó tôi rất trăn trở và suy nghĩ: làm sao để cho học
sinh Thị trấn hiểu và biết được lịch sử hình thành nên vùng đất mình đang ở, các
địa phương trong huyện, những di tích lịch sử văn hóa, các danh nhân của huyện
nhà …Với những trăn trở đó tôi mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện đề
tài “Sưu tầm tư liệu và biên soạn tài liệu giảng dạy Lịch sử, Địa lý địa
phương huyện Thường Xuân cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn
Thường Xuân” nhằm bổ sung thêm kiến thức cho học sinh Trường Tiểu học Thị
trấn Thường Xuân bên cạnh bộ tài liệu đã có do Sở GD&ĐT biên soạn.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử địa phương tại nhà trường, trên cơ sở
đó đề xuất nội dung dạy dọc lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở Trường

Tiểu học Thị trấn, đồng thời đưa ra một số biện pháp dạy học lịch sử, địa lý địa
phương cho học sinh tiểu học ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân nói
riêng và trên địa bàn huyện nói chung.
1.3.Đối tượng nghiên cứu:
Lịch sử hình thành và phát triển, vị trí của huyện Thường Xuân và Thị
trấn Thường Xuân (những nét khái quát).
Sưu tầm tài liệu và biên soạn lại thành một chỉnh thể thống nhất để dạy
học cho học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
2. Nội dung của Sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm:
Chương trình môn Lịch sử - Địa lí bao gồm 2 phần là lịch sử và địa lí.
Cấu trúc như vậy nhằm làm rõ đặc trưng của lịch sử và địa lí. Khi tiến hành bài
học của chương trình này giáo viên cần tăng cường kết hợp nội dung gần nhau
của hai phần có thể bằng nhiều cách.
Bên cạnh những sự vật, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu phán ánh
những thành tựu của dân tộc trong quá trình giữ nước chương trình còn tăng
cường những nội dung về lịch sử kinh tế, lịch sử văn hóa. Chương trình địa lí
tập trung hơn vào việc tìm hiểu về đất nước qua việc tăng cường thời lượng cho
phần địa lí Việt Nam, còn phần địa lí các châu lục và châu đại dương trong
chương trình chỉ lựa chọn những nội dung tiêu biểu qua từng châu lục và đại
dương.
Trong chương trình Lịch sử - Địa lý lớp 5 có 2 tiết dạy dành cho địa
phương ( bài 29) gồm: tiết 31 và 32. Nội dung do các trường tự chọn, nhưng chủ
yếu là giới thiệu về truyền thống tốt đẹp, các sự kiện lớn, các di tích lịch sử văn
hóa, các sự kiện nhân vật lịch sử tiêu biểu của địa phương. Dạy và học lịch sử
2



địa phương về những làng, xã, thôn, bản, phố phường cụ thể, sẽ có tác dụng làm
cho thầy trò có nhận thức cụ thể, sinh động về truyền thống yêu nước, đấu tranh
bất khuất, lao động cần cù, sáng tạo, đoàn kết, vượt khó khăn trong lịch sử xây
dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Dạy và học lịch sử, địa lý địa phương
cần có hình ảnh, tư liệu minh họa thực tế giúp học sinh tiếp thu bài nhanh hơn,
hiệu quả hơn.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng đề tài:
Tôi nhận thấy đa số các giáo viên đều hiểu trách nhiệm và nghiên cứu, tổ
chức cho học sinh sưu tầm tài liệu hiện vật. Nhằm góp phần xây dựng lịch sử
địa phương. Đồng thời thường xuyên sử dụng tài liệu lịch sử, địa lý địa phương
trong dạy học các bài học lịch sử dân tộc.
Tuy nhiên vấn đề dạy học lịch sử địa phương chưa được thực hiện đồng
bộ. Tùy theo sự phân công kế hoạch của nhà trường mà kết quả dạy học lịch sử
địa phương của mỗi trường đều không giống nhau. Có những trường thực hiện
tốt công tác lịch sử địa phương nhưng cũng có những trường chưa coi trọng vấn
đề này. Vì vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy. Có những trường
không tiến hành bài giảng lịch sử địa phương. Vì vậy, nhiều học sinh khi được
hỏi thì các em đều trả lời không biết, chưa hề được học tiết lịch sử địa phương.
Sự quan tâm của các nhà trường chưa cao nên giáo viên không mấy hứng
thú trong việc giảng dạy lịch sử địa phương. Vì vậy, số giáo viên chưa từng dạy
tiết lịch sử địa phương nào còn nhiều. Có trường giáo viên cho học sinh nghỉ tiết
lịch sử địa phương hoặc sử dụng giờ học này đề học những môn khác như toán,
tiếng Việt …
Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện ý nghĩa, tác dụng
của việc dạy học lịch sử địa phương trong việc bồi dưỡng – giáo dục tư tưởng,
tình cảm cho học sinh. Việc chỉ đạo đặc biệt là cung cấp tài liệu có những hạn
chế, nên chưa phát huy đầy đủ những kiến thức đã học và năng lực bản thân
trong công tác sưu tầm, nghiên cứu tài liệu lịch sử địa phương đề sử dụng trong

dạy học. Ngoài hai nguyên nhân trên, những khó khăn trong đời sống của giáo
viên, do ảnh hưởng, tác động của nền kinh tế - xã hội của đất nước, sự thiếu
thốn về cơ sở vật chất, kinh phí của nhà trường cũng đã ảnh hưởng tới việc thực
hiện chương trình lịch sử địa phương đã quy định.
Ngoài ra, theo phân phối chương trình thì tiết dạy lịch sử địa phương như
vậy là ít. Chúng ta biết rằng muốn cho học sinh hiểu rõ lịch sử địa phương thì
tăng thêm tiết lịch sử địa phương. Có như vậy giáo vên mới có đủ thời gian giúp
các em hiểu lịch sử địa phương mình sâu sắc.
Thực tế cho thấy, sự hiểu biết của học sinh về lịch sử địa phương nói
chung còn thấp, nhiều em khi được hỏi thì trả lời không biết lịch sử, vị trí của
địa phương mình, hoặc còn hiểu sai và lơ mơ về vấn đề lịch sử địa phương. Vì
vậy, tất cả các em đều mong muốn các thầy cô nên dạy tiết lịch sử - địa lý địa
phương với hình thức nội khóa và ngoại khóa nhằm giúp các em hiểu rõ về lịch
sử của địa phương mình. Điều đó đã chứng tỏ rằng, học sinh rất ham hiểu biết
về lịch sử quê hương.
3


2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu lịch sử liên quan đến vùng đất Thường
Xuân và Thị trấn Thường Xuân.
Biên soạn thành tài liệu học tập trên cơ sở thời lượng tối thiểu của 1 tiết
học ở tiểu học.
Nội dung lịch sử, Địa lý địa phương cần dạy cho học sinh lớp 5 Trường
Tiểu học Thị trấn Thường Xuân.
2.3.1. Sưu tầm tài liệu.
A. Sơ lược lịch sử huyện Thường Xuân.
1) Vị trí địa lý:
Thường Xuân là huyện miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa.
Cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 60 km theo Quốc lộ 47. Huyện nằm ở vị trí

trí 190 đến 20 0 vĩ độ Bắc, 1040 đến 1050 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện
Lang Chánh, Ngọc Lặc. Phía Tây giáp huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An và
huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào (có 17 km đường biên giới
Quốc gia). Phía Đông giáp huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn. Phía Nam giáp huyện
Như Xuân và Như Thanh. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 111.380,8 ha.
Địa hình của huyện thấp dần từ Tây Bắc và Tây xuống khu vực phía Đông
và Nam. Có nhiều dãy núi như Chòm Vịn xã Bát Mọt cao 1.442m so với mặt
nước biển. Địa hình bị chia cắt bởi các sông: Sông Khao, sông Chu, sông Đặt,
sông Đằn. Có thể chia địa hình làm 3 vùng như sau:
+ Vùng cao gồm 4 xã: Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Chinh, Xuân Lẹ, có độ
cao trung bình từ 500-700m.
+ Vùng giữa gồm 9 xã: Lương Sơn, Tân Thành, Xuân Thắng, Xuân Lộc,
Vạn Xuân, Luận Khê, Xuân Cẩm, Luận Thành, Xuân Cao, có độ cao trung bình
từ 150-200m.
+ Vùng thấp gồm 3 xã và 1 thị trấn: Ngọc Phụng, Thọ Thanh, Xuân
Dương và Thị trấn Thường Xuân, có độ cao trung bình từ 50-150m.[1]
2) Quá trình hình thành.
Lịch sử vùng đất, con người Thường Xuân gắn liền với tiến trình và
truyền thống lịch sử của tỉnh Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam. Thường Xuân là
một vùng đất cổ, đã qua quá trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm lịch
sử với các thời kì như sau:
Thời thuộc Hán là vùng đất huyện Vô Biên, một phần ít thuộc huyện Cư
Phong của quận Cửu Chân, một quận lớn thời kỳ đó. Thời Tam Quốc đến nhà
Tuỳ thuộc huyện Di Phong. Thời Đường thuộc đất của huyện Trường Lâm. Thời
Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh gồm 2
phần thuộc các huyện:
- Phần lớn thuộc huyện Nga Lạc (châu Thanh Hoá)
- Một phần ít thuộc huyện Nông Cống (châu Cửu Chân).
Thời Lê vẫn thuộc đất của huyện Nga Lạc và huyện Nông Cống. Thời nhà
Nguyễn và Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhập huyện Thọ Xuân cũ (gồm 2 tổng

Mậu Lộc và Quân Nhân) vốn là đất của huyện Thường Xuân lệ vào châu Lang
4


Chánh. Huyện Thọ Xuân cũ (miền núi) mất tên (huyện Thọ Xuân cũ không phải
là huyện Thọ Xuân bây giờ, lúc đó gọi là huyện Lôi Dương).
Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), châu Thường Xuân (còn gọi là Châu
Thường) ra đời. Năm Tự Đức thứ 3 (1850, Thường Xuân lúc này gồm 23 xã,
chia làm 4 tổng:
- Tổng Nhân Sơn gồm 4 xã: Bát Mọt, Yên Nhân, Sơn Cao (sau đổi là
Xuân Khao), Nhân Trầm (gồm nữa xã Xuân Mỹ và nữa xã Xuân Khao) nằm ở
phía Tây của huyện.
- Tổng Trịnh Vạn có 4 xã: Trịnh Vạn (nay là Vạn Xuân), Lệ Khê (nay là
Xuân Chinh và Xuân Lẹ), Mậu Lộc, Thắng Lộc (gồm xã Xuân Lộc, Thắng Lộc).
- Tổng Luận Khê có 7 xã: Chu Hoành, Kỳ Pha, Trung Lập (nay là xã Tân
Thành), Ngọc Trà, Yên Mỹ, Khê Hạ, La Lũ (nay là xã Luận Khê).
- Tổng Quân Nhân gồm 4 xã: Ban Vân, Quân Nhân, Ban Công, Lâm Lư
(4 xã này đã cắt về huyện Như Xuân năm 1949).
Đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888), châu Thường Xuân có một vài thay
đổi nhỏ: Cả châu Thường Xuân có 4 tổng 26 xã:
- Tổng Quân Nhân gồm 7 xã: Quân Nhân, Hương Cà, Bàn Cống, Phong
Huân, Lâm Lư, Tri Giới và Ban Văn.
- Tổng Trịnh Vạn gồm 4 xã: Trịnh Vạn, Mậu Lộc, Lệ Khê, Thọ Thắng.
- Tổng Luận Khê gồm 7 xã: Kỳ Ban, Trung Lập, La Lũ, Chu Hoành, Khê
Hạ, Yên Mỹ và Ngọc Trà.
- Tổng Như Lăng gồm 8 xã: Quỳ Thanh, Tú Thịnh, An Cư, Bát Dân, Hữu
Lễ, Cứ Đức, Thượng Cốc và Bát Vân.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Thường Xuân đổi thành huyện
Thường Xuân và giữ nguyên cho đến hôm nay.
Đến trước năm 2005, Thường Xuân có 19 xã, 1 thị trấn. Sau 2005, để xây

dựng công trình thuỷ lợi - thuỷ điện Cửa Đạt, đã di dời 3 xã: Xuân Mỹ, Xuân
Khao, Xuân Liên và thôn Thắm xã Vạn Xuân đưa nhân dân đi định cư tại các
vùng kinh tế mới ở trong và ngoài tỉnh.[1]
3) Khái quát về các xã, thị trấn trong huyện.
Hiện nay, Thường Xuân có 16 xã, 1 thị trấn (gồm 143 thôn) cụ thể như
sau:
1. Thị trấn Thường Xuân (có tên từ năm 1988), gồm các thôn cũ là: Ngọc
Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt gọi là các
Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5.
2. Xã Bát Mọt (còn gọi là Bắt Mọt hay Bất Một, có tên từ thời Lê), gồm
các tên hành chính (trước đây là bản): Hón, Ruộng, Khẹo, Chiềng, Cạn (Mót),
Phống, Dưn, Đục, Vịn.
3. Xã Luận Thành (được thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là làng,
bản): Xuân Minh, Liên Thành và Thống Nhất (xưa là Khê Hạ), Tiến Hưng và
Tiến Hưng 2 (xưa là bản Chượng), Sơn Cao (bản Poọng), Cao Tiến (bản
Khoán), Thành Thắng (bản Than).
4. Xã Luận Khê (tên gọi có từ thời Nguyễn), gồm các thôn (xưa là làng,
bản): Hún (bản Hôn), Tràng Cát, Buồng, Chiềng, Mơ, Yên Mỹ (bản Mọt), An
5


Nhân (gộp 2 bản An và Nhân), Thắm, Ngọc Trà (bản Muồng), Kha (bản Cả),
Sông Đằn và Cửa Dụ (mới lập).
5. Xã Lương Sơn (tên gọi có sau năm 1945), xưa gồm 17 bản làng, nay
sát nhập thành các thôn hành chính là: Ngọc Thượng, Minh Quang, Trung
Thành, Lương Thiện, Lương Thịnh, Ngọc Sơn.
6. Xã Ngọc Phụng (tên gọi có sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là các
làng): Quyết Thắng, và Xuân Thành (làng Mé), Hưng Long (làng Ván), Xuân
Liên (làng Tôm), Xuân Lập, Xuân Thắng, Hoà Lâm, Phú Vinh.
7. Xã Tân Thành (tên gọi có từ sau năm 1945), gồm các thôn (trước là

bản): Thành Nàng (bản Nàng), Thành Lai (bản Lai), Thành Lãm (bản Lãm),
Thành Lập (bản Lập), Thành Giỏ (bản Giỏ), Thành Hạ (bản Hạ), Thành Đon
(bản Đon), Thành Lấm (bản Lấm), Thành Lợi (làng mới lập sau năm 1960, đồng
bào huyện Thiệu Hoá lên định cư).
8. Xã Thọ Thanh (có tên từ sau năm 1945), gồm các thôn (trước là làng):
Thanh Trung, Thanh Trung 2, Thanh Trung 3 (gồm làng Vực và làng Hạ cũ),
Đông Xuân (làng Đông), Hồng Kỳ (làng Hồ), Thanh Cao (làng Đìn), Thanh
Long (xưa là làng chài), Thanh Xuân và Thanh Sơn (tách từ Thanh Trung cũ).
9. Xã Vạn Xuân (thành lập năm 1963): gồm các thôn (xưa là bản): Công
Thương (bản Tột), Bù Đồn, Lùm Nưa (gộp 2 bản Lùm và bản Nưa), Cang Khèn
(gộp 2 bản Cỏ Pạo và bản Cảng), Ná Mén, Ná Cộng, Nhồng, Hanh Cáu (gộp 2
bản Hang va bản Cáu), Khằm, Quạn và thôn Thác Làng (mới lập).
10. Xã Xuân Cao (tên gọi có từ sau năm 1945), trước Cách mạng tháng
Tám 1945 có các làng: Thé, Lù, Kha, Rạch; Nay gồm các thôn hành chính: Xuân
Minh 1, và Xuân Minh 2, Xuân Thắng 1 và Xuân Thắng 2, Trung Thành, Nam
Cao, Trung Tiến, Thành Công, Quyết Tiến.
11. Xã Xuân Cẩm (tên gọi có từ sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là
bản): Thanh Xuân (bản Mạ), Tiến Sơn 1 và Tiến Sơn 2 (bản Đòn), Trung Chính
(bản Gắm), Xuân Quang (bản Quan), Xuân Minh (bản Láu).
12. Xã Xuân Chinh (thành lập năm 1963), gồm các thôn (xưa là bản): Cụt
Ạc (gộp 2 bản Cụt và bản Ạc), Tú Tạo, Chinh, Thông, Hành, Xeo, Giang.
13. Xã Xuân Dương (tên gọi có sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là
bản): Thống Nhất 1, Thống Nhất 2, Thống Nhất 3 (làng Hún), Xuân Thịnh (làng
Thịnh), Vụ Bản (làng Vò), Tân Lập (làng Suội), Tiến Long.
14. Xã Xuân Lẹ (thành lập năm 1963), gồm các thôn (xưa là bản): Liên
Sơn (gộp 2 bản Bèn và Tùm Cũ), Đuông Bai (gộp 2 bản Đuông và bản Bai),
Xuân Sơn (gộp 2 bản Cả và bản Soi), Xuân Ngù (bản Ngù), bản Tạn, Bọng
Nàng (gộp 2 bản Bọng và bản Nàng), Lẹ Tà (gộp 2 bản Lẹ và bản Ná Tà), Cọc
Chẽ (hay Cộc Chẽ, gộp 2 bản Cọc và bản Chẽ), Dài.
15. Xã Xuân Lộc (thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là bản):

Chiềng, Cộc, Vành, Quẻ, Pà-Cầu.
16. Xã Xuân Thắng (thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là bản):
Xương, Tú, Xem, Đót, Tân Thắng, Dín, Én, Tân Thọ.
17. Xã Yên Nhân (tên gọi có từ thời Nguyễn), gồm 6 thôn (xưa là bản):
Khoong, Mỵ, Chiềng, Na Nghịu, Lửa, Mỏ. [1]
6


4) Dân cư và các dân tộc huyện Thường Xuân.
Huyện Thường Xuân là mái nhà chung của các dân tộc anh em Thái,
Mường, Kinh. Theo số liệu điều tra hiện nay, dân tộc Thái có 45.523 nhân khẩu,
chiếm 53% dân số. Dân tộc Kinh có 37.192 nhân khẩu, chiếm 43,3% dân số.
Dân tộc Mường có 3.178 nhân khẩu, chiếm 3,7% dân số. Từ xa xưa, nhân dân
các dân tộc huyện Thường Xuân có truyền thống đoàn kết, chung lưng đấu cật
khắc phục thiên tai, chống chọi thú dữ, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước,
sáng tạo những giá trị văn hóa cao đẹp. [1]
5) Điều kiện tự nhiên.
Huyện Thường Xuân vừa có khí hậu vùng trung du, vừa có khí hậu vùng
núi cao. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, gió mùa Đông
Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm, đây là 2 hướng gió thịnh hành.
Ngoài ra, vào mùa hè thỉnh thoảng còn có gió Tây Nam (gió Lào) khô nóng. Do
địa hình cao, có hướng gió thịnh hành trên, nên khí hậu Thường Xuân mát mẻ,
mưa nhiều (mát lạnh và mưa lớn nhất tỉnh). Nhiệt độ trung bình trong năm 22 250C, thấp nhất có thể xuống đến 00C - 30C (ở vùng Bát Mọt), cao nhất 400C 420C. Lượng mưa trung bình năm 2.200mm, có nơi như vùng Bù Rinh đạt
2.500mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 86%, độ ẩm thấp nhất thường từ
tháng 12 đến tháng 01 năm sau (khô hanh) và tháng 5 - 9 (có gió Lào). Tổng
lượng nước bốc hơi 778mm/năm, bốc hơi thấp nhất vào tháng 12 đến tháng 3
năm sau (600mm), bốc hơi nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 8 (900mm)... Nhìn
chung, thời tiết, khí hậu Thường Xuân tương đối thuận lợi cho đời sống và sản
xuất, đôi khi xảy ra giông bão, mưa đá, lũ quét, lũ ống. [1]
6) Sông ngòi và hệ thống đường giao thông.

Thường Xuân là khu vực mưa nhiều nên có hệ thống sông suối dày
đặc. Tổng chiều dài của hệ thống sông suối khoảng 1.000km, diện tích lưu vực
100km2, tổng lượng dòng chảy 1.276.448 x 10 6 m 3. Sông Chu (nặm Sắm) là
con sông lớn nhất huyện, bắt nguồn từ Lào, qua đất Nghệ An, vào Thường Xuân
được tiếp thêm nguồn nước từ các sông nhánh: sông Khao (Cao), sông Đặt, sông
Đằn (Chàng), sông Âm... chảy về phía hạ lưu. Sông Chu và các chi lưu của nó
trên đất Thường Xuân do phải luồn lách, cắt qua nhiều khối núi, vượt qua nhiều
thác ghềnh để về xuôi nên tiềm năng thủy điện lớn, có nhiều điều kiện thuận lợi
để xây dựng các nhà máy thủy điện lớn nhỏ. Cũng chính vì thế, đầu thế kỷ XX
người Pháp đã cho xây dựng đập Bái Thượng trên đoạn sông Chu đổ nước
xuống đồng bằng (thác Vân Sam) đưa nước vào nông giang tưới tiêu cho một
dải ruộng đồng rộng lớn tỉnh Thanh. Gần đây, công trình hồ Cửa Đặt được
Chính phủ đầu tư xây dựng để điều tiết nguồn nước cung cấp cho sản xuất, sinh
hoạt và kết hợp với phát điện lên lưới điện Quốc gia.
Hệ thống đường giao thông liên tục được củng cố, mở rộng. Hiện nay
17/17 xã, thị trấn đều có đường ô tô, các tuyến đường trục chính của huyện, xã
được rải nhựa; đường giao thông nông thôn, nội thị từng bước được nhựa hóa,
bê tông hóa... giúp cho nhân dân đi lại, giao lưu thuận tiện. Đặc biệt, nhiều
tuyến đường giao thông chiến lược được các cấp quan tâm, đầu tư nâng
7


cấp. Đường tỉnh lộ 507 nối với đường Quốc lộ Hồ Chí Minh, Quốc lộ 47, đường
vành đai biên giới Việt - Lào… đặt huyện Thường Xuân vào vị trí giao lưu dễ
dàng với các huyện, thị bạn trong tỉnh, đặc biệt là khu đô thị trẻ Ngọc Lặc, khu
kinh tế động lực Lam Sơn - Thọ Xuân, Nghi Sơn - Tĩnh Gia; giao lưu với cả
nước và quốc tế. [1]
7) Văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Do có nhiều dân tộc cùng chung sống nên văn hóa Thường Xuân là văn
hóa giao thoa giữa văn hóa của 3 dân tộc Thái, Mường, Kinh.

Dân tộc Thái có một kho tàng văn học, nghệ thuật mang tính đặc thù.
Khặp (hát) Thái là những bài thơ, văn vần tự sáng tác để hát, ngâm vịnh có đệm
đàn và múa là nghệ thuật độc đáo. Khặp Thái có nhiều loại như khặp một, khặp
mo phục vụ nghi lễ; khặp giao duyên (báo sao) để nam nữ tâm tư tình cảm; khặp
lóng Săm, lóng kéng Hum, kéng Mạ là những làn điệu hát xuôi bè trên dòng
sông Chu. Múa Thái gọi là xòe, điệu xòe phổ biến nhất là nhảy sạp được đệm
thêm tiếng khua luống, trống chiêng.
Dân tộc Mường có đời sống tinh thần khá phong phú, đó là kho tàng
truyện kể, cổ tích, ca dao, tục ngữ kể về nguồn gốc dân tộc, ca ngợi tinh thần
đấu tranh chống thiên tai, đặc biệt là sử thi "Đẻ đất đẻ nước" lưu truyền từ đời
này sang đời khác nhắc nhở con cháu ghi nhớ cội nguồn. Những bài hát dân ca
như hát bọ mệnh, hát dặm, hát đúm, hát đối đáp, hát giao duyên; Người Mường
có phong tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, tổ
chức ăn tết Nguyên tiêu; có lễ hội xéc bùa với dàn cồng chiêng do các cô gái
Mường biểu diễn, lễ tục Pôồn Pôồng hát múa quanh cây hoa ước mong cuộc
sống yên lành với tiếng trống chiêng, tiếng sáo ôi.
Dân tộc Kinh ở Thường Xuân sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa nước,
trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Làng của người Kinh ở các xã Xuân Dương, Thọ
Thanh mang đặc điểm làng nông thôn xứ Thanh và Bắc Bộ: có cây đa, bến
nước, sân đình; tất cả mọi sinh hoạt, hoạt động đều diễn ra trong làng. Tất cả các
làng cổ ở xã Thọ Thanh, Xuân Dương đều có đình, đền, miếu; những ngày hội
làng có ca công, múa hát (hát chèo, tuồng, hát giao duyên), tổ chức nhiều trò
chơi vui vẻ. Một số làng còn gìn giữ được những phong tục đẹp, độc đáo như
làng Hún (Xuân Dương) có lệ tục mừng vía cho ông bà, cha mẹ (cả khi đã chết)
vào ngày cuối năm. Thổ âm của làng Hún cũng là hiện tượng hết sức độc đáo
trong ngôn ngữ xứ Thanh.
Cũng do địa hình rộng và điều kiện tự nhiên được thiên nhiên ban cho nên
huyện Thường Xuân có rất nhiều di tích và danh lam thắng cảnh gắn liền với
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và truyền thống dựng nước và giữ nước của các dân
tộc huyện Thường Xuân như di tích Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc Phụng, đền

thờ sĩ phu yêu nước Cầm Bá Thước, đền thờ Bà Chúa Thượng ngàn ở xã Xuân
Cẩm và Xuân Mỹ nay thuộc xã Vạn Xuân. Thác Trai gái ở xã Xuân Lẹ, thác
Thiên Thủy ở xã Vạn Xuân ... đắc biệt là khu du lịch sinh thái bảo tồn thiên
nhiên Xuân Liên cùng hồ Cửa Đặt đã tạo nên một chuỗi danh lam thắng cảnh
góp phần đưa Thường Xuân trở thành một điểm du lịch trên bản đồ du lịch của
tỉnh Thanh Hóa.[1]
8


8) Truyền thống đấu tranh cách mạng.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, mảnh đất Thường Xuân
còn ghi lại dấu tích, dấu ấn văn hóa các cuộc khởi nghĩa gắn với con người,
vùng đất Thường Xuân. Thế kỷ XV, Lê Lai, Lê Lợi đã tìm thấy ở Thường Xuân
tiến có thế công, thoái có thế thủ và lòng nhân ái thương người vì nghĩa mà tụ
họp hào kiệt bốn phương rèn binh, luyện tướng và tổ chức hội thề Lũng Nhai.
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, vua quan nhà Nguyễn nhanh
chóng đầu hàng dâng nước cho giặc. Nhưng ở Thường Xuân, đồng bào các dân
tộc đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp của nhà ái quốc Cầm Bá
Thước.
Căn cứ Trịnh Vạn (thuộc thôn Bù Đồn, xã Vạn Xuân) đã cùng với di tích
và chiến tích lịch sử phong trào Cần Vương trên đất Thanh Hóa như Hùng Lĩnh,
Ba Đình... đi vào lịch sử dân tộc.
Trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, huyện Thường Xuân đã
đóng góp sức người và của cải vật chất cho kháng chiến, những người con ưu tú
của Thường Xuân đã tham gia chiến đấu trên các mặt trận, có nhiều người đã
ngã xuống hi sinh xương máu để bảo vệ Tổ Quốc đã trở thanh những anh hùng
liệt sĩ.
Trong hai cuộc kháng chiến huyện có 3 xã và 5 người con ưu tú được
phong tặng danh hiệu anh hùng đó là xã Xuân Dương, xã Thọ Thanh và xã Tân
Thành. Trong kháng chiến chống Pháp có anh hùng Lò Văn Bường ở xã Xuân

Lẹ, trong kháng chiến chống Mỹ có anh hùng Lê Thị Cửu ở xã Xuân Dương,
anh hùng Hà Văn Thanh ở xã Lương Sơn, anh hùng Cầm Bá Trùng ở xã Luận
Khê, trong chiến tranh bảo vệ Biên giới có anh hùng liệt sĩ Ngô Khắc Quyền ở
xã Thọ Thanh và 14 bà mẹ liệt sỹ được nhà nước phong tặng danh hiệu Mẹ Việt
Nam anh hùng. [1]
B. Vài nét về Thị trấn Thường Xuân.
1. Lịch sử hình thành:
Thị trấn Thường Xuân được thành lập ngày 03/06/1988 theo quyết định
của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ trên cơ sở địa giới hành chính của các
xã Ngọc Phụng (thôn Hòa Lâm) và Xuân Dương (thôn Tân Long và một phần
thôn Thống Nhất). Thời kì đầu mới thành lập Thị trấn có các thôn là: Ngọc Lâm,
Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt dược đổi tên là các
Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5.[1]
2. Vị trí địa lý:
Thị trấn Thường Xuân nằm ở phía Đông của huyện Thường Xuân. Phía
Bắc giáp xã Ngọc Phụng, phía Đông giáp xã Xuân Dương, phía Nam giáp xã
Thọ Thanh, phía Tây giáp xã Xuân Cẩm. Quốc lộ 47 chạy xuyên suốt hết chiều
dài của Thị trấn về phía tây bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn,
buôn bán.[2]
3. Điều kiện tự nhiên:
Diện tích 2,73 km2 địa hình đồi núi thấp dần từ tây sang đông, điểm cao
nhất của Thị trấn là đồi Chẹ nơi đặt trạm cung cấp nước sạch, điểm thấp nhất là
khu vụng Vạo thuộc Khu phố 1. Khí hâu thị trấn thuộc kiểu khí hậu trung du

9


miền núi, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 đến 28 0C, chịu ảnh hưởng của hai
hướng gió chính là gió mùa đông bắc và gió phơn tây nam. Thị trấn Thường
Xuân không có sông suối chảy qua mà chỉ có 2 hồ nhân tạo là hồ Ngọc Vàng ở

khu phố 4 và hồ Bệnh Viện ở khu phố 2 làm nhiệm vụ điều hòa và tưới tiêu thủy
lợi.[2]
4. Điều kiện xã hội:
Thị trấn Thường Xuân là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện
Thường Xuân nên là nơi đặt các cơ quan đầu não của huyện bao gồm các cơ
quan hành chính như UBND huyện, huyện Ủy, Công an, Quân sự ... Dân cư bao
gồm nhân dân từ nhiều nơi tụ họp về sinh sống, bao gồm 3 dân tộc chính là
Kinh, Thái, Mường trong đó dân tộc kinh chiếm hơn 90% dân số. Theo tổng
điều tra dân số năm 1999 thì Thị trấn Thường Xuân có 4 968 người. Hiện nay
dân số là 6 672 người (theo điều tra năm 2017). Nghề nghiệp của nhân dân phần
lớn là buôn bán nhỏ và làm tiểu thủ công nghiệp, một phần là làm nghề nông
nghiệp, trồng trọt và dịch vụ. Về văn hóa – y tế thì cả 3 trường học của 3 bậc
học đều đạt chuẩn quốc gia, trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia về Y tế. [2]
5. Truyền thống cách mạng:
Mặc dù mới thành lập được 30 năm nhưng trên địa bàn thị trấn Thường
Xuân còn lưu giữ các địa danh gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng
dân tộc Lê Lợi như ngã ba Đồng Chó với t ruyền thuyết kể lại rằng, khi Lê Lai giả
làm Lê Lợi, mặc áo vua để quân địch truy đuổi đã chạy về đây thì đàn chó của
quân địch xồ đến, đường cùng, ông chạy trốn vào một gốc đa cổ thụ, lũ chó chạy
đến thì bỗng đâu một con chồn trắng từ trong hốc đa chạy ra đánh lạc hướng,
làm tất cả lũ chó đổ xô đuổi theo con chồn, vì vậy mà Lê Lai đã thoát được nanh
vuốt của những con ác thú.
Lại nói chuyện lũ giặc chạy đến, không tìm thấy ai chúng đã xộc thẳng
kiếm vào trong hốc đa. Lê Lai đã nhịn đau không kêu mà lấy áo nắm chặt lưỡi
kiếm để chúng tuốt ra không để lộ vết máu. Ngã ba có cây đa cổ thụ ấy sau này
được Lê Lợi đặt cho cái tên ngã ba “Đồng Chó” là như vậy [2], ngôi đền thờ gần
Bệnh viện huyện tương truyền là được lập nên để thờ chồn trắng đó. Trải qua
hơn 600 năm lịch sử cây đa cánh đồng không còn nữa nhưng vẫn còn đó cái tên
và ngôi đền gắn liền với thời gian (mặc dù ngày nay không ai gọi tên đó nữa và
đã có một thời gian được đổi tên là ngã ba Đồng Mới).

Trên đây là những nét khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của
huyện Thường Xuân nói chung và Thị trấn Thường Xuân nói riêng. Là một
người Thường Xuân, chúng ta cần phải quan tâm đến những tư liệu lịch sử về
huyện nhà, chúng ta phải làm sao cho thế hệ hôm nay hiểu biết về lịch sử của
địa phương mình, nơi mình sinh ra và lớn lên. Qua đó, giúp các em càng tự hào
về quá khứ của cha ông ta. Họ đã hi sinh tất cả để giữ vững quê hương đất nước.
từ đó các em luôn cố gắng phấn đấu trong học tập, trở thành người làm chủ đất
nước trong tương lai và tiếp tục công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc cho cả hôm
nay và mai sau.

10


2.3.2. Hướng dẫn thực hiện dạy học lịch sử - địa lý địa phương:
1. Mục tiêu dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học:

a) Về kiến thức: Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản về:
Học sinh biết được vị trí địa lí, quá trình hình thành và phát triển của
huyện Thường Xuân.
Quá trình hình thành và phát triển của huyện. Các em nắm rõ các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử trong các giai đoạn. Tình hình kinh tế - chính trị văn hóa – xã hội trong các thời kì. Biết về những người anh hùng, những người
có công trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm tiêu biểu. Biết về một
số di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, một số truyền thống, phong tục tập quán,
nét văn hóa của đất và người Thường Xuân.
b) Về kĩ năng: Hình thành và rèn luyện cho các em một số kỹ năng:
+ Kỹ năng quan sát các sự vật hiện tượng và biết tìm kiếm các tư liệu lịch sử
về địa phương mình thông qua nhiều cách khác nhau.
+ Các em biết phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá các sự kiện đã diễn ra.
+ Biết trình bày kết quả học tập, nghiên cứu của mình bằng lời nói, bài viết,
lập bảng, biểu, sơ đồ,…

+ Biết gắn các sự kiện lịch sử địa phương vào tiến trình lịch sử dân tộc. Biết
vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn, đời sống.
c) Về thái độ:
Thông qua việc tìm hiểu về lịch sử địa phương mình giúp học sinh từng
bước phát triển thái độ, thói quen:
+ Ham học hỏi, tìm hiểu về lịch sử địa phương nơi mình sinh sống. Yêu
thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
+ Tôn trọng và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử tại địa
phương mình.
+ Tích cực tham gia các hoạt động công ích xã hội ở địa phương.
2. Nội dung dạy học lịch sử địa phương:
Nội dung dạy học lịch sử địa phương cho học sinh rất phong phú. Tài liệu
trên đây là nguồn mở, giáo viên có thể phân loại các sự kiện diễn ra theo tiến
trình lịch sử hoặc theo tính chất của các sự kiện lịch sử, đối với lịch sử của xã,
thị trấn giáo viên có thể tìm hiểu thêm ở Lịch sử đảng bộ xã, thị trấn và huyện
để đưa thêm tư liệu cho phong phú.
3. Nguyên tắc dạy học lịch sử địa phương:
Việc lựa chọn tri thức lịch sử địa phương để xây dựng thành bài giảng là
một yêu cầu được đặt ra cho giáo viên, bởi vì trong số hàng chục thậm chí hàng
trăm sự kiện, hiện tượng lịch sử địa phương không phải cái nào chúng ta cũng
đưa vào giảng dạy.
Do vậy việc lựa chọn tri thức lịch sử địa phương để biên soạn thành bài
giảng cần dựa vào những tiêu chí sau đây:
Trước hết, sự kiện hiện tượng và cả nhân vật lịch sử địa phương được đưa
vào giảng dạy phải là sự kiện hiện tượng và nhân vật tiêu biểu của địa phương.
Cần phải chý ý đến tính toàn diện, hệ thống của một bài học lịch sử, dù đó là
một bài học lịch sử địa phương.
11



Không làm cho bài giảng bị khô khan, chỉ còn cái sườn, rập khuôn thông
sử một cách máy móc, mất đi tính hấp dẫn, sinh động, cụ thể, đặc thù của tiết
học lịch sử địa phương.
Trong quá trình giảng dạy một bài học lịch sử địa phương cần tuân thủ
một số nguyên tắc chặt chẽ về lí luận dạy học:
Đó là phải bảo đảm tính chất khoa học và tính chính xác cao của những
thông tin được đưa thông báo. Phải đảm bảo đúng quy trình sư phạm của một
tiết học, phù hợp với nhận thức, tâm lí của học sinh và những dự định sư phạn
của nhà giáo dục. Phải đạt được mục tiêu giáo dục và giáo dưỡng của bài học.
Bên cạnh những quy định trên, khi biên soạn một bài giảng lịch sử địa
phương người giáo vên cần lưu ý những điều sau: Xác định vị trí của bài lịch sử
địa phương trong quá trình cần đảm bảo tính thống nhất, liên hệ, bổ sung giữa
lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc.
Đặc biệt đối tượng học sinh là tiểu học, chỉ cần nêu lên những mục tiêu
vừa phải để học sinh tiếp cận tri thức lịch sử địa phương một cách dễ dàng. Về
xây dựng nội dung và đề cương bài giảng lịch sử địa phương nó cũng tuân thủ
chặt chẽ về mặt thời gian, cần lựa chọn nội dung thật khoa học tránh lan man
theo lối kể chuyện lịch sử địa phương.
Xác định rõ hình thức bài nội khóa trên lớp hay giảng dạy tại thực địa, các
phương pháp và cách dạy học cụ thể của từng bài, tìm cách đổi mới phương
pháp giảng dạy và tạo hứng thú cho học sinh học tập.
Giáo án của một bài học lịch sử địa phương cũng như những môn học
khác, tức là nêu rõ các bước chủ yếu, công việc của thầy và trò, vắn tắt nội
dung, phương pháp của công việc nhằm đạt được mục đích yêu cầu đặt ra. Chú
ý phát huy tính tích cực hoạt động, học tập của học sinh, khêu gợi ý thức say mê
hiểu biết địa phương, tham gia sưu tầm tư liệu lịch sử địa phương. [5]
4. Phương pháp dạy học lịch sử địa phương.
- Phương pháp kể chuyện lịch sử: Kể lại diễn biến sự kiện, hoạt động của
nhân vật lịch sử…
- Phương pháp quan sát: tranh ảnh, hiện vật, bản đồ, sơ đồ…

- Phương pháp vấn đáp: đưa ra hệ thống câu hỏi cho học sinh nhằm tái
hiện các kiến thức lịch sử, các sự kiện lịch sử, …
- Phương pháp thảo luận nhóm: Thảo luận các câu hỏi như ý nghĩa lịch sử
của sự kiện, vai trò của các nhân vật lịch sử…
- Phương pháp đóng vai: Đóng vai các nhân vật lịch sử
- Phương pháp điều tra: Điều tra, sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện lịch sử.
- Phương pháp trò chơi lịch sử: trò chơi ô chữ, đánh trận giả,…[5]
5. Minh họa: Tài liệu dạy – học cho Giáo viên và học sinh. [7]
THƯỜNG XUÂN – VÙNG ĐẤT “ĐỊA LINH, NHÂN KIỆT”
A – Phần Địa lý: Tự nhiên và dân cư
1. Vị trí địa lý và các đơn vị hành chính:
Thường Xuân là huyện miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa.
Cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 60 km theo Quốc lộ 47. Phía Bắc giáp
12


huyện Lang Chánh, Ngọc Lặc. Phía Tây giáp huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An
và huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào. Phía Đông giáp huyện
Thọ Xuân, Triệu Sơn. Phía Nam giáp huyện Như Xuân và Như Thanh. Tổng
diện tích tự nhiên toàn huyện 111.380,8 ha.
Trước năm 2005, Thường Xuân có 19 xã, 1 thị trấn. Sau 2005, để xây
dựng công trình thuỷ lợi - thuỷ điện Cửa Đạt, đã di dời 3 xã: Xuân Mỹ, Xuân
Khao, Xuân Liên đưa nhân dân đi định cư tại các vùng kinh tế mới ở trong và
ngoài tỉnh.
Hiện nay, Thường Xuân có 16 xã, 1 thị trấn gồm: Bát Mọt, Yên Nhân,
Lương Sơn, Xuân Chinh, Xuân Lẹ, Vạn Xuân, Xuân Lộc, Xuân Thắng, Tân
Thành, Luận Khê, Luận Thành, Xuân Cao, Xuân Cẩm, Ngọc Phụng, Thọ Thanh,
Xuân Dương và thị trấn Thường Xuân.

- Em hãy nêu vị trí của huyện Thường Xuân?

- Hiện nay huyện Thường Xuân có bao nhiêu xã, thị trấn? em hãy nêu tên các xã, thị
trấn?
- Huyện Thường Xuân tiếp giáp với những huyện, tỉnh và nước nào?

2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
Địa hình của huyện chủ yếu là núi và đồi, xen kẽ giữa là các thung lũng
thấp như thung lũng Lương Sơn, Vạn Xuân và thấp dần từ Tây Bắc và Tây
xuống khu vực phía Đông và Nam, nơi cao nhất tại Chòm Vịn xã Bát Mọt là
1.442m so với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là thôn Xuân Thịnh xã Xuân
Dương. Do địa hình đồi núi nên đất đai chủ yếu là đất đỏ vàng chiếm diện tích
nhiều nhất sau đó đến các loại đất khác và một ít đất phù sa ven sông Chu, sông
Âm.
Khí hậu thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Có mùa đông lạnh do gió mùa
đông bắc, mùa hè nóng do (gió Lào). Địa hình cao, có hướng gió thịnh hành trên,
nên khí hậu Thường Xuân tương đối mát mẻ, mưa nhiều (mát lạnh và mưa lớn nhất
tỉnh). Nhiệt độ trung bình trong năm 22 - 25 0C, thấp nhất có thể xuống đến 00C 30C (ở vùng Bát Mọt), cao nhất 40 0C - 420C. Lượng mưa trung bình năm
2.200mm, có nơi như vùng Bù Rinh đạt 2.500mm. Nhìn chung, thời
13


tiết, khí hậu Thường Xuân tương đối thuận lợi cho đời sống và sản xuất, nhưng đôi
khi xảy ra giông bão, mưa đá, lũ quét, lũ ống.
Thường Xuân có hệ thống sông suối dày đặc. Tổng chiều dài của hệ thống
sông suối khoảng 1.000km, trong đó Sông Chu (nặm Sắm) là con sông lớn nhất
huyện, bắt nguồn từ Lào, sông Khao (Cao) bắt nguồn từ xã Bát Mọt, sông Đặt
bắt nguồn từ Xuân Chinh, Xuân Lẹ, sông Đằn (Chàng) bắt nguồn từ Xuân
Thắng, sông Âm bắt nguồn từ Lang Chánh ... Sông Chu có nhiều thác ghềnh nên
tiềm năng thủy điện lớn. Đầu thế kỷ XX người Pháp đã xây dựng đập Bái
Thượng trên sông Chu đưa nước vào nông giang tưới tiêu cho một dải ruộng
đồng rộng lớn tỉnh Thanh. Gần đây, công trình hồ Cửa Đặt được Chính phủ đầu

tư xây dựng để trữ nước cho sản xuất, sinh hoạt và kết hợp với phát điện.

Đập Bái Thượng trên sông Chu
Hệ thống đường giao thông được nối liền các xã, thị trấn và có đường ô tô
vào đến trung tâm xã, các tuyến đường đã được rải nhựa, đường giao thông
nông thôn, nội thị được nhựa hóa, bê tông hóa... giúp cho nhân dân đi lại, giao
lưu thuận tiện. Đặc biệt, nhiều tuyến đường giao thông chiến lược được đầu tư
nâng cấp. Đường tỉnh lộ 507 nối với đường Quốc lộ Hồ Chí Minh, Quốc lộ 47,
đường vành đai biên giới Việt - Lào… đặt huyện Thường Xuân vào vị trí giao
lưu dễ dàng với các huyện, thị bạn trong tỉnh, đặc biệt là khu đô thị trẻ Ngọc
Lặc, khu kinh tế động lực Lam Sơn - Thọ Xuân, Nghi Sơn - Tĩnh Gia; cảng hàng
không Thọ Xuân tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu trong nước và quốc tế.
-

Hãy nêu các điều kiện tự nhiên của huyện Thường Xuân?

-

Huyện Thường Xuân có bao nhiêu con sông? Hồ Cửa Đặt nằm trên con sông nào?

-

Hãy nêu đặc điểm của hệ thống giao thông huyện Thường Xuân?

B- Phần Lịch sử
1. Thường Xuân – Vùng đất “Địa linh, nhân kiêt”.
Lịch sử vùng đất, con người Thường Xuân gắn liền với tiến trình và
truyền thống lịch sử của tỉnh Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam. Thường Xuân là
một vùng đất cổ, đã qua quá trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm lịch
sử với các thời kì như sau:

Thời thuộc Hán là vùng đất huyện Vô Biên. Thời Tam Quốc đến nhà Tuỳ
thuộc huyện Di Phong. Thời Đường thuộc đất của huyện Trường Lâm. Thời
Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh gồm 2
14


phần thuộc các huyện huyện
Nga
Lạc
(châu
Thanh
Hoá),huyện Nông Cống (châu
Cửu Chân).
Thời Lê vẫn thuộc đất
của huyện Nga Lạc và huyện
Nông Cống. Thời nhà Nguyễn
(1835) thuộc châu Lang Chánh.
Múa quanh cây hoa (cây nêu) kết hợp biểu diễn
cồng chiêng, khua luống của phụ nữ bản Lùm Nưa.
Năm (1837), châu Thường
Xuân (còn gọi là Châu
Thường) ra đời. Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Thường Xuân đổi thành
huyện Thường Xuân và giữ nguyên cho đến hôm nay.
Huyện Thường Xuân có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường,
Kinh. Dân tộc Thái chiếm 53% dân số, dân tộc Kinh chiếm 43,3% dân số dân
tộc Mường chiếm 3,7% dân số. Từ xa xưa, nhân dân các dân tộc huyện Thường
Xuân có truyền thống đoàn kết, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, sáng
tạo những giá trị văn hóa cao đẹp.
- Huyện Thường Xuân thành lập năm nào?
- Khi thành lập đến nay Thường Xuân có những tên gọi như thế nào?

- Em hãy nêu đặc điểm dân cư huyện Thường Xuân ?

2. Văn hóa truyền thống danh nhân và các danh lam thắng cảnh: Văn
hóa Thường Xuân là văn hóa giao thoa giữa văn hóa của 3 dân
tộc Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái với Khặp (hát) Thái là những bài thơ, văn
vần tự sáng tác để hát, ngâm vịnh có đệm đàn và múa là nghệ thuật độc đáo.
Múa Thái gọi là xòe, điệu xòe phổ biến nhất là nhảy sạp được đệm thêm tiếng
khua luống, trống chiêng. Lễ hội Nàng Han ở xã Vạn Xuân là một trong những
lễ hội truyền thống của người Thái Thường Xuân.
Dân tộc Mường có kho tàng truyện kể, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc
biệt là sử thi "Đẻ đất đẻ nước" nhắc nhở con cháu ghi nhớ cội nguồn. Các bài
dân ca như hát bọ mệnh, hát dặm, hát đúm, hát đối đáp, hát giao duyên; phong
tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, tết Nguyên
tiêu, lễ hội xéc bùa, lễ hội Pôồn Pôồng hát múa quanh cây hoa ước mong cuộc
sống yên lành.
Dân tộc Kinh ở Thường Xuân sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa nước,
trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Làng của người Kinh ở các xã Xuân Dương, Thọ
Thanh mang đặc điểm làng nông thôn xứ Thanh và Bắc Bộ: có cây đa, bến nước,
sân đình. Các làng Thọ Thanh, Xuân Dương đều có đình, đền, miếu; những ngày
hội làng có hát chèo, tuồng, hát giao duyên, tổ chức trò chơi. Làng Hún (Xuân
Dương) có lệ tục mừng vía cho ông bà, cha mẹ (cả khi đã chết) vào ngày đầu
năm mới. Thổ âm của làng Hún cũng là hiện tượng hết sức độc đáo trong ngôn
ngữ xứ Thanh.

1
5


Thường Xuân có rất nhiều di tích và danh thắng gắn với truyền thống
dựng nước và giữ nước của các dân tộc như Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc

Phụng, đền thờ sĩ phu yêu nước Cầm
Bá Thước, đền thờ Bà Chúa Thượng
ngàn ở xã Xuân Cẩm và Xuân Mỹ
nay thuộc xã Vạn Xuân. Thác Trai
gái ở xã Xuân Lẹ, thác Thiên Thủy ở
xã Vạn Xuân ... khu du lịch sinh thái
bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cùng
Dâng hương đầu xuân tại di tích Hội thể
hồ Cửa Đặt đã tạo nên một chuỗi
danh lam thắng cảnh góp phần đưa
Lũng Nhai
Thường Xuân trở thành một điểm du
lịch trên bản đồ du lịch của tỉnh Thanh Hóa.

Khu đền thờ Cửa Đặt

Đất Thường Xuân còn ghi lại dấu tích, dấu ấn văn hóa các cuộc khởi
nghĩa gắn với con người, vùng đất Thường Xuân. Thế kỷ XV, Lê Lai, Lê Lợi tổ
chức hội thề Lũng Nhai. Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ở
Thường Xuân, đồng bào các dân tộc đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chống
Pháp của nhà ái quốc Cầm Bá Thước. Căn cứ Trịnh Vạn (thuộc thôn Bù Đồn, xã
Vạn Xuân) đi vào lịch sử dân tộc. Trong hai
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, huyện
Thường Xuân đã đóng góp sức người và của
cải vật chất cho kháng chiến, có 3 xã và 5
người con ưu tú của huyện được phong tặng
danh hiệu anh hùng đó là xã Xuân Dương, xã
Thọ Thanh và xã Tân Thành. Anh hùng Lò Văn
Bường ở xã Xuân Lẹ, anh hùng Lê Thị Cửu ở
xã Xuân Dương, anh hùng Hà Văn Thanh ở xã

Lương Sơn, anh hùng Cầm Bá Trùng ở xã Luận
Khê, anh hùng liệt sĩ Ngô Khắc Quyền ở xã
Thọ Thanh và 14 bà mẹ liệt sỹ được nhà nước
phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng.
- Các dân tộc ở Thường Xuân có những nét
-

Anh hùng Lò Văn Bường

văn hóa như thế nào?
Hãy kể tên một số di tích lịch sử và danh nhân anh hùng ở Thường Xuân?

16


C- Thị trấn Thường Xuân – Trung tâm Văn hóa – Kinh tế - Chính trị
của huyện Thường Xuân.
Thị trấn Thường Xuân thành lập ngày 03/06/1988 trên cơ sở một phần đất
và dân số của các xã Ngọc Phụng và Xuân Dương. Thời kì đầu có các thôn là:
Ngọc Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt dược
đổi tên là các Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5.
Thị trấn Thường Xuân nằm ở phía Đông của huyện Thường Xuân. Phía
Bắc giáp xã Ngọc Phụng, phía Đông giáp xã Xuân Dương, phía Nam giáp xã
Thọ Thanh, phía Tây giáp xã Xuân Cẩm. Quốc lộ 47 chạy xuyên suốt hết chiều
dài về phía tây bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn, buôn bán.
Diện tích 2,73 km2 địa hình thấp dần từ tây sang đông, điểm cao nhất của
là đồi Chẹ, điểm thấp nhất là khu vụng Vạo thuộc Khu phố 1. Khí hâu thuộc
kiểu khí hậu trung du miền núi, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 đến 28 0C.
Thị trấn Thường Xuân không có sông suối chảy qua mà chỉ có 2 hồ nhân tạo là
hồ Ngọc Vàng ở khu phố 4 và hồ Bệnh Viện ở khu phố 2 làm nhiệm vụ điều hòa

và tưới tiêu thủy lợi.
Thị trấn Thường Xuân là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện
nên là nơi đặt các cơ quan như UBND huyện, huyện Ủy, Công an, Quân sự …
Dân cư của bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Thái, Mường trong đó dân tộc
kinh chiếm hơn 90% dân số. Hiện nay dân số là 6 672 người (theo điều tra năm
2017). Nghề nghiệp của nhân dân phần lớn là buôn bán nhỏ và làm tiểu thủ công
nghiệp, một phần là làm nghề nông nghiệp, trồng trọt và dịch vụ. Về văn hóa – y
tế thì cả 3 trường học của 3 bậc học đều đạt chuẩn quốc gia, trạm Y tế đạt chuẩn
quốc gia về Y tế.
Trên địa bàn Thị trấn Thường Xuân còn lưu giữ các địa danh gắn liền với
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng dân tộc Lê Lợi như ngã ba Đồng Chó với
truyền thuyết kể lại rằng, khi Lê Lai giả làm Lê Lợi, mặc áo vua để quân địch
truy đuổi đã chạy về đây thì đàn chó của quân địch xồ đến, đường cùng, ông
chạy trốn vào một gốc đa cổ thụ, lũ chó chạy đến thì bỗng đâu một con chồn
trắng từ trong hốc đa chạy ra đánh lạc hướng, làm tất cả lũ chó đổ xô đuổi theo
con chồn, vì vậy mà Lê Lai đã thoát được nanh vuốt của những con ác thú.
Lại nói chuyện lũ giặc chạy đến, không tìm thấy ai chúng đã xộc thẳng
kiếm vào trong hốc đa. Lê Lai đã nhịn đau không kêu mà lấy áo nắm chặt lưỡi
kiếm để chúng tuốt ra không để lộ vết máu. Ngã ba có cây đa cổ thụ ấy sau này
được Lê Lợi đặt cho cái tên ngã ba “Đồng Chó” là như vậy, ngôi đền thờ gần
Bệnh viện huyện tương truyền là được lập nên để thờ chồn trắng đó. Trải qua
hơn 600 năm lịch sử cây đa cánh đồng không còn nữa nhưng vẫn còn đó cái tên
và ngôi đền gắn liền với thời gian (mặc dù ngày nay không ai gọi tên đó nữa và
đã có một thời gian được đổi tên là ngã ba Đồng Mới).
-

Em hãy cho biết Thị trấn Thường Xuân thành lập năm nào và tiếp giáp với những xã
nào?

-


Em hãy nêu một số đặc điểm tự nhiên của Thị trấn?
Thị trấn Thường Xuân có mấy dân tộc, dân tộc nào có số dân đông nhất?

17


2.4. Hiệu quả của đề tài:
Thực tế áp dụng tại trường trong những năm học trước khi chưa biên soạn
thành tài liệu, tôi nhận thấy học sinh rất có hứng thú khi được học về quê hương
mình, huyện mình, nơi mình sinh ra qua đó tôi nhận thấy:
Dạy dọc lịch sử dân tộc nói chung, dạy học lịch sử - địa lý địa phương nói
riêng có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Nó là hình ảnh thiết
thực trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát tiển tư duy cho học sinh.
Thứ nhất, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương trong nhà trường làm
chiếc cầu nối giữa nhà trường, học sinh, với đời sống xã hội, giữa quá khứ, hiện
tại với tương lai.
Thứ hai, dạy học lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học là một
phương tiện quan trọng để nâng cao chất lượng kiến thức, hình thành thế giới
quan khoa học và giáo dục cho học sinh lòng yêu đất nước, quê hương, góp
phần cung cấp thêm một nguồn tri thức mới cho các em học sinh. Đồng thời
cũng góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng nhiệt tình say mê môn
học.
Thứ ba, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương đóng vai trò quan trọng để
phát triển tư duy cho học sinh. Giúp cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm
lịch sử - địa lý chung và riêng, nhận thức được các hình thái kinh tế xã hội qua
từng giai đoạn phát triển của lịch sử… Ngoài ra, nó còn giúp cho học sinh nắm
vững hơn nữa những khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống: “Tự nhiên – con
người – xã hội”. Thấy được vai trò của con người tác động đến việc cải tạo và
chinh phục tự nhiên một cách hợp quy luật, không phải là tàn phá thiên nhiên.

Thứ tư, dạy học lịch sử địa phương nhằm góp phần vào việc bồi dưỡng
tình cảm, trách nhiệm đối với quê hương.
Thứ năm, dạy học lịch sử - địa lý địa phương là hình thành cho thế hệ trẻ
lòng yêu quê hương đất nước. Thông qua nguồn tri thức giúp cho học sinh hiểu
sâu sắc hơn về lịch sử - địa lý tại địa phương mình. Từ đó, học sinh sẽ hình
thành, kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của cha ông.
Thứ sáu, việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương có tác dụng tích cực
trong việc rèn luyện khả năng thực hành cho học sinh cùng với các môn học
khác và các hoạt động khác của nhà trường, gắn nhà trường với đời sống xã hội.
[6]

Với những ý nghĩa trên, giúp cho giáo viên và học sinh thấy rõ tầm quan
trọng của việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương. Chỉ khi chúng ta hiểu biết
được về quê hương thì mới có cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa lịch sử địa
phương với lịch sử dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu, dạy học lịch sử địa phương
cần được quan tâm hơn nữa. Có như vậy mới thật sự làm cho tiết học thêm
phong phú và sinh động. Học sinh mới cảm thấy hứng thú khi học tập lịch sử
dân tộc nói chung, của địa phương nói riêng, mới thật sự không bị lãng quên,
ngày càng làm cho nhiều người nghiên cứu và tìm hiểu.

18


6. Kết luận – kiến nghị
a. Kết luận
Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học
là quán triệt nguyên lý giáo dục của Đảng, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn. Đây là vấn đề cần được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và có hiệu
quả. Từ đó hình thành ở người giáo viên ý thức và trách nhiệm trong việc tìm tòi
và nghiên cứu tài liệu để bài giảng lịch sử - địa lý địa phương đạt kết quả cao.

Giáo viên cần nắm được khả năng, trình độ, tâm lý nhận thức của học
sinh, thực hiện nguyên tắc dạy học nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, chủ
động nhận thức của học sinh. Vì vậy, cần phải có kế hoạch cụ thể về phần giảng
dạy lịch sử - địa lý địa phương cho mỗi năm học. [4]
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy phải phù hợp
nội dung quy định của chương trình, khả năng của giáo viên, trình độ tâm lý
nhận thức của học sinh, điều kiện cụ thể của từng địa phương và nhà trường.
Qua đó giúp cho cả giáo viên và học sinh đi vào nghiên cứu tìm hiểu lịch sử địa lý địa phương. Có vậy vấn đề dạy và học lịch sử - địa lý địa phương mới
thực sự có bước khởi sắc trong thời đại ngày nay.
b. Kiến nghị:
Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Thị trấn
và các trường tiểu học khác trên địa bàn huyện, có thể mở rộng để dạy cho học
sinh THCS. Các nhà trường khi áp dụng chỉ cần thay phần lịch sử - địa lý của
đơn vị xã là được.
Đề nghị giáo viên dành thêm thời gian để nghiên cứu bài dạy, sưu tầm tư
liệu, minh chứng phục vụ giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương tại đơn vị mình.
Ngoài ra cần ứng dụng công nghệ thông tin nhiều hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa.
Đề tài này không chỉ thực hiện trong năm học này, mà còn tiếp tục bổ
sung hoàn chỉnh trong những năm học tiếp theo để đạt hiệu quả cao hơn.
Đề nghị các cấp quản lý giáo dục chỉ đạo sâu sát hơn nữa việc dạy học
lịch sử - địa lý địa phương tại các nhà trường để học sinh hiểu sâu hơn về quê
hương nơi mình sinh ra.
Trên đây là những tư liệu và nguyên tắc, phương pháp giảng dạy tiết học
lịch sử - địa lý địa phương cho học sinh lớp 5. Rất mong sự đóng góp ý kiến của
đồng nghiệp, và của các cấp lãnh đạo để tài liệu hoàn thiện hơn, tiết dạy lịch sử địa lý địa phương đạt hiệu quả cao nhất.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 24 tháng 02 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.

Người thực hiện

Trịnh Ngọc Sơn
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Đảng bộ huyện Thường Xuân từ 1949 đến 2010 – Ban tuyên giáo
Huyện Ủy Thường Xuân.
2. Dư địa chí huyện Thường Xuân – Cổng thông tin điện tử huyện Thường
Xuân.
3. Dạy học Lịch sử địa phương cho học sinh Tiểu học tỉnh Hà Nam – Hà Thị
Tâm - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
4. Nguyễn Cảnh Minh, Phan Kim Ngọc, Tác dụng đào tạo của môn lịch sử
địa phương, Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 11 – 1986.
5. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, 2002, Phương pháp
dạy học lịch sử, nhà xuất bản Đại học Sư Phạm, tập II.
6. Đào Tố Uyên, Nguyễn Công Khanh – Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Góp
thêm ý kiến về việc nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa
phương.
7. Tài liệu dạy hoc Lịch sử - Địa lý địa phương tỉnh Thanh Hóa - Phạm Thị
Hằng, Vũ Duy Cảng, Trịnh Vĩnh Long, Trần Viết Lưu - Sở GD&ĐT
Thanh Hóa – Năm học 2013 – 2014.

20


DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỌI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ tên tác giả: Trịnh Ngọc Sơn
Chức vụ và đơn vị công tác:Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị
trấn Thường Xuân.
TT

1
2
3

4

5

6

7

8

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp quản lý và chỉ đạo
hoạt động chuyên môn ở trường TH
Thị trấn
Một vài kinh nghiệm trong việc thực
hiện và giữ vững chỉ tiêu PCGD ở
trường Tiểu học Thị Trấn

Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng
nề nếp Vở sạch – Chữ đẹp cho học
sinh Trường Tiểu học Thị trấn
Thường Xuân
Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng
nề nếp Vở sạch – Chữ đẹp cho học
sinh Trường Tiểu học Thị trấn
Thường Xuân
Một số kinh nghiệm ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý
và chỉ đạo dạy học ở Trường Tiểu
học Thị trấn Thường Xuân.
Một số kinh nghiệm ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý
và chỉ đạo dạy học ở Trường Tiểu
học Thị trấn Thường Xuân.
Một số biện pháp trong công tác quản
lý và chỉ đạo thực hiện mô hình
trường học mới Việt Nam nhằm nâng
cao chất lượng giao dục ở Trường
Tiểu học Thị trấn Thường Xuân.
Một số biện pháp trong công tác quản
lý và chỉ đạo thực hiện mô hình
trường học mới Việt Nam nhằm nâng
cao chất lượng giao dục ở Trường
Tiểu học Thị trấn Thường Xuân.

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD

cấp huyện/
tỉnh)

Phòng
GD&ĐT
huyện
Phòng
GD&ĐT
huyện
Phòng
GD&ĐT
huyện

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại.

C

2004 – 2005

B

2006 – 2007


A

2008 – 2009

Sở
C
GD&ĐT
Thanh Hóa

2008 – 2009

Phòng
GD&ĐT
huyện

A

2011 – 2012

Sở
B
GD&ĐT
Thanh Hóa

2011 – 2012

Phòng
GD&ĐT
huyện


A

2014 – 2015

Sở
C
GD&ĐT
Thanh Hóa

2014 – 2015

21



×