Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN tích hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn địa lý lớp 10, 12 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.46 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Một số giải pháp tích hợp kiến thức ca dao, tục ngữ vào giảng dạy
một số bài trong chương trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.
2.3.1. Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên
2.3.2. Mối quan hệ giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất
2.3.3. Mối qua hệ giữa con người với các cảnh quan tự nhiên của các
miền đất trên đất nước ta
2.3.4. Các câu ca với địa lí các vùng kinh tế (Sự phân hóa lãnh thổ)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO.

TRANG
1
1
1
1
1


2
2
2
3
4
4
6
8
9
11
11
11
12
14

0


1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Địa lí được xem là môn học tổng hợp vừa mang tính xã hội, vừa mang tính
tự nhiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì thế trong quá trình dạy học,
nếu chúng ta biết chọn lọc các câu ca dao, tục ngữ hay phù hợp, những trích đoạn
của câu ca, điệu hò, lồng ghép vào các bài dạy tương ứng, sẽ giúp học sinh hứng
thú hơn, hiểu rõ và khắc sâu hơn nội dung cần tìm hiểu, bài dạy sẽ sinh động hơn.
Đồng thời khuyến khích học sinh tự tìm tòi học hỏi, để rút ra những kinh nghiệm
cho bản thân tạo cho các em vốn kiến thức để tích lũy cho cuộc sống các em sau
này. Vận dụng những kiến thức đã học với những bài học từ dân gian giúp học sinh
có cách nhìn thực tế hiện thực khách quan hơn về thế giới duy vật biện chứng. Hiện
tại chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng nghiệp, nhà

trường chưa có kinh nghiệm giải quyết, khắc phục. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Tích
hợp ca dao, tục ngữ trong giảng dạy môn Địa lí lớp 10, 12 ở trường THPT"
nhằm giúp học sinh sẽ dễ nhớ và khắc sâu kiến thức hơn và đây cũng chính là mục
đích của quá trình lồng ghép các chương trình giáo dục theo bản thân tôi là hiệu
quả nhất đối với học sinh THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, và thực tiễn sáng kiến đề xuất một số giải pháp tích hợp
ca dao, tục ngữ nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em học sinh yêu
thích môn địa lí, dễ nhớ và khắc sâu kiến thức sau mỗi bài học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này sẽ nghiên cứu, tìm hiểu các câu ca dao, tục ngữ, liên quan đến các
hiện tượng địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội để lồng ghép vào bài dạy địa lí lớp 10, 12
ở trường THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong đề tài: Phương pháp
nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu
thập thông tin....
Phương pháp thống kê, xử lí số liệu, hệ thống khái quát hóa những vấn đề cơ
bản của các tư liệu về lý luận dạy học, phương pháp dạy học các vấn đề liên quan
đến ca dao, tục ngữ về các hiện tượng địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội trong chương
trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường trung học phổ thông. Tiến hành sưu tầm các
câu ca dao, tục ngữ, thơ ca … có quan hệ sát với nội dung các bài địa lí thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải trong một bài ca dao, những
câu tục ngữ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn những
câu sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng. Chọn lựa, phân loại các kiến thức ca dao, tục
ngữ phù hợp với yêu cầu, phương pháp giảng dạy địa lí theo từng nội dung bài học.
Sau khi phân loại, chúng tôi tiến hành sắp xếp nguồn tư liệu đó thành từng chủ đề.

1



1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm đã vận dụng ca dao, tục ngữ trong giảng dạy Địa lí
lớp 10 và lớp 12 nhằm giúp học sinh yêu thích môn Địa lí, tạo hứng thú học tập cho
các em học sinh.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
“Tích hợp ” là gì? Theo từ điển tiếng Anh, Integration - có nghĩa là sự kết
hợp những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những
bộ phận này có thể khác nhau nhưng kết hợp được với nhau. Như vậy đây là một
khái niệm rộng có nguồn gốc từ tiếng Latinh. Integration - có nghĩa là xác lập cái
chung, cái toàn thể, các thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Trong dạy học bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các
môn học, lĩnh vực học tập khác nhau. Tích hợp trong dạy học địa lí có nghĩa là lồng
ghép các nội dung có liên quan vào bài học địa lí, ví như lồng ghép kiến thức văn
học, toán học , lịch sử.... vào nội dung bài học . Trong khuôn khổ của đề tài này tôi
đã chọn lồng ghép kiến thức ca dao, tục ngữ, thơ ca của văn học để làm phong phú
bài giảng, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là nhằm tích cực hoá hoạt
động của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức mới. Một trong những phương
pháp hiệu quả nhất đó là áp dụng việc dạy học liên môn.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường
phổ thông. Đây là cách tìm các nội dung chung giữa những môn học với bộ môn
địa lí, từ đó sẽ bổ sung, làm sáng tỏ hơn những kiến thức mới cho học sinh.
Vậy dạy học tích hợp là phương pháp giảng dạy kết hợp một hoặc nhiều môn học
nhằm làm sáng tỏ cho môn học mà giáo viên thấy sự cần thiết trong việc giảng dạy.
Có thể hiểu một cách đơn giản hơn, dạy học tích hợp là vừa dạy nội dung lý thuyết
và thực hành trong cùng một bài dạy.
Môn Địa lý có vị trí và ý nghĩa sâu sắc, đây là môn học có tác dụng giáo dục
và giáo dưỡng rất lớn - là một trong những yêu cầu cơ bản đầu tiên để xây dựng

tình yêu Tổ quốc, yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Hiện nay, trong quá trình CNH-HĐH đang diễn ra mạnh mẽ, xu thế của nền
kinh tế thị trường với những mưu toan trên thương trường, con người đôi khi đã thờ
ơ trước quy luật phát triển của tự nhiên, làm thay đổi quy luật, gây ô nhiễm môi
trường, đôi khi bỏ qua hoặc lãng quên những kinh nghiệm ngàn đời được thể hiện
qua ca dao tục ngữ, ngạn ngữ mà họ đã được nghe, được học. Chính vì thế ngày
nay chủ trương của ngành trong đổi mới phương pháp, dạy học tích cực lấy học
sinh làm trung tâm, đặc biệt đối với các bộ môn được chọn để lồng ghép, tích hợp,
tiếp cận các chương trình giáo dục, như: môi trường, dân số, tình yêu quê hương
đất nước, tiết kiệm năng lượng, kĩ năng sống... thì việc tích hợp vào trong bài học
Địa lí là rất cần thiết.
2


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Do cơ chế thị trường, sự bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ bão của
khoa học và công nghệ, do không tìm được việc làm vì thế mà một số em chú trọng
môn khoa học tự nhiên, môn địa lí ít được quan tâm. Kiến thức địa lí nhiều bài khô
khan giáo viên chỉ dạy cho hết giờ không tâm huyết với bộ môn thì người học sẽ
thấy giờ địa lí nhàm chán , nặng nề và thực tế này đã xảy ra ở nhiều trường THPT.
Thực trạng này đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo trong việc sử dụng
phương pháp và để làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn hơn giáo viên nên sử
dụng ca dao, tục ngữ trong giờ dạy địa lí.
Tài liệu văn học, đặc biệt là ca dao, tục ngữ có vai trò hết sức to lớn trong quá trình
dạy học môn địa lí ở trường phổ thông , góp phần vào việc giáo dục giáo dưỡng và
phát triển tư duy học sinh. Tuy nhiên một phần lớn phụ huynh học sinh xem nhẹ
môn địa lí cho rằng đây là môn học không quan trọng, quan niệm đó có cả trong
suy nghĩ của lãnh đạo một số trường, rất quan tâm ưu ái cho môn khoa học tự nhiên
còn môn khoa học xã hội nói chung và môn địa lí nói riêng thì thiếu sự quan tâm
đúng mức.

Bản thân các em học sinh chưa thật sự ham thích môn địa lí, coi môn địa lí là
môn phụ nên thường xem nhẹ. Ngoài ra nếu chọn học lên đại học thì không xin
được việc làm, nên thái độ của các em thường là học đối phó, do đó trong giờ học
thường thụ động, chưa tích cực xây dựng bài.
Bên cạnh đó học sinh hiện nay học rất thực dụng, chỉ biết học như thế nào là có
điểm và lên lớp còn việc tích hợp, tích lũy thêm kiến thức từ đời sống thực tế ngày
càng xa vời. Các quy luật tự nhiên trong các câu ca dao tục ngữ khi đọc đến, có
nghe thấy thì cũng nghe cho vui tai, nghe thấy "hay hay" vậy thôi, chứ đâu có hiểu
nội dung của câu ca đó có nghĩa gì, nội dung ra thế nào, và vì sao lại như vậy....
Như bài: "Đi cấy" nhiều học sinh cũng biết đến và có thuộc, nhưng nhiều em không
hiểu vì sao có đoạn "...trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông nắng, trông
ngày, trông đêm..."mà đó chính là trông cho mưa thuận, gió hòa, trông vào thời tiết
khí hậu trước khi xuống mùa vụ. Hoặc như lời bài hát : "Trường sơn Đông, Trường
sơn Tây bên nắng đốt, bên mưa bay" cũng có nhiều học sinh hát được, nhưng khi
vận dụng vào bài học để giải thích thì học sinh không hiểu được đây là yếu tố địa
hình của dãy Trường Sơn đã tác động đến khí hậu của hai sườn Đông - Tây tạo nên
sự khác biệt. Vì vậy trong quá trình giảng dạy Địa lí, người giáo viên cần tác động
đến các đối tượng học sinh, ra bài tập cho học sinh tự làm, tự tìm hiểu thêm, kích
thích quá trình học hỏi, ham hiểu biết của các em bằng việc sưu tầm càng nhiều câu
ca dao, tục ngữ làm phong phú thêm nguồn tư liệu dạy học, vừa góp phần bảo tồn
các di sản văn hóa của dân tộc. Đồng thời việc đưa các câu ca dao, tục ngữ, ngạn
ngữ vào bài học Địa lí nhằm khắc sâu kiến thức hơn, góp phần làm

3


phong phú hơn vốn tích lũy một số kinh nghiệm của ông cha ta, giúp chúng có
thêm "tài sản" trong cuộc sống lao động, sản xuất sau này.
2.3. Một số giải pháp tích hợp kiến thức ca dao, tục ngữ vào giảng dạy một số
bài trong chương trình địa lí lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.

2.3.1 Mối quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên:
Khi dạy bài “Hệ quả chuyển động xung quanh mặt trời của Trái đất”( Địa lí
10) để khắc sâu kiến thức về hiện tượng “Ngày đêm, dài ngắn theo mùa”. Tôi đọc
câu ca dao:
“Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối” (ca dao)
Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức mới học để giải thích.
Học sinh vẽ hình

Giải thích: Mùa hè ở nửa cầu Bắc (Tháng 5 Việt Nam)
Cụ thể 22/6 hàng năm, tia bức xạ Mặt trời chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt
Trái đất tại Chí tuyến Bắc (23027’B) nên thời gian chiếu sáng ở nửa cầu Bắc (Việt
Nam) dài, càng về phía Cực Bắc ngày càng dài, nên hiện tượng có ngày dài, đêm
ngắn.
Vào ngày 22/12, Mặt trời chuyển động biểu kiến về Chí tuyến Nam và vuông
góc với tiếp tuyến bề mặt đất tại 23 027’N (Chí tuyến Nam) thì ở Việt Nam hiện
tượng đêm dài, ngày ngắn. Do đó có câu “Ngày tháng Mười chưa cười đã tối”.
Khi dạy bài “Sóng - Thủy triều- Dòng Biển” để giải thích hiện tượng thủy triều vận
dụng câu tục ngữ: "Trăng lên thì nước lên" giải thích lực hút mạnh mẽ của Mặt
Trăng. Đối với con nước triều “cường”, “kém” liên quan đến vị trí của Mặt Trăng,
Mặt Trời và Trái Đất trong không gian, liên hệ hiện tượng trăng khuyết thời kỳ
triều “kém”, ca dao có câu:
“Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm” ( Ca dao)
4


Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên rất khăng khít, chúng hoạt động
theo một quy luật thống nhất và hoàn chỉnh. Chỉ một thành phần tự nhiên thay đổi
sẽ làm cả tổng hợp thể tự nhiên thay đổi theo, mà nguyên nhân sâu xa là sự thay đổi

của bức xạ Mặt trời, do “chuyển động biểu kiến” từ nửa cầu Bắc sang nửa cầu Nam
của Mặt trời: Khi Mặt trời chuyển động về phía cầu nào thì các yếu tố: nhiệt độ, khí
áp, hướng gió, mưa, sự phát triển của sinh vật sẽ thay đổi tạo ra cảnh quan địa lý
đặc trưng theo mùa.
Trong các câu tục ngữ, ca dao đã thể hiện những quan sát tinh tế về mối quan
hệ giữa thời tiết với sinh vật:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (Ca dao)
Người nông dân chỉ đúc kết kinh nghiệm về thay đổi thời tiết của độ bay cao,
thấp của con chuồn chuồn. Còn học sinh khi học phần khí hậu (khí quyển, khí áp,
gió, mưa...) sẽ giải thích độ cao, thấp của chuồn chuồn khi bay với hiện tượng
“mưa, nắng” là do yếu tố áp suất không khí và độ ẩm... Cũng là hiện tượng thời
tiết:
“Tháng Bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão”( Tục ngữ)
Hiện tượng “gió heo may” loại gió nhẹ, hơi lạnh và khô thường thổi vào mùa
thu (đầu đông) ở vùng Bắc bộ hoạt động mạnh vào thời gian từ tháng 9, 10 dương
lịch. Mùa này thường không có mưa. Nhưng nếu tháng Bảy có gió heo may với
hiện tượng có chuồn chuồn bay nhiều báo hiệu có bão nhiệt đới, nên để chỉ tính
chất của thời tiết này ông cha ta xưa mới có câu trên.
Chỉ cần quan sát sự xuất hiện của những đàn kiến di chuyển cùng với “lương thực,
thực phẩm...” từ dưới đất lên cao thì sẽ có lũ lớn.
Với câu:

“Tháng bảy kiến đàn
Đại hàn hồng thủy” ( Ca dao)
Vào tháng 7, mùa hè của nửa cầu Bắc (Việt Nam), nhiệt độ không khí ở trên
lục địa cao trở thành khu áp thấp hút gió (khối khí ẩm) từ Thái Bình Dương vào
gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuất hiện của các khu khí áp thấp trên
biển, gây nên mưa bão ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cũng là khối khí ẩm từ cao áp
Thái Bình Dương gây nên kiểu thời tiết mưa lớn bằng thực tế trong dân gian có

câu:
Nhưng nếu thấy:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy”
“Cơn đàng Tây vừa làm vừa chơi”
Hay:
“Cơn đàng Bắc đổ thóc ra phơi” ( Tục ngữ)
Do ảnh hưởng của địa hình: dãy Hoàng Liên Sơn ở Bắc Bộ, dãy Trường Sơn
Bắc (Bắc Trung Bộ) nên khi có gió Tây Nam chỉ gây mưa ở Tây Bắc, Tây Trường
sơn Bắc, Nam bộ và Tây Nguyên. Còn ở vùng đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung
Bộ và ven biển Nam Trung Bộ không có mưa. Tương tự “cơn đàng Bắc...” là ảnh
5


hưởng của khối khí ôn đới xuất phát từ cao áp lục địa (Xibêri) tính chất lạnh và khô
nên không gây mưa. Hay “tháng Tám nắng rám trái bưởi”. Do đặc điểm lãnh thổ
nước ta trải dài trên những vĩ độ (15 0 vĩ tuyến), lưng dựa vào dãy Trường Sơn mặt
hướng ra biển Đông hùng vĩ nên cảnh quan thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của
biển.
“Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang
Mây kéo lên ngàn, thì mưa như trút” ( Ca
dao)
Hoặc là dạy bài 13: “Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển.Mưa”( Địa
10) , liên hệ các yếu tố thời tiết có câu tục ngữ:
Quá mù ra mưa;
Đông sao thì nắng, (nhiều sao trên trời)
vắng sao thì mưa ( Tục ngữ)
Khi dạy bài “Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển” (Địa lí 12) giảng
đến phần các dạng địa hình bờ biển, bãi biển đẹp nổi tiếng, với những vũng, vịnh
nước sâu để xây dựng các hải cảng. Để liên hệ với dạng địa hình, cảnh quan độc
đáo của Bắc Trung Bộ có thể giới thiệu câu:

“ Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”( Ca dao)
Giáo viên giải thích “Truông”- địa hình đồi cỏ cằn cõi ở Bắc Trung Bộ (Hà
Tĩnh) rất phổ biến. Phá Tam Giang, vùng nước biển ăn sâu vào lục địa thông với
cửa biển hẹp (Cửa Thuận An, cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. “Phá”
được 3 con sông đổ nước ngọt vào: sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, tạo một
vùng nước lợ với quần thể thủy sinh độc đáo như: Cá hanh, cá dìa, cá đối, cá liệt,
tôm rằn, đặc biệt dưới đáy thảm rong phát triển rất dày. Nguồn phân hữu cơ được
người dân khai thác bón cho hoa màu.
2.3.2 Mối quan hệ giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất
Người nông dân Việt Nam trải qua bao khó khăn gian khổ, chống chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt (thiên tai) để sản xuất Nông nghiệp. Họ đã có những kinh
nghiệm được đúc kết thể hiện tính mùa vụ khắt khe. Để nhắc nhở đã có câu:
“Tháng Một là tháng trồng khoai
Tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà”(Ca dao)
Đây là câu tục ngữ ca dao, tôi chỉ sử dụng khi dạy phần “các mùa trong
năm”( Địa Lí 10). Do Trái đất là hình cầu, cùng một lúc thực hiện 2 chuyển động
(tự quay) và chuyển động xung quanh Mặt trời. Quỹ đạo chuyền động xung quanh
mặt trời là đường Elíp, từ đó sinh ra hiện tượng các mùa trong năm.

6


Từ 21-3 đến 22-6: Mùa xuân
+Từ 23-9 đến 22-12: Mùa thu
+Từ 22-6 đến 23-9: Mùa hạ
+Từ 22-12 đến 21-3năm sau: Mùa đông
(trong thực tế các mùa thường sớm hơn 40-45 ngày).
Mỗi mùa, điều kiện bức xạ mặt trời, nhiệt độ không khí, khí áp, gió, mưa (nhiệt,
ẩm) thích nghi với sự phát triển của từng loại cây trồng nên có câu ca trên. Hiện

nay sự tác động của khoa học, việc ứng dụng các kỹ thuật trong sản xuất. Con
người có thể làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, song ấn tượng “mùa nào, thức nấy” vẫn
thơm, ngon hơn.
Đặc điểm phụ thuộc vào diễn biến của tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp được
thể hiện qua con mắt của người nông dân với câu hát mong mùa
“Mồng chín, tháng chín có mưa
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng chín, tháng chín không mưa
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”( Ca dao)
Tháng 9, người nông dân bắt tay vào cày bừa vụ đông xuân (vụ Chiêm), nếu có
mưa thường là do hoạt động của loại gió Tín phong Bắc bán cầu (mậu dịch) với
khối khí chí tuyến khô-T, nếu thổi từ biển vào nên thường có mưa (gió Đông Bắc)
do gió bị biến tính khi qua biển
.

23027’B
Xích đạo

23027’N

7


Từ kinh nghiệm thực tế có câu:
“Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng( Ca dao)
Lúa trổ vào tháng Hai (âm lịch) thời kỳ hoạt động mạnh của các đợt, gió mùa
Đông Bắc (bấc) gió to, khô nên lúa sẽ “ngậm đòng, đứng bông” vì lúa sẽ không
"phơi mao, thụ phấn" sẽ thất bát.
“Trời nồm tốt mạ, trời giá tốt rau”

Mùa hè ở Việt Nam thì chịu tác động của gió mùa mùa hạ: tín phong Đông
Nam có mưa, Tây nam khô nóng (trừ Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng
sông Cửu Long có mưa). Khi gieo mạ có gió Đông Nam nhiệt, ẩm phong phú, cây
mạ phát triển xanh tốt. Về mùa Đông, Việt Nam chịu tác động của gió mùa mùa
đông -Thời tiết lạnh (giá) lại phù hợp với các loại cây thực phẩm ôn đới, cận nhiệt
được trồng nhiều ở vùng Bắc bộ: bắp cải, su hào, cà chua, súp lơ, cà rốt và cả các
loại cây ăn quả: đào, lê, mận...đặc sản vùng miền Bắc.
Hoặc dựa vào tiết khí để xác định mùa vụ cây trồng: “Xuân sớm chậm gieo
trồng” nghĩa là ngày Lập Xuân mà xuất hiện sớm vào tháng 12 âm lịch của năm
trước là xuân sớm, nếu gieo hạt thì không nên. Hoặc “ Thanh minh mà có gió Nam,
lương thực ắt hẳn bội thu” nghĩa là ngày thanh minh mà có gió Nam (Nồm) có thể
trông chờ một vụ mùa bội thu.
2.3.3 Mối qua hệ giữa con người với các cảnh quan tự nhiên của các miến đất
trên đất nước ta
* Nói về vùng đất Nam Bộ trước đây:
Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng run
Cà Mau khỉ khọt như bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đĩa, lên rừng sợ ma.( Ca dao)
Liên hệ đến các đặc sản của các vùng, nói lên sự phong phú của các sản phẩm nông
nghiệp: Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
* Để sử dụng vào bài “Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa” - trong chương trình địa
lí lớp12, chúng ta có thể trích đoạn thơ sau của nhà thơ Tố Hữu
"Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt.
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát.
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca"....
* Để sử dụng vào bài13: Thực hành - Đọc bản đồ Việt Nam

- "Trên trời có đám mây xanh (4)
Ở giữa mây trắng chung quanh mây
vàng Ước gì ta lấy được nàng
8


Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau
Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò
Phú Thọ quạt nước hỏa lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem
Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền
Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi
An Giang gánh đá nung vôi
Thừa Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè
Quảng Bình Hà Tĩnh thuyền ghe
Đồng Nai Gia Định chẻ tre bắc cầu...."( Ca dao)
2.3.4. Các câu ca với địa lí các vùng kinh tế (Sự phân hóa lãnh thổ)
Giáo viên có thể sử dụng các câu ca để giới thiệu, khắc sâu kiến thức cho học
sinh về điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế, địa danh du lịch hay những nét văn
hóa nổi tiếng của mỗi vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
* Vùng trung du và miền núi Bắc bộ:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên Xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Bắc Cạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba bể có nàng áo xanh
Ai lên Phú Thọ thì lên
Lên non cổ tích, lên đền Hùng Vương ( Ca dao)

* Vùng đồng bằng sông Hồng:
“Vải Quang, húng Láng, ngô Đầm
Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây”
Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến.
Dù ai buôn bắc bán đông,
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên( Ca dao)
* Vùng Bắc trung bộ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Xe hơi đã tới Đèo Ngang
Ấy qua Hà Tĩnh, mình sang Quảng Bình( Ca dao)
*Vùng duyên hải Nam trung bộ:
“Hải Vân bát ngát ngàn trùng
Hòn Hồng ở đấy là trong Vinh Hàn”( Ca dao)
9


Hải Vân: biển và mây đan xen với rừng (ngàn trung) của dãy Bạch Mã. “Bức
tường khí hậu” tạo sự phân hóa khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam (16 0 Bắc).
Đây được mệnh danh là Đệ nhất hùng quan, nơi đây xưa kia mà đi qua đây, con
người luôn cảm thấy nhỏ nhoi với cảnh vật xung quanh qua câu ca:
“Đi bộ thì khiếp Hải Vân; Đi thuyền thì sợ sóng thần Hang Dơi”.
Giới thiệu vào bài vùng Duyên hải Nam Trung Bộ ta bắt gặp các đặc sản với các
địa danh:
“ Muốn ăn đi xuống, muốn uống đi lên
Quán Ngỗng Gò Chim, Cầu Chàm Đập
đá Vũng Nồm nhiều cá, vũng Bấc nhiều
tôm Chợ chiều bán tôm, chợ mai bán

gạo”
3. Quảng Nam có núi Ngũ Hành.
Có sông chợ Củi, có thành Đồng Dương.
Bình Định có núi Vọng Phu.
Có đầm Thị Nại , có cù lao xanh.
Em về Bình Định cùng anh.
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa( Ca dao)
* Vùng Tây nguyên:
"...Ðôi mắt Pleiku Biển Hồ đầy
Có hàng thông xanh trong ánh mắt em
Có dòng Xê- Xan trong đôi mắt em..."
"...Khách du tìm đến thành phố mộng mơ
Hoàng hôn thắm Đà Lạt sương phủ mờ..."
* Vùng Đông Nam bộ:
"Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Ðức nem nướng, điện Bà Tây Ninh"
"Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Ðịnh, Ðồng Nai thì về"
* Vùng đồng bằng sông Cửu Long:
"Sông Tiền sông Hậu cùng nguồn
Thuyền bè tấp nập bán buôn dập dìu"
“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm”
"Cửu Long nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mở, biển thừa cá tôm
Sầu riêng măng cụt Vĩnh Long
Nghêu sò Cồn Lợi, ruốc ngon Mỏ Cày
Xoài thơm, cam ngọt Bến Tre
Bắp thì chợ nổi Cái Bè trên sông". ( Ca dao)


10


Không chỉ tả cảnh đẹp của thiên nhiên (vùng đồng bằng sông Cửu Long) mà
câu ca còn cho học sinh thấy được sự ưu ái của thiên nhiên với người dân đồng
bằng châu thổ rộng lớn ( hơn 4 triệu ha) màu mỡ, nguồn thủy sản dồi dào đã sử
dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sáng kiến kinh nghiệm góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả chất
lượng dạy học của bản thân và đồng nghiệp trường tôi, đặc biệt là đã gây hứng thú
học tập bộ môn Địa lí của các em học sinh THPT; việc học tập của các em có sự
tiến bộ rõ rệt; không khí học tập của các em sôi nổi, học sinh tích cực làm việc và
tìm tòi kiến thức.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu chúng ta có thể thấy việc đưa các nội dung phong phú vào
bài giảng kích thích tính chủ động sáng tạo của học sinh và giúp các biết vận dụng
kiến thức vào cuộc sống, đây là nội dung khá mới mẻ trong phương pháp dạy học
nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Tích hợp ca dao, tục ngữ thông qua dạy học địa lí có tác dụng rất lớn trong
việc phát triển nhận thức, hình thành nên những tư tưởng tình cảm tốt đẹp trong các
em, trau dồi cho các em đức tính, phẩm chất, đạo đức cần phải có của người công
dân. Từ khi thực hiện việc lồng ghép sử dụng các câu ca, tục ngữ trong dạy học Địa
lí, tôi thấy học sinh ngày càng yêu thích bộ môn Địa lí hơn, thích khám phá, tìm tòi
hơn. Nhiều em muốn trông đến ngày có giờ Địa lí để thể hiện tài năng tìm tòi,
khám phá của mình. Các giờ như vậy càng làm cho các em tự tin hơn, thích thú với
kết quả của mình làm được.
Sử dụng phương pháp tích hơp kiến thức ca dao, tục ngữ trong dạy học địa lí
có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển tư duy và tạo hứng thú học tập cho học

sinh. Thông qua bài học các em được tái hiện kiến thức qua những câu ca dao, tục
ngữ ,vần thơ giàu màu sắc, giàu tính nghệ thuật. Qua đó các em sẽ đam mê hơn đối
với bộ môn.
Tuy nhiên mọi phương pháp đề ra phải luôn xuất phát từ thực tiễn giáo dục
hiện nay. Để dạy tốt nội dung nay giáo viên cần phải có môt giải pháp sư phạm cần
thiết giúp các em tiếp cận tri thức, không lạm dụng đưa quá nhiều ca dao, tục ngữ
vào trong tiết dạy địa lí. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả dạy học, tạo hứng thú
học tập môn địa lí cho học sinh, nâng cao kết quả môn địa lí trong các kì thi.
Trong quá trình nghiên cứu và viết, chắc chắn đề tài sáng kiến kinh nghiệm
này còn có những hạn chế, tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của đồng
nghiệp, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Kêt qua trươc va sau khi ap dung như sau:

11


Khối 12:

Thực trạng trước khi sử dụng
Lớp
Tỉ lệ ( trên trung bình )

Kết quả sau khi sử dụng
Lớp
Tỉ lệ ( trên trung bình )

12 B1

46 %


12 B2

55,0%

12 B3

45 %

12 B5

55 %

12 B4

45,5 %

12 B8

55,3 %

12 B7

40,5 %

12 B6

62,5 %

12 B9


40,2 %

12 B10

58,5 %

Khối 10:
Kêt qua trươc va sau khi ap dung như sau:
Thực trạng trước khi sử dụng
Lớp
Tỉ lệ ( trên trung bình )
10 A1
45 %

Kết quả sau khi sử dụng
Lớp
Tỉ lệ ( trên trung bình )
10 A3
57,0%

10 A2

46 %

10 A4

60,03 %

10 A5


35,5 %

10 A8

47,5 %

10 A6

40,5 %

10 A9

61, %

10 A7

45,2 %

10 A10

65, %

3.2. Kiến nghị
Cần được sự quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp quản lí, phụ huynh học sinh
và toàn xã hội đối với môn Địa lí. Nâng cao chất lượng đội ngũ bắt đầu từ chính
sách, cơ chế vào ngành sư phạm.
Nghành giáo dục nên tập hợp các sáng kiến đạt giải đóng thành tập sau đó
chuyển cho các trường THPT để giáo viên bộ môn học tập và vận dụng.
Trên đây la nhưng kinh nghiêm cua ban thân tôi tư rut ra trong qua trinh giang day,
vơi mong muôn răng chât lương day va hoc cua trương noi riêng và nganh giao duc

noi chung ngay cang nâng cao. Tuy nhiên kinh nghiêm nay se kho tranh khoi
12


nhưng sai sot. Ban thân tôi rât mong nhân đươc nhiêu y kiên đong gop chân thanh
tư phía đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019 Tôi
xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Lê Thị Sinh

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Sách giáo khoa Địa lí 10 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
2, Sách giáo khoa Địa lí 12 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3, Sách giáo viên Địa Lí 10 Nâng cao- NXB giáo dục -2007.
4, Sách giáo viên Địa Lí 12 Nâng cao- NXB giáo dục -2007.
5. Dạy học theo chuẩn kiến thức và kỹ năng môn Địa Lí lớp 10- NXB Đại Học Sư
Phạm.
6. Dạy học theo chuẩn kiến thức và kỹ năng môn Địa Lí lớp 12- NXB Đại Học Sư
Phạm.
7, Ca dao tục ngữ Việt Nam.
8. Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học địa lí

9. Hoạt động dạy học ở trường THPT - Nhà xuất bản Giáo dục.
10. Phương pháp dạy học Địa lí của - Nhà xuất bản Giáo dục.

14



×