Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống cho học sinh lớp 9 ở trường THCS ngọc phụng, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.83 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
Mở đầu.
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
Cơ sở lí luận của vấn đề.
Thực trạng viết đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện
tượng đời sống của học sinh trường Trung học cơ sở


Ngọc Phụng.
Các giải pháp giải quyết vấn đề.
Củng cố những kiến thức căn bản về đoạn văn.
Khắc sâu lí thuyết về văn nghị luận và đoạn văn nghị
luận về sự việc, hiện tượng đời sống.
Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện
tượng đời sống.
Rèn kỹ năng dựng đoạn cho học sinh bằng các dạng bài
tập.
Rèn kĩ năng dựng đoạn mở bài cho học sinh.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận và kiến nghị.
Kết luận.
Kiến nghị.

Trang
1
2
2
2
2
3
3
4
5
5
6
8
12
15

16
16
16
18


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nếu như liên kết các bon bền vững làm nên giá trị của kim cương thì liên
kết câu, liên kết đoạn bền vững tạo nên mạch lạc và giá trị biểu đạt cho đoạn
văn, cho văn bản. Văn bản được cấu thành bởi các đoạn văn. Đoạn văn có thể
triển khai một ý độc lập song thường là triển khai ý trong dàn bài. Một đoạn văn
có thể là một ý hay nhiều ý, cũng có thể một ý triển khai thành nhiều đoạn văn.
Để viết được đoạn văn đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, phát triển ý thành lời,
thành câu, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao cho phù hợp để đạt hiệu
quả diễn đạt cao, lôi cuốn người đọc, người nghe. Để tạo lập được một văn bản
hoàn chỉnh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hành, vận dụng nhiều thao
tác từ tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài, sửa chữa bài viết. Trong quá trình
đó, dựng đoạn đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy, rèn kỹ năng viết đoạn
văn cho học sinh Trung học cơ sở là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết trong
quá trình rèn kĩ năng viết nói riêng và tạo lập văn bản nói chung.
Ở bậc Trung học cơ sở, các em được học kiểu văn bản nghị luận từ
chương trình học kì II của lớp 7, khái quát về đặc điểm văn nghị luận, phép lập
luận chứng minh, giải thích; lớp 8 tiếp tục học văn nghị luận, về cách nói và viết
bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự. Đến lớp 9, là sự kế
thừa và nâng cao kiến thức về văn nghị luận. Các em được học văn nghị luận xã
hội (nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề tư
tưởng , đạo lí) và nghị luận văn học (nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn
trích; nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ). Nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống là một dạng bài quan trọng của văn nghị luận. Để viết được dạng bài

này đòi hỏi người viết phải huy động kiến thức sâu rộng, phong phú trong đời
sống, vận dụng các thao tác lập luận và ngôn ngữ khéo léo để bàn luận, bày tỏ
quan điểm, lập trường của mình về một sự việc, hiện tượng nào đó trong đời
sống (đáng khen, đáng chê, đáng suy nghĩ). Đến với kiểu bài này, học sinh
thường có chiều hướng hoặc là thấy nó đơn giản, gần gũi, đã thấy, quen thuộc
nên cho rằng dễ làm, xem đây như một cơ hội để “chém gió” hoặc là theo kiểu
“hiểu thì tôi hiểu rồi nhưng nói thế nào cho đúng, cho trúng thì tôi … không biết
cách”. Cũng có em lại ngại tìm hiểu sự việc hiện tượng đời sống vì nó vừa khó
vừa khô, lại mất thời gian, không hợp lứa tuổi,… dẫn đến chất lượng bài làm
văn theo dạng này chưa cao.
Hơn nữa, Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp ở trình độ cao của
môn Ngữ văn có chức năng rèn kĩ năng tạo lập văn bản, góp phần quan trọng để
đạt mục tiêu môn học. Trong quá trình đó, dựng đoạn là một kỹ năng tương đối
1


khó, nhất là đoạn văn nghị luận - một dạng văn mang đậm tính chất nghiên cứu
và có tính chất lí luận; đòi hỏi mức độ tư duy, khả năng phân tích và tổng hợp
cao. Hơn nữa mức độ tư duy của các em học sinh lớp 9, với độ tuổi 15, lứa tuổi
thiếu niên “Xứ sở kì lạ” còn tương đối non nớt, chưa đạt đến độ “chín” trong khả
năng lập luận. Làm thế nào để học sinh lớp 9 có thể viết tốt được một đoạn văn
nghị luận về sự việc, hiện tường đời sống, và làm sao để các đoạn văn các em
viết có sự liên kết chặt chẽ, tạo sự mạch lạc và thống nhất trong văn bản. Qua
nhiều năm làm công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi đã có nhiều băn khoăn,
trăn trở, đã có nhiều tìm tòi, nghiên cứu đưa ra những giải pháp giúp học sinh
biết viết đoạn văn, viết tốt đoạn văn nghị luận, hình thành kĩ năng tạo lập các
kiểu văn bản khác nhau đáp ứng yêu cầu môn học và yêu cầu ngày càng cao của
cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho các em.
Với những lí do đã trình bày ở trên, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “Rèn
kỹ năng viết đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống cho học sinh

lớp 9 ở trường Trung học cơ sở Ngọc Phụng, Thường Xuân”
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Việc thực hiện đề tài nhằm giúp học sinh khắc sâu lí thuyết về văn nghị
luận, biết dựng đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống theo đúng
yêu cầu về nội dung và hình thức. Đồng thời, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng
viết đoạn theo bố cục mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
- Rèn cho học sinh kỹ năng viết một đoạn văn bàn luận về một vấn đề
nghị luận hoặc một đoạn trình bày một luận điểm trong bài văn nghị luận. Ngoài
ra còn giúp vận dụng tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề nảy
sinh trong thực tế đời sống. Từ đó, học sinh biết sử dụng kết hợp các phương
thức biểu đạt trong văn nghị luận sao cho phù hợp và đạt hiệu quả diễn đạt cao
nhất, biết tạo lập các đoạn văn nghị luận, bài văn nghị luận và các kiểu bài văn
khác nhau, đề tài khác nhau một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo đáp ứng yêu cầu
môn học và yêu cầu của đời sống đặt ra cho các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung chương trình môn Ngữ văn 9, phân môn Tập làm văn, dạng
bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Thực nghiệm: Học sinh khối 9, Trường THCS Ngọc Phụng, huyện
Thường Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp sau
đây: 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu trên cơ sở lí thuyết.
1.4.2. Phương pháp thu thập thông tin.
2


1.4.3. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
1.4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp khái quát.
1.4.5. Phương pháp thực nghiệm trên lớp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
* Văn nghị luận là kiểu văn bản quan trọng trong chương trình Ngữ văn
Trung học cơ sở mang những đặc trưng riêng.
a. Khái niệm:
Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người
nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có luận
điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
b. Đặc điểm của văn bản nghị luận
Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận.
- Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu
ra dưới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu,
nhất quán.
- Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải
chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục.
- Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt
chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục.
* Đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống phải đáp ứng được
yêu cầu của đoạn văn nói chung
- Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa
lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
Có thể thấy về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở mức độ nhất
định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được tương đối dễ dàng. Mỗi
đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn văn trong văn bản có một vai
trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trình tự nhất định: đoạn mở đầu
văn bản, các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn
bản thành các khía cạnh khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản
khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối
hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.Về mặt hình thức, đoạn

văn luôn luôn hoàn chỉnh, chữ cái đầu đoạn phải viết hoa, lùi vào khoảng 1cm so
với lề. Kết thúc đoạn bằng dấu chấm xuống dòng.
3


- Trong quá trình viết đoạn văn nói chung và đoạn văn nghị luận về sự
việc, hiện tượng nói riêng, chúng ta có thể dùng các cách trình bày theo lối diễn
dịch, quy nạp, song hành, tổng - phân - hợp,...
- Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện
liên kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa giữa chúng. Có nhiều phương tiện liên kết
trong đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết (quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các
cụm từ thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết khái quát,...) và dùng câu nối.
Các câu trong đoạn và các đoạn trong văn bản phải có sự liên kết chặt chẽ với
nhau về nội dung cũng như hình thức: Về nội dung, các câu phải phục vụ chủ đề
chung của đoạn, các đoạn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản (liên kết chủ
đề); các câu trong đoạn và các đoạn trong văn bản phải được sắp xếp theo một
trình tự hợp lí (liên kết logic). Về hình thức các câu, các đoạn phải được liên kết
với nhau bằng các phương tiện ngôn ngữ (tức là các phép liên kết như phép lặp,
phép thế, phép nối, phép liên tưởng,...)
Để việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh đạt kết
quả, giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc lí thuyết về đoạn văn. Bên cạnh đó,
tôi cũng khảo sát thực trạng viết đoạn văn của học sinh lớp 9 trường Trung học
cơ sở Ngọc Phụng để có được những giải pháp tối ưu để đạt kết quả cao nhất.
2.2. Thực trạng viết đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời
sống của học sinh trường THCS Ngọc Phụng, Thường Xuân
2.2.1. Thuận lợi
Về phía giáo viên: Bản thân tôi là một giáo viên có thâm niên công tác, lại
nhiều năm dạy Ngữ văn lớp 9, luôn tâm huyết với nghề, có ý thức trau dồi, học
hỏi. Từ đó, tôi luôn muốn tìm tòi, nghiên cứu ra nhiều phương pháp đơn giản
nhất và hiệu quả nhất để giúp học sinh làm tốt kiểu bài nghị luận này.

Về phía học sinh: Đa số các em có ý thức học tập tốt, xác định được mục
đích học tập, có ý thức tìm tòi, nghiên cứu, tìm hiểu đời sống qua nhiều kênh
thông tin để có tri thức, hiểu biết về các sự việc, hiện tượng đời sống để vận
dụng làm văn nghị luận.
2.2.2. Khó khăn
Trong các môn học ở nhà trường Trung học cơ sở, học sinh thường có tâm lí
không thích học môn Ngữ văn bởi các em ngại viết văn và môn Ngữ văn khó đạt điểm
giỏi. Qua các bài kiểm tra, tôi nhận thấy kỹ năng viết đoạn văn nghị luận về sự việc,
hiện tượng đời sống của học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Việc rèn kỹ năng viết đoạn
văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9 chưa được tách ra thành những tiết học
riêng mà thường được lồng ghép trong các bài cách làm bài văn nghị luận về sự việc,
hiện tượng đời sống. Do thời lượng dành cho viết đoạn quá ngắn mà yêu cầu của một

4


đoạn văn lại khá cao nên phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt lý thuyết; việc xác định
đề tài, chủ đề, bố cục lại càng bối rối. Khi viết còn chưa hiểu kỹ đề bài nên hay bị sai
lệch. Việc phân bố thời gian, số lượng câu cho đoạn, các ý lớn ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ
thể, đa số còn chưa biết xác định ý và diễn đạt. Quá trình lập luận, trình bày chưa chặt
chẽ, logic và sinh động, chưa biết sử dụng các phép liên kết phù hợp. Kiểu bài nghị
luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa hiểu
được một cách thấu đáo, chưa có được một cái nhìn toàn diện,... Vì vậy các đoạn văn
thường đơn điệu, nhàm chán, rời rạc, lủng củng, giá trị biểu đạt chưa cao.

Qua bài thi khảo sát chất lượng trước khi áp dụng đề tài nghiên cứu (thực
hiện vào đầu năm học 2017 - 2018) với đề bài: Em hãy viết một đoạn văn nghi
luận bàn về tác hại của tệ nạn ma túy. Kết quả như sau:
Tổng
Kết quả xếp loại

Lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
số bài

9A
9B

36
37

SL
0
0

TL
0%
0%

SL
12
9

TL
33,3
24,3

SL

16
19

TL
44,5
51,4

SL
8
9

TL
22,2
24,3

Kết quả khảo sát cho thấy, kỹ năng viết đoạn văn nghị luận của các em
còn rất hạn chế. Trên bài làm của hầu hết các em thể hiện việc nắm khái niệm
đoạn văn, từ ngữ chủ đề, câu chủ đề, cách trình bày đoạn văn còn lơ mơ, nhiều
đoạn viết chưa đúng yêu cầu hình thức của một đoạn văn; nội dung sơ sài, không
rõ chủ đề, nhiều em chưa hiểu yêu cầu đề bài, có em còn nhầm lẫn sang dạng bài
nghị luận khác,... Có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Do vậy,
để khắc phục những hạn chế này của học sinh, nâng cao chất lượng bài làm đòi
hỏi giáo viên phải kiên trì, tâm huyết, dày công nghiên cứu đưa ra những giải
pháp hợp lí giúp học sinh tạo dựng tốt đoạn văn, bài văn.
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
2.3.1. Củng cố những kiến thức căn bản về đoạn văn
* Cho học sinh nắm vững khái niệm đoạn văn, các yêu cầu về nội dung và
hình thức của một đoạn văn.
* Các cách trình bày nội dung đoạn văn.
- Cách diễn dịch: là cách trình bày đi từ ý chung khái quát đến các ý cụ

thể, chi tiết. Đoạn diễn dịch thì câu chủ đề đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển
khai các nội dung chi tiết cùng làm rõ chủ đề của đoạn. Các câu triển khai được
thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể
kèm những nhận xét, đánh giá, bộc lộ suy ngẫm, cảm xúc của người viết.
5


- Cách quy nạp: là cách trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý chung,
khái quát. trong đoạn quy nạp, các câu mang ý nghĩa chi tiết, cụ thể đứng trước,
câu chủ đề đứng ở cuối đoạn. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao
tác minh họa, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét đáng giá chung.
- Cách tổng phân hợp: câu mở đoạn mang ý khái quát bậc một, các câu
tiếp theo triển khai ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính
chất nâng cao, mở rộng chủ đề. Những câu triển khai được thực hiện bằng các
thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, nêu cảm tưởng, liên tưởng,
tưởng tượng,... để đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định
thêm giá trị của vấn đề.
- Cách song hành: đoạn song hành là đoạn văn được sắp xếp các ý ngang
nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp nhau để diễn tả ý chung. Đoạn văn song hành
không có câu chủ đề.
Ngoài những cách trên, đoạn văn còn trình bày theo cách móc xích, tam
đoạn luận, cách đòn bẩy, tương phản, nhân – quả,...
Trong các cách trình bày nội dung đoạn văn nêu trên, các cách song hành,
móc xích, tổng phân hợp tương đối khó, đặc biệt là đối với học sinh miền núi,
học sinh là người dân tộc thiểu số. Vì vậy chúng tôi chủ yếu rèn cho học sinh
viết theo hai cách thông dụng nhất là quy nạp và diễn dịch.
Đây là những kiến thức tiền đề cơ bản về đoạn văn là điều quan trọng và
cần thiết học sinh phải nắm được trước khi tiến hành tạo dựng đoạn văn.
2.3.2. Khắc sâu lí thuyết về văn nghị luận về và đoạn văn nghị luận
về sự việc, hiện tượng đời sống

* Lí thuyết về văn nghị
luận a. Khái niệm
Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xã hội là bàn về một sự việc,
hiện tượng có ý nghĩa đối xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ.
- Yêu cầu:
+ Về nội dung: Bài nghị luận này phải nêu được sự việc, hiện tượng có
vấn đề; phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân
và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết.
+ Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc; có luận điểm rõ ràng,
luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sống động.
b. Đặc điểm
Mỗi bài văn nghị luận nói chung và bài văn nghị luận về sự việc, hiện
tượng đời sống nói riêng đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận.
6


- Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu
ra dưới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu,
nhất quán.
- Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải
chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục.
- Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt
chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục.
c. Các phương pháp (thao tác) lập luận
- Phương pháp chứng minh là một phép lập luận dùng những lí lẽ, bằng
chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ luận điểm mới là đáng tin cậy.
- Phương pháp giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ
các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ,… cần được giải thích nhằm nâng cao
nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho con người.
- Phương pháp phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương

diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích
nội dung của sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả
thiết, so sánh, đối chiếu,… và cả phép lập luận giải thích, chứng minh.
- Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích.
Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối
đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản.
- So sánh: đối chiếu hai hay nhiều sự vật, hiện tượng nhằm chỉ ra các nét
khác nhau (so sánh tương phản) hoặc giống nhau (so sánh tương đồng). So sánh
để nhận ra đặc điểm chính xác, nổi bật. So sánh phải dựa trên cùng tiêu chí, bình
diện, tránh khập khiễng, thiên lệch.
d. Sử dụng đan xen các yếu tố biểu đạt trong văn nghị luận
- Yếu tố biểu cảm: Văn nghị luận rất cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu
cảm giúp cho văn nghị luận có hiệu quả thuyết phục hơn, bởi nó tác động mạnh
mẽ tới tình cảm của người đọc, người nghe.
Để bài văn nghị luận có sức biểu cảm cao, người làm văn phải thật sự có
cảm xúc trước những điều mình viết (nói) và phải biết biểu hiện cảm xúc đó
bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm. Sự diễn tả cảm xúc cần
phải chân thực và không được phá vỡ mạch lạc nghị luận của bài văn.
- Yếu tố miêu tả, tự sự:
Bài văn nghị luận vẫn thường phải có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu
tố này giúp cho việc trình bày luận cứ được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn và do
đó có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn.
7


Các yếu tố miêu tả và tự sự được dùng làm luận cứ phải phục vụ cho việc
làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc của bài văn nghị luận.
* Yêu cầu của đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống
Đoạn văn nghị luận phải đạt được những yêu cầu về hình thức và nội
dung giống như yêu cầu của một đoạn văn nói chung.

Đặc biệt, khi viết bài văn nghị luận cần chú ý những yêu cầu chung như:
Đoạn văn phải có sự thống nhất nội tại chặt chẽ; Đoạn văn phải đảm bảo có
quan hệ chặt chẽ với các đoạn văn khác trong văn bản; Đoạn văn phải phù hợp
với phong cách chung của văn bản.
-Về kết cấu: Đoạn văn nghị luận có bố cục ba phần: mở đoạn, thân đoạn,
kết đoạn.
Mở đoạn: Nêu sự việc, hiện tượng đời sống cần nghị luận.
Thân đoạn: gồm một số câu văn nêu rõ nguyên nhân, thực trạng, kết quả/
hậu quả, những giải pháp phát huy/ hạn chế hiện tượng,…
Kết đoạn: Nêu nhận thức chung và hành động cho bản thân.
- Về nội dung: đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống phải
đưa luận cứ làm sáng tỏ một luận điểm (đối với đoạn văn trong bài văn) hoặc
làm rõ vấn đề nghị luận bằng cách chứng minh, giải thích, so sánh, phủ định, suy
luận tương đồng, phân tích, tổng hợp, ...
Học sinh cần nắm rõ những điều này để khai thác, sử dụng, nhận xét, đánh
giá khi làm bài, dựng đoạn.
2.3.3. Rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống
Để viết đoạn văn nghị luận thành công, cần chú ý tuân thủ các bước sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu của đề bài
Căn cứ vào yêu cầu của đề bài, xác định rõ nội dung cần trình bày trong
đoạn là gì? Nội dung đó thể hiện ở những từ ngữ quan trọng trong đề bài hoặc
được "gói" trong câu chủ đề đã cho trước hay học sinh phải tự tìm ra. Nếu đề
yêu cầu là viết một đoạn trong bài văn thì xác định rõ vị trí, vai trò của đoạn
trong toàn bài (đoạn mở bài, thân bài hay kết bài). Nội dung ấy được trình bày
theo cách nào? có yêu cầu nào khác về hình thức, ngữ pháp không?
Ví dụ 1:
Hãy nêu suy nghĩ của em về sự kiện thành lập quỹ “Giúp đỡ các nạn nhân
bị chất độc màu da cam” bằng một đoạn văn diễn dịch, khoảng nửa trang giấy
thi, có sử dụng phép nối.

*Yêu cầu của đề bài:
8


- Về nội dụng: Trình bày suy nghĩ của bản thân về sự kiện thành lập quỹ
“Giúp đỡ các nạn nhân bị chất độc màu da cam”.
- Về hình thức: Một đoạn văn ngắn, khoảng nửa trang giấy thi, trình bày
theo lối diễn dịch, trong đoạn có sử dụng phép nối.
Ví dụ 2:
Để chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, phó thủ tướng Vũ Khoan khẳng
định: “Sự chuẩn bị bản thân con người là quan trong nhất”. Em hãy viết một
đoạn văn theo phép lối quy nạp, khoảng từ 6 đến 8 câu, giải thích ý kiến trên.
*Yêu cầu của đề bài:
+ Nội dung: Khẳng định sự chuẩn bị về bản thân con người là yếu tố quan
trọng nhất trong số những hành trang bước vào thế kỉ mới.
+ Hình thức: Một đoạn văn ngắn (từ 6 đến 8 câu), trình bày theo lối quy
nạp, sử dụng phép lập luận giải thích là chủ yếu.
Ví dụ 3:
Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Em
hãy viết về một trong những tấm gương đó bằng một đoạn văn tổng phân hợp
(không quá nửa trang giấy thi), có sử dụng phép thế.
*Yêu cầu của đề bài:
+ Nội dung: Viết về một tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi
trên đất nước ta.
+ Hình thức: Một đoạn văn (không quá nửa trang giấy thi), trình bày theo
lối tổng phân hợp, sử dụng phép thế.
Ví dụ 4:
Viết đoạn mở bài cho bài văn nghị luận bàn về nạn bạo lực học đường
hiện nay ở nước ta.
*Yêu cầu của đề bài:

+ Nội dung: Viết đoạn văn giới thiệu về nạn bạo lực học đường ở nước ta
hiện nay (nêu vấn đề nghị luận).
+ Hình thức: Một đoạn văn ngắn, đoạn mở bài của bài văn nghị luận.
Bước 2: Xác định vấn đề nghị luận và viết thành câu chủ đề
Mỗi đoạn văn thường trình bày một ý chính. ý này gọi là chủ đề của
đoạn. Vì vậy, khi viết đoạn nghị luận cần chú ý đọc kỹ đề, xác định yêu cầu của
đề, từ đó khái quát thành luận điểm và viết câu mang luận điểm của đoạn.
Cũng các ví dụ ở trên:
Ví dụ 1:
Thành lập quỹ để giúp đỡ các nạn nhân bị chất độc màu da cam là một
việc làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc đang được nhân rộng ở nước ta.
9


-> Viết thành câu chủ đề: Cả nước đang phát động phong trào “Góp tay xoa diu
nỗi đau da cam” và thành lập quỹ “Giúp đỡ các nạn nhân bi chất độc màu da cam”.

Ví dụ 3:
Câu chủ đề ở đầu đoạn: Cuộc sống quanh ta có rất nhiều gương sáng về ý
chí, nghi lực vượt khó, học giỏi, chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận
bất hạnh, trong đó có tấm gương của chi Trần Bình Gấm.
Câu chủ đề ở cuối đoạn: Nhìn những tấm gương sáng như chi Gấm,
chúng ta học được những điều bổ ích và thấm thía, nhất là sự kiên trì, nhẫn nại,
ý chí vượt khó, vươn lên để thành công trên đường đời.
Bước 3: Tìm ý cho đoạn văn
Khi đã xác định được vấn đề nghị luận và viết được câu chủ đề, tức là câu
mang luận điểm, giáo viên hướng dẫn cho học sinh đưa các luận cứ để làm sáng
tỏ luận điểm, làm rõ vấn đề nghị luận. Đây là một thao tác khó đối với học sinh.
các em thường lúng túng, diễn đạt lủng củng, không thoát ý, thiếu liên kết và
logic. Ở bước này giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, uốn nắn cho các em viết

từng câu, khai triển từng ý nhỏ của chủ đề, dùng các phương tiện liên kết câu cả
về nội dung và hình thức,... để đạt mục tiêu cuối cùng là tạo ra một đoạn văn
hoàn chỉnh theo đúng yêu cầu của đề bài. Đoạn văn phải xây dựng theo bố cục
mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
Ví dụ:
Đất nước ta có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Em
hãy viết về một trong những tấm gương đó bằng một đoạn văn tổng phân hợp
(không quá nửa trang giấy thi), có sử dụng phép thế.
*Các ý cần có trong đoạn văn:
- Nêu tấm gương sáng về ý chí, nghị lực vượt khó, nghèo mà học giỏi;
- Nêu hoàn cảnh khó khăn của gia đình, bản thân;
- Những suy nghĩ, tình cảm, hành động thể hiện ý chí, nghị lực vượt lên
hoàn cảnh của nhân vật;
- Kết quả của sự nỗ lực;
- Tình cảm và thái độ của bản thân và mọi người đối với tấm gương.
* Yêu cầu khác: Đoạn văn trình bày theo lối tổng – phân – hợp, trong
đoạn có sử dụng phép thế.
Bước 4: Viết các ý thành đoạn văn hoàn chỉnh
Trên cơ sở các ý vừa xác lập, viết thành đoạn văn hoàn chỉnh. Cần căn cứ
vào yêu cầu của đề bài để xác định vị trí câu chủ đề, cách lập luận trong đoạn
văn. Ngoài ra cần đảm bảo các yêu cầu về ngữ pháp (nếu có)
10


Với đề bài nêu ở bước 3, cần viết câu chủ đề bậc 1 ở đầu đoạn, câu chủ đề bậc
hai ở cuối đoạn, các câu còn lại sắp xếp hợp lí trình bày các luận cứ để làm sáng tỏ vấn
đề nghị luận. Đoạn văn phải đảm bảo liên kết cả về nội dung và hình thức.

(1) Cuộc sống quanh ta có rất nhiều tấm gương sáng về ý chí, nghi lực
vượt khó, học giỏi, chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận bất hạnh, trong

số đó phải kể đến tấm gương của chi Trần Bình Gấm. (2) Nhắc đến cái tên Trần
Bình Gấm - cô bé bán khoai đỗ ba trường Đại học - chắc chắn nhiều người còn
nhớ vì ngày ấy (năm 2008) báo chí đã đưa tin khá nhiều về chi. (3) Chi Gấm là
con gái lớn trong một gia đình Lao động nghèo. (4) Ba chi làm nghề đạp xích
lô, mẹ chi bán khoai lang, bắp luộc, mỗi ngày kiếm vài chục ngàn mà tới năm
sáu miệng ăn. (5) Không có nhà ở, ba mẹ chi phải nhờ nhà bà ngoại ven kênh
Nhiêu Lộc. (6) Thương ba mẹ, chi Gấm sớm biết lo toan, nửa ngày đi học, nửa
ngày phải bán vé số. (7) Nhìn cô gái gầy guộc, da đen nhẻm, mắt lại cận nặng
không ai ngờ đó lại là một người có ý chí và nghi lực phi thường. (8) Rồi ba chi
mất vì lao lực, gánh nặng mưu sinh dồn cả lên vai mẹ. (9) Chi Gấm thương mẹ
lắm, tìm mọi cách để san sẻ với mẹ gánh nặng ấy. (10) Mỗi ngày, sau khi tan
học, chi dành sáu tiếng đi bán khoai lang hoặc vé số. (11) Có điều lạ là nghèo
khổ như vậy mà chi Gấm vẫn học giỏi, nhất là các môn thuộc Khoa học tự
nhiên. (12) Cái tin chi đỗ liền ba trường Đại học không chỉ làm chấn động xóm
nghèo mà còn chấn động thành phố và cả nước. (13) Rất nhiều người xúc động,
khâm phục trước tấm gương vượt khó của chi và lấy làm gương để dạy dỗ, động
viên con cái. (14) Chi Gấm đã chọn vào trường Y Dược để thực hiện mơ ước
trở thành bác sĩ chữa bệnh cho người nghèo. (15) Hiện chi là bác sĩ chuyên
khoa I, Khoa Lão học của bệnh viện Nhân dân Gia Đinh (quận Bình Thạnh,
thành phố Hồ Chí Minh). (16) Nhìn những tấm gương sáng như chi Gấm, chúng
ta học được những điều bổ ích và thấm thía, nhất là sự kiên trì, nhẫn nại, ý chí
vượt khó, vươn lên để thành công trên đường đời.
Trong đoạn văn trên câu 1 và câu 16 là hai câu chủ đề của đoạn. Câu 2
đến 15 nêu luận cứ để làm rõ tấm gương Trần Bình Gấm.
Các bước trên đây là những thao tác cần có để viết được một đoạn văn
hoàn chỉnh theo yêu cầu của đề bài. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng
thực hiện đầy đủ các thao tác trên khi làm bài, Vì vậy giáo viên phải thường
xuyên nhắc nhở để tạo thành thói quen cho học sinh. Đặc biệt để hình thành kỹ
năng cho học sinh một cách thành thạo cần tăng cường rèn luyện qua việc thực
hành viết đoạn văn cho các em một cách có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp.
11


2.3.4. Rèn kỹ năng dựng đoạn cho học sinh bằng các dạng bài tập
2.3.4.1. Dạng bài tập nhận biết
Mục đích của dạng bài tập này là giúp học sinh lí thuyết về đoạn văn
thông qua việc cung cấp cho học sinh các dạng đoạn văn cụ thể. Trên cơ sở đó,
các em nhận biết được mô hình cấu trúc đoạn, từ ngữ chủ đề, câu chủ đề và cách
triển khai chủ đề.
Bài tập 1: Vấn đề nghị luận của đoạn văn là gì? Đoạn văn được trình bày
theo cách nào? Xác định các phép liên kết câu được sử dụng trong đoạn văn?
Tuổi trẻ thời nay có nhiều ưu điểm vượt trội so với các thế hệ trước như
khả năng tiếp thu khoa học kĩ thuật rất nhanh, năng động, sáng tạo trong nếp
nghĩ, nếp làm việc, bên cạnh đó cũng có không ít người lại mắc phải thói hư tật
xấu, trong đó có tật nói tục, chửi thề. Đây là hiện tượng đáng phê phán bởi nó
là biểu hiện của nhận thức lệch lạc và cách sống thiếu văn hóa. Ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp phổ biến và quan trọng nhất của con người; khi giao tiếp,
chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ sao cho có hiệu quả giao tiếp cao nhất. Thông
qua cách nói năng, có thể đánh giá phần nào về tính cách, phẩm chất của người
nói. Tiếng Việt của chúng ta là một thứ ngôn ngữ giàu và đẹp, bản chất của
Tiếng Việt là trong sáng, phong phú, đa dạng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải
học tập, giữ gìn và phát huy tinh hoa của tiếng mẹ đẻ. Vậy mà, có một thực tế
đáng lo ngại là rất nhiều bạn trẻ đã và đang vô tình hoặc cố ý phá hoại thứ của
cải tinh thần vô giá ấy. Đó chính là hiện tượng nói bậy, chửi thề xuất hiện nhiều
ở nơi công cộng, kể cả trường học, vốn là nơi có kỉ luật khá nghiêm túc, chặt
chẽ. Họ còn tự chế ra những từ mới mà họ cho là hay, là độc đáo như: tinh vi,
bố tướng, văn cao, bùng, lăn, ông khốt, … cùng vô số từ ngữ bậy bạ khác không
tiện nói ra càng không có trong từ điển. Nghe những từ ngữ, những câu nói chối
tai của họ, nhiều người nhăn mặt, khó chiu và cho rằng đó là biểu hiện của lối

sống thiếu văn hóa, văn minh, làm ô nhiễm môi trường xã hội. Chúng ta hãy
nhớ lời khuyên của ông cha mà rèn luyện ngôn ngữ trong giao tiếp “Lời nói
chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Gợi ý:
- Vấn đề nghị luận: Bàn về hiện tượng nói tục trong giới trẻ ngày nay.
- Đoạn văn được trình bày theo lối diễn dịch.
- Các phép liên kết câu được sử dụng: Phép lặp, phép thế.
Bài tập 2: Xác định nội dung và cách trình bày nội dung của đoạn văn sau?
Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây gây rừng.
Trồng cây gây rừng thì phải coi trọng chăm sóc, bảo vệ để có nhiều cây xanh
bóng mát. Nhiều cây xanh bóng mát thì cảnh quan thiên nhiên đẹp, đất nước có

12


hoa thơm trái ngọt bốn mùa, có nhiều lâm thổ sản để xuất khẩu. Xuất khẩu đem
lại nguồn thu lớn giúp dân giàu, nước mạnh, môi trường sống được bảo vệ.
=> Đoạn văn nói về vấn đề trồng cây xanh để bảo vệ môi trường sống Trong
đoạn các ý nối nhau để thể hiện chủ đề về môi trường sống. Các từ ngữ
được lặp lại là: gỗ, trồng cây gây rừng, cây xanh bóng mát, xuất khẩu giúp câu
sau móc nối với câu đứng ngay trước nó. Đoạn văn trình bày theo lối móc xích.
Bài tập 3: Đoạn văn sau đây nằm ở phần nào của bài văn nghị luận bàn
về tác hại của việc hút thuốc lá ?
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng được quan tâm, song
vẫn có không ít những tác nhân làm nguy hại đến sức khỏe của con người. Một
trong số đó là thuốc lá!
=> Đoạn văn là phần mở bài trong bài văn nghị luận, nêu hiện tượng cần
bàn luận: tác hại của việc hút thuốc lá đối với sức khỏe con người.
Bài tập 4: Đoạn văn sau thuộc phần nào của bài văn nghị luận bàn về tác
hại của rác thải đối với môi trường ?

“ Rác thải phong phú bao nhiêu thì tác hại mà nó gây ra lớn theo nhường
ấy. Rác thải làm mất mĩ quan nơi công cộng, biến những thắng cảnh thành bãi
rác. Ai từng du ngoạn Hương Sơn chắc không thể quên hình ảnh khắp các lối
đi, các sương núi rác tràn ngập và dày đặc. Chốn “Nam Thiên đệ nhất động”
bớt hấp dẫn du khách hơn có lẽ cũng vì như vậy. Không chỉ có thế, rác thải bừa
bãi còn gây ô nhiễm môi trường, không khí mất trong lành, sông hồ ô nhiễm,
sinh vật ở sông hồ bi chết,… Tất cả những điều đó đều có thể làm nguy hại đến
sức khỏe và cuộc sống của con người.”
=> Đoạn văn nêu tác hại của rác thải đối với môi trường và sức khỏe con
người. Vậy nó là một đoạn trong phần thân bài của bài văn nghị luận.
2.3.4.2. Dạng bài tập vận dụng
Cho đề bài: Hãy viết một đoạn văn nghị luận theo lối diễn dịch, khoảng
10 câu, có sử dụng câu hỏi tu từ, bàn về tác hại của một trong các tệ nạn xã hội
mà chúng ta cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ.
Tiến hành dựng đoạn:
Bước 1: Xác định yêu cầu của đề bài
+ Nội dung: Bàn luận về tác hại của một tệ nạn trong xã hội mà chúng ta
cần phải kiên quyết và nhanh chóng bài trừ.
+ Hình thức: Viết các đoạn văn theo lối diễn dịch, độ dài khoảng 10 câu,
có sử dụng câu hỏi tu từ.
Bước 2 : Xác định vấn đề nghị luận và viết thành câu chủ đề
- Vấn đề nghị luận: Bàn về tác hại tệ nạn ma túy.
13


- Viết câu chủ đề: Trong xã hội hiện đại, ma túy đang hoành hành ghê
gớm, đục khoét bao gia đình và xã hội.
Bước 3: Tìm ý cho đoạn văn
Các ý cần có:
- Giới thiệu tệ nạn xã hội: Tệ nạn ma túy.

- Tác hại nhiều mặt của tệ nạn ma túy: Đối với bản thân người nghiện, đối
với gia đình, xã hội.
- Biện pháp phòng tránh ma túy: Mỗi người cần có những hành động hữu
ích để nhanh chóng bài trừ ma túy ra khỏi cuộc sống của con người.
* Lưu ý: Câu chủ đề nằm ở đầu đoạn.
Sử dụng câu hỏi tu từ phù hợp.
Bước 4: Viết các ý thành đoạn văn hoàn chỉnh
Ngày nay, xã hội ngày càng tốt đẹp, cuộc sống con người ngày càng tốt
hơn nhưng thật đáng buồn bởi điều đó đồng nghĩa với việc các tệ nạn xã hội
ngày càng gia tăng, mà điển hình là tệ nạn ma túy đang hoành hành ghê gớm,
đục khoét bao gia đình và xã hội. Ma túy là một thứ độc dược ảnh hưởng xấu
đến hệ thần kinh của con người. Hậu quả đầu tiên và nghiêm trọng nhất mà ma
túy đem lại chính là cho những người nghiện ma túy. Các con nghiện dù là khỏe
mạnh đến mấy thì sau mấy năm nghiện thì cơ thể cũng sẽ tiều tụy, thậm chí là
phải trả bằng cả mạng sống của mình khi bi “sốc thuốc”! Hơn thế nữa, tiêm
chích ma túy là con đường ngắn nhất dẫn tới AIDS, người bệnh sẽ chết bởi đại
dich này. Không chỉ dừng lại ở đó, tiêm chích ma túy còn hủy hoại công danh
sự nghiệp của người nghiện: bạn bè, đồng nghiệp xa lánh, bi đuổi việc, con
đường tương lai tươi sáng phía trước bỗng vụt tắt, tối tăm. Liệu gia đình và xã
hội có phải chiu hậu quả đáng buồn do những người nghiện ma túy gây ra hay
không ? Những người mẹ, người vợ, những đứa con và mọi thành viên trong gia
đình người nghiện luôn sống trong sự đau khổ, hạnh phúc tan vỡ, của cải đội
nón ra đi. Xã hội thì an ninh không được đảm bảo vì những vụ trấn lột, giết
người cướp của do những con nghiện gây nên. Ma túy đã và đang đe dọa
nghiêm trọng sự tồn tại và tương lai phát triển của xã hội và toàn nhân loại. Ma
túy kinh khủng là thế nhưng chúng ta vẫn có thể phòng trừ nó. Mỗi chúng ta
hãy nói không với ma túy, hãy biết tự kiềm chế mình, tránh xa ma túy, tự biết
bảo vệ mình. Và, chúng ta hãy nói với mọi người, với gia đình, với bạn bè cần
biết rõ về tác hại của ma túy. Hãy cùng ngăn chặn nó. Càng quan trọng hơn
nữa, chúng ta hãy cùng nhau giúp đỡ những người nghiện để họ đừng lún sâu

vào ma túy. Kiên quyết bài trừ tệ nạn ma túy là nghĩa vụ của mỗi người, mỗi tập
thể, của cả xã hội nhằm xây dựng một môi trường sống lành mạnh cho con
người.
14


2.3.5. Rèn kỹ năng dựng đoạn mở bài cho học sinh
Trong bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống, phần mở bài cần
giới thiệu về sự việc, hiện tượng cần bàn luận.
* Yêu cầu cụ thể
- Yêu cầu: Nêu lên được tính cấp thiết của vấn đề nghị luận.
- Định hướng thực hiện thông qua trả lời các câu hỏi:
Câu hỏi 1: Hiện tượng này xuất hiện từ bao giờ, ở đâu ?
-> Hỗ trợ trả lời: Những năm gần đây, những tháng gần đây, hiện nay/ Tại
Việt Nam, thế giới, Đông Nam Á,...
Câu hỏi 2: Hiện tượng này tạo nên ảnh hưởng gì cho xã hội ?
-> Hỗ trợ trả lời: Làm cho xã hội rối loạn, nhức nhối/ Làm cho con người
đau khổ/ Làm cho xã hội văn minh/,...
Câu hỏi 3: Tính cấp thiết của vấn đề ở chỗ nào ?
-> Hỗ trợ trả lời: Vấn đề đã trở thành mối quan tâm của mọi người/ thành
bức xúc của con người/ Tất cả đang tìm mọi biện pháp để khắc phục, loại trừ nó
xây dựng một xã hội lành mạnh,...
* Hướng dẫn viết mở bài
- Sự việc, hiện tượng có tác động xấu đến con người
Nếu vấn đề thuộc mảng trường học thì mở bài như sau:
Môi trường học đường của chúng ta hiện nay đang đứng trước nhiều thói hư tật

xấu như: bạo lực học đường, gian lận trong thi cử, nói tục chửi thề, bệnh thành tích
trong giáo dục,... Một trong những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là
(...). Đây là một hiện tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.


Nếu vấn đề thuộc mảng ngoài trường học thì mở bài như sau:
Xã hội của chúng ta hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức như: tai
nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, nạn tham nhũng, bệnh vô cảm,...Một trong
những vấn đề thách thức hàng đầu hiện nay đó chính là (...). Đây là một hiện
tượng xấu có nhiều tác hại mà ta cần lên án và loại bỏ.
- Sự việc, hiện tượng có tác động tốt đến con người:
Việt Nam vốn là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và có nhiều truyền
thống nhân văn cao đẹp về lòng yêu thương con người, lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết, sự đồng cảm sẻ chia,... Một trong những biểu hiện cao đẹp của truyền
thống ấy đang được tuổi trẻ ngày nay phát huy chính là (...). Đây là một hiện
tượng tốt có nhiều ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Theo đó, học sinh căn cứ vào đề bài đã cho để xác định sự việc, hiện tượng
và đưa vào chỗ chấm (...) để hoàn thành đoạn văn mở bài theo đúng yêu cầu.
15


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy kỹ năng dựng đoạn của học
sinh tốt lên rõ rệt. Nhiều em đã có kỹ năng viết đoạn thành thạo, đảm bảo sự liên
kết cả về nội dung cũng như hình thức. chúng tôi đã tiến hành khảo sát, kiểm
chứng kết quả thực hiện đề tài qua việc khảo sát kỹ năng viết đoạn văn của học
sinh như sau: Lớp 9A, tiến hành ứng dụng đề tài
Lớp 9B không ứng dụng đề tài
Nhưng cả hai lớp đều thực hành cùng một đề bài như sau : "Viết đoạn văn nghị
luận bàn về tác hại của hiện tượng “nghiện” Internet trong nhiều bạn trẻ hiện nay"

Khối lớp

Tổng

số
học

KẾT QUẢ KHẢO SÁT
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
TL SL
TL SL
TL

Yếu kém
SL
TL

Trước

9A

sinh
36

khi
thực
nghiệm

9B


37

0

0

9

24,3

19

51,4

9

24,3

9A

36

5

13.9

19

52,7


11

30,6

1

2,8

9B

37

1

2,7

12

32,5

18

48,6

6

16,2

Sau
khi

ứng
dụng
đề tài
Không
thực
nghiệm

0

0

12

33,3

16

44,5

8

22,2

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy sau khi thực hiện ứng dụng đề tài ở lớp 9A, số
học sinh đạt điểm giỏi là 5 em ( tăng 13,9%), số học sinh đạt điểm khá cũng tăng 7
em ( tăng 14,8%), số học sinh đạt điểm trung bình giảm. Đáng kể là số học sinh đạt
điểm yếu kém giảm nhiều: lớp 9A giảm 7 em ( giảm 9,4%) Còn ở lớp 9B, không
ứng dụng đề tài, kết quả thấp hơn hẳn. Số lượng học sinh giỏi, khá có tăng và số
lượng học sinh trung bình, yếu kém có giảm nhưng không đáng kể.
3. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn nói chung và đoạn văn nghị luận
về sự việc hiện tượng đời sống nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt trong phân môn

16


Tập làm văn ở bậc THCS, góp phần hình thành con người có trình độ học vấn phổ
thông chuẩn bị cho các bậc học cao hơn và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Rèn kỹ
năng viết đoạn văn cho học sinh là rèn kỹ năng diễn đạt đúng và hay bằng các thao tác
xác định yêu cầu của đề bài, tìm ý, diễn đạt ý thành câu chủ đề; dùng các phương tiện
liên kết để kết nối các câu trình bày các khía cạnh khác nhau khi triển khai chủ đề của
đoạn. Đó còn là rèn luyện năng lực tư duy ngôn ngữ nghệ thuật, khả năng khái quát,
tổng hợp, cách nhìn nhận, đánh giá về sự việc, hiện tượng đời sống, đồng thời bày tỏ
quan điểm riêng của bản thân về nó. Từ đó có nhận thức và hành động đúng cho bản
thân và mọi người. Từ việc bàn luận về các sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội,
giúp học sinh rèn luyện những phẩm chất đạo đức, những đức tính cao đẹp như lòng
nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì, lòng dũng cảm, tình yêu quê hương đất nước, yêu
bạn bè, thầy cô. Ngoài ra, còn giúp các em thấy được những truyền thống đạo đức, văn
hóa tốt đẹp của dân tộc để kế thừa và phát huy. Đồng thời phê phán, bài trừ những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống để cuộc sống văn minh, đất nước phát triển phồn thịnh,
bền vững, con người ứng xử đẹp, có văn hóa.

Viết văn nghị luận là thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá về đối
tượng nghị luận nhằm nâng cao trình độ, năng lực, giúp người khác cùng hiểu và
tin vào vấn đề. Đồng thời người viết cũng thể hiện chính kiến, thái độ, sự đánh
giá vấn đề; đưa ra những điều chỉnh tích cực nhằm nâng cao sự tiến bộ trong
lĩnh vực văn học, văn hóa. Để thực hiện được các mục đích đó, người viết
thường vận dụng, kết hợp nhiều thao tác lập luận (chứng minh, giải thích, bình
luận, phân tích, tổng hợp,…).

Để các em viết tốt đoạn văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống đòi
hỏi sự nỗ lực của cả giáo viên và học sinh. Đây là một bài kiểu thuộc dạng bài
nghị luận xã hội - một sự việc, hiện tượng đang diễn biến trong đời sống, có thể
đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ. Để làm tốt kiểu bài này, học
sinh phải tìm hiểu, nắm rõ bản chất của vấn đề; phải dùng chuẩn mực đạo đức,
pháp luật soi sáng để thấy được cái đúng - sai, mặt lợi - hại của sự việc, hiện
tượng; từ nhận thức đúng đắn học sinh bày tỏ thái độ khen/chê phù hợp; có hành
động đúng chuẩn mực. Vấn đề quan trọng tiếp theo là diễn đạt làm sáng tỏ vấn
đề, thuyết phục mọi người tin và làm theo. Với mức độ và khả năng của học sinh
lớp 9, đây là điều không phải dễ. Vì vậy, giáo viên phải vừa nắm bắt được tri
thức vốn có của học sinh vừa chú trọng hướng dẫn các em từng bước xây dựng
đoạn văn. Trong quá trình thực hành, giáo viên nên đưa ra nhiều dạng bài tập
theo yêu cầu từ thấp đến cao. Được thực hành nhiều viết đoạn văn trở thành kỹ
năng, kỹ xảo của học sinh. Giáo viên cũng cần lưu ý sự tiến bộ của học sinh
trong làm văn diễn ra chậm nên không thể nóng vội, và sự sáng tạo của học sinh
17


là sự sáng theo "tầm cỡ" của các em. Thành thạo kỹ năng viết đoạn văn nghị
luận là tiền đề để các em viết tốt bài văn nghị luận và các dạng bài khác phù hợp
với yêu cầu ngày một cao của cuộc sống xã hội hiện đại.
3.2. Kiến nghị
Để rèn luyện tốt kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh, tôi đề xuất một số
vấn đề sau:
- Giáo viên cần cho học sinh nắm vững kiến thức về đoạn văn: khái niệm,
cách trình bày, cách liên kết, cách triển khai,... để tạo tính liên kết, mạch lạc,
thống nhất cho đoạn.
- Giáo viên phải điều tra, khảo sát thực tế, phân loại học sinh để lựa chọn
các dạng bài tập phù hợp, để phân chia thời gian hợp lí cho từng bước của quá
trình dựng đoạn, viết bài. Đồng thời hướng dẫn các em tìm đọc tư liệu tham

khảo, các đoạn, bài văn nghị luận hay.
- Thư viện nhà trường nên bổ sung thêm các tài liệu tham khảo về văn
nghị luận, đặc biệt là các bài văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống cho
học sinh tham khảo.
Trên đây là những kết quả đạt được và những kinh nghiệm rút ra của bản
thân tôi trong quá trình giảng dạy, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, nên trong quá
trình thực hiện tôi sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và tìm ra các biện pháp mới để
vấn đề ngày càng đi vào thực tiễn. Rất mong được sự tham gia đóng góp ý của
các cấp lãnh đạo, ý kiến trao đổi kinh nghiệm của các đồng nghiệp để bài viết
được hoàn thiện, có hiệu quả cao hơn khi áp dụng vào thực tế giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường xuân, ngày 8 tháng 3 năm2018 Tôi
xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết SKKN

Lê Thị Hương

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Lê A(chủ biên), NXB Giáo dục.
2. SGK, SGV Ngữ văn 7.
3. SGK Ngữ văn 8.
4. SGK Ngữ văn 9.
5. Nâng cao Ngữ văn (Trung học cơ sở), Tạ Đức Hiền - TS Lê Thuận An - TS

Nguyễn Việt Nga - TS Phạm Minh Tú, NXB Hà Nội.
6. Kiến thức cơ bản Văn - Tiếng Việt Trung học cơ sở, Nguyễn Xuân Lạc (Chủ
biên).
7. Giảng dạy Tập làm văn ở THCS- TS Lê Xuân Soan, NXB Đại học Quốc gia
TP Hồ Chí Minh.
8. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, Lê Xuân soan, NXB Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh.

19



×