Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận văn tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp giữa việt nam và trung quốc​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.42 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

WANG YI QIAN
(VƢƠNG DI XUYẾN)

TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG
QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Việt Nam Học

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

WANG YI QIAN
(VƢƠNG DI XUYẾN)

TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG
QUAN NIỆM 12 CON GIÁP GIỮA
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Mã số: 60220113


Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Minh Tân

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các công trình
nghiên cứu khác có liên quan, được trích dẫn trong công trình đều được chú
thích rõ ràng ở phần tài liệu tham khảo. Mọi kiến giải, kết luận đều là kết
quả nghiên cứu của bản thân tôi, không sao chép bất kỳ tài liệu nào. Nếu có
bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019

Người viết

WANG YIQIAN


LỜI CẢM ƠN

Trong hai năm học tập và thực hiện luận văn tại khoa Việt Nam học
của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô cũng như các bạn trong khoa. Tại đây, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô kính mến và các bạn thân mến trong khoa
Việt Nam học. Đồng thời, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Mai
Minh Tân, thầy đã nhận giúp đỡ tôi một cách nhiệt tình. Là một học viên
nước ngoài, thực hiện một luận văn bằng tiếng Việt thực sự rất khó đối với

tôi, thầy Tân đã hướng dẫn tôi và cho tôi rất nhiều ý kiến quý báu trong
suốt quá trình làm luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn mọi thành viên gia
đình của tôi đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong khi tôi sinh sống và học tập tại
Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi trong hai
năm qua.

Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2019
Người viết

WANG YIQIAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài ...................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu ................................ 8
4. Phương pháp luận nghiên cứu và cơ sở tư liệu ...................................... 11
5. Những đóng góp cơ bản của luận văn.................................................... 14
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 14
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP .................................... 16
1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam ... 16
1.1.1. Trung Quốc ....................................................................................... 16
1.1.2. Việt Nam ............................................................................................ 21
1.2 . Nguồn gốc sự hình thành thiên can địa chi..................................... 23
1.2.1. Ngũ hành ........................................................................................... 23
1.2.2. Thiên can .......................................................................................... 25
1.2.3. Địa chi ............................................................................................... 25
1.2.4. Mười hai con giáp ............................................................................ 27

1.3 Mƣời hai con giáp nhìn từ sinh thái học ........................................... 31
1.4. Mƣời hai con giáp nhìn từ đời sống tâm linh cổ đại Đông Á ......... 38
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 59
CHƢƠNG 2: TƢƠNG ĐỒNG TRONG QUAN NIỆM TRONG 12
CON GIÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC .................................... 60
2.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 60
2.1.1. Quan niệm về sự ra đời và nguồn gốc 12 con giáp .......................... 61
2.1.2. Khái niệm và quan hệ 12 con giáp .................................................... 62
2.1.3. Sự ảnh hưởng và ứng dụng 12 con giáp ........................................... 66

1


2.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 71
2.2.1. Sùng bái linh vật............................................................................... 71
2.2.2. Lễ hội truyền thống .......................................................................... 72
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 75
CHƢƠNG 3: KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM 12 CON GIÁP Ở
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ............................................................. 76
3.1. Tín ngƣỡng cộng đồng ....................................................................... 76
3.1.1. Khác biệt về quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và Trung Quốc. 76
3.1.2. Dị biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với con
người ................................................................................................. 82
3.1.3. Khác biệt trong quan niệm về sự ảnh hưởng 12 con giáp đối với đời
sống văn hóa................................................................................................ 89
3.2. Lễ hội – văn hoá dân gian .................................................................. 94
3.2.1. Lễ hội, phong tục trong văn hóa Việt Nam ....................................... 94
3.2.2. Lễ hội – phong tục trong văn hóa Trung Quốc................................. 97
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................... 102
KẾT LUẬN .............................................................................................. 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 105

2


MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài
1.1. Ý nghĩa khoa học
Sau một tiến trình dài của lịch sử đã có hàng loạt các sự kiện lớn mang
tính chất vĩ mô, đánh dấu những cột mốc quan trọng trong lịch sử riêng của hai
quốc gia Trung Quốc và Việt Nam. Đó là các cuộc chiến như chiến tranh Bắc
phạt (1926 – 1928), chiến tranh Liên minh du kích chống Nhật ở Đông Bắc
(1932 – 1945), chiến tranh Trung – Nhật ( 1937 -1945), chiến tranh Trung
Quốc – Triều Tiên (1950 – 1953) ở Trung Quốc. Còn tại Việt Nam cũng có
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), kháng chiến chống đế quốc
Mỹ (1954 – 1975),…
Với một thời kỳ dài, hai dân tộc Trung Hoa và dân tộc Việt Nam đều
dồn hết sức và hết tâm cho các cuộc chiến tranh. Kết quả cuối cùng là đã
mang lại sự độc lập, hoà bình cho đất nước mình, đó là bước đệm để cả hai
quốc gia cùng bước vào thời kỳ phát triển mới.
Lịch sử của chiến tranh đã khép lại, mở màn cho sự phát triển chung
của thế giới chính là xu hướng đối thoại và hội nhập; Việt Nam và Trung
Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Tiêu biểu như cả Trung Quốc và Việt
Nam đều tham gia vào một số hiệp định lớn của châu lục cũng như thế giới
như Hiệp định thương mại tự do FTA, hiệp định thương mại tự do ASEAN
– Trung Quốc, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực PCEP, hiệp
định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP mà tiền
thân của nó là hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TTP,…


3


Xu hướng đối thoại và hội nhập, hội nhập và phát triển giữa các quốc
gia là những xu hướng không thể phủ nhận được trong sự tiến bộ của nhân
loại. Tuy
nhiên, đi cùng với các xu hướng đó chính là sự tồn tại và luôn song
hành một số biểu thị của một số điều mang tính bảo hộ dân tộc, quay trở lại
với những giá trị cổ xưa, mang tính truyền thống.
Mặc dù hội nhập và phát triển là xu hướng chung của thế giới, nhưng mỗi
một quốc gia muốn hội nhập đều phải có nền tảng, những cơ sở và những giá
trị mang tính chất tiêu biểu của riêng quốc gia mình. Cũng như việc các quốc
gia muốn hội nhập đều cần phải có bản sắc, có những tính đặc thù riêng của
quốc gia mình; mang cái riêng để đóng góp vào cái chung; hoà nhập mà không
hoà tan. Nhu cầu của mỗi đất nước trong thời kỳ phát triển là đều phải hội nhập
và phải hội nhập bằng cái bản sắc, cái nét riêng của chính quốc gia mình, điều
đó đã góp phần tạo nên tính cấp thiết cho đề tài.
Sau một thời kỳ dài chạy đua cho sự phát triển của kinh tế, vật chất thì
đến hiện tại, xu hướng chung của thế giới đều quay trở lại để tìm lại các giá
trị tinh thần. Trong các giá trị tinh thần, giá trị lớn nhất là các giá trị về
chuẩn mực, về tâm linh; các tiêu chuẩn này đều đã và đang được quay lại,
tìm lại. Điều đó đồng nghĩa với việc xu hướng chung của nhân loại bên
cạnh sự phát triển về kinh tế chính là quay trở lại những yếu tố mang tính
truyền thống nhằm tìm lại bản sắc của mình, để mang cái bản sắc đó ra
trường quốc tế mà hội nhập. Vì thế, hầu hết các quốc gia đang phát triển,
trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu quay trở lại, tìm
các giá trị và nội lực truyền thống đã bị đánh rơi và lãng quên.

4



Việc quay trở lại và tìm lại các giá trị tinh thần đã bị đánh mất để cho
giá trị tinh thần ít nhất bằng giá trị vật chất hoặc cao hơn giá trị vật chất.
Tinh thần luôn luôn là kim chỉ nam để dẫn dắt sự sáng tạo; khi tạo ra các ý
tưởng trong giá trị tinh thần thì những giá trị thuộc về chuẩn mực và tâm
linh sẽ được phục hồi và trỗi dậy.
Khu vực Đông Á, đặc biệt là khu vực Đông Á, từ cổ xưa, con người
sống tại khu vực này đã có niềm tin rất lớn vào các yếu tố tâm linh, trong
đó có giá trị của 12 con giáp. Sự phát triển và ứng dụng các giá trị của 12
con giáp vào trong tư duy cũng như lối sống của cư dân khu vực Đông Bắc
Á, đặc biệt là cư dân Trung Quốc và Việt Nam là rất lớn, nó thâm nhập vào
trong từng “ngõ ngách” của cuộc sống người dân hai quốc gia. Vì vậy sự
phục hồi và giải mã các yếu tố, các vấn đề của 12 con giáp là một vấn đề
quan trọng trong việc tiếp cận và tìm tòi các giá trị truyền thống mà nhân
dân Trung Quốc cũng như nhân dân Việt Nam ứng dụng từ ngàn đời nay,
để thấy rằng, các giá trị truyền thống sẽ không bị mất đi nếu biết cách tận
dụng và ứng dụng nó vào trong đời sống.
1.2

. Giá trị thực tiễn

Trong lan toả văn hoá, theo lý thuyết, trung tâm văn hoá và trung tâm
lan toả văn hoá ở châu Á có hai trung tâm lớn nằm ở Trung Quốc và Ấn
Độ. Trong sự lan toả này, cái mà cư dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam
ứng dụng khá nhiều là phong tục tập quán, chuẩn mực tư duy, các thang giá
trị của hệ thống ngũ hành, âm dương, bát quái, thiên chi, địa can, nông
lịch…và tất cả các thang giá trị này đều nằm trong vấn đề của 12 con giáp.
Khi gần như tất cả các giá trị cơ bản và cốt lõi của một nền văn minh
lớn như Trung Hoa đều có sự xuất hiện và tồn tại của các yếu tố 12 con
5



giáp thì việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sẽ khẳng định ý nghĩa nội hàm
cũng như các giá trị cốt lõi của văn hoá truyền thống Trung Hoa.
Văn hoá Trung Hoa là một nền văn hoá lớn của nhân loại, có sức lan
toả mạnh mẽ trong khu vực, đặc biệt là đất nước láng giềng Việt Nam. Vì
vậy sự ảnh hưởng cũng như sự tiếp biến các giá trị văn hoá, đặc biệt là các
giá trị văn hoá truyền thống là một điều tất yếu diễn ra trong quá trình lịch
sử lâu dài.
Với việc tìm hiểu những yếu tố truyền thống, tâm linh như là việc
nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới 12 con giáp, đặc biệt là những điểm
tương đồng cũng như dị biệt của nó trong quá trình ứng dụng vào đời sống
thường nhật của Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy được con đường đi
và sự chuyển giao giá trị 12 con giáp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Khi
sự chuyển giao giá trị được tìm hiểu và bộc lộ thì các thành tố liên quan tới
các giá trị truyền thống cũng sẽ được tiếp cận một cách cụ thể.
Khi các giá trị trong các chuẩn mực của các yếu tố trong văn hoá tâm
linh được so sánh thì những sự lệch pha giữa đời sống vật chất cũng như
đời sống tinh thần của cư dân Trung Quốc và Việt Nam nói riêng và văn
hoá Trung Hoa – Việt Nam nói chung cũng được làm rõ. Qua đó có thể góp
phần làm rõ thêm mối quan hệ sâu sắc về văn hoá giữa hai quốc gia trong
lịch sử cũng như hiện tại.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nguồn gốc về sự ra đời của 12 con giáp vẫn chưa có cách nói thống
nhất. Tuy nhiên ngay từ buổi bình minh lịch sử Trung Hoa, dưới nhiều hình

6


thức và cách thức biểu hiện khác nhau, người Hoa Hạ đã có những mối

quan tâm nhất định đến 12 con giáp.
Giai đoạn Hạ Thương , tên của các loài động vật trong 12 con giáp đã
được ghi chép tỉ mỉ trong văn giáp cốt và nhiều văn vật khác. Đây cũng là
giai đoạn hình thành hệ thống lịch can chi.
Vào giai đoạn nhà Chu, Kinh Thi đã xuất hiện những ghi chép, nghiên
cứu đến 12 con giáp qua các bài thơ.
Tuy nhiên, đến giai đoạn nhà Tần - Hán, 12 con giáp và can chi đã
được nghiên cứu và ghi chép một cách có hệ thống qua sách tre. Đặc biệt,
trong các bộ sách tre được tìm thấy có bộ “Nhật Thư” và “Luận Hoàng” là
tài liệu nghiên cứu sớm nhất trong việc tổng hợp các mối quan hệ của 12
con giáp khi kết hợp với các yếu tố khác.
Từ giai đoạn Nguỵ Tấn và Nam Bắc Triều đến thời dân quốc, các
sách sử đã có những ghi chép và nghiên cứu về 12 con giáp.
Năm 1998, Hoàng Kiến Vinh trong “Thử luận nền tảng triết học của
văn hoá 12 con giáp” đã có những tìm luận cứ trong việc tìm hiểu cơ tầng
của 12 con giáp dưới góc độ tư tưởng và triết học.
Năm 2001, Thái Tiên Kim có nghiên cứu về ý nghĩa nhất định của địa
chi trong “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên nghĩa”.
Năm 2004, trong “Thuyết minh văn hoá của 12 địa chi”, học giả Thái
Anh Kiệt đã nghiên cứu về 12 con giáp dưới góc độ mô tả địa chi trong văn
hoá học.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống
về 12 con giáp. Hệ thống 12 con giáp chỉ xuất hiện trong các khảo cứu

7


nhằm mục đích đối sánh văn hoá Trung Hoa và văn hoá Việt Nam hoặc
trong các giáo trình cơ bản, nhập môn về văn hoá phương Đông như cuốn
“Cơ sở văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Giáo trình văn hoá

phương Đông” của Trần Lê Bảo.
3. Mục đích nghiên cứu và giới hạn đề tài nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12
con giáp giữa Việt Nam và Trung Quốc” nhằm quay trở lại và khẳng định
những giá trị thực sự trong văn hoá truyền thống Trung Hoa, từ đó có thể
thấy được con đường đi, sự chuyển giao giá trị cũng như cách tiếp cận và
sự tiếp biến khi hệ thống 12 con giáp “sống” ở Việt Nam.
Theo dòng lịch sử, với hệ thống 12 con giáp, khi đi vào Việt Nam,
thang giá trị của nó đã được cải biến để phù hợp với văn hoá Việt và lối
sống cũng như con người Việt. Với đề tài nghiên cứu về sự tương đồng
cũng như di biệt giữa 12 con giáp ở Trung Quốc và ở Việt Nam có thể chỉ
ra được dưới thang văn hoá của người Việt, người Việt đã thay đổi đối
tượng tiếp nhận là hệ thống 12 con giáp như thế nào, kết quả là còn bảo lưu
được những yếu tố gì và những yếu tố gì được chuyển hoá,…
Với một yếu tố văn hoá ngoại lai nói chung và hệ thống 12 con giáp
nói riêng, khi tiếp nhận và chuyển biến, người Việt đã có một quá trình
chuyển hoá trong tư duy cũng như nhận thức nên việc tìm hiểu và nghiên
cứu về vấn đề 12 con giáp có thể đi sâu hơn vào các yếu tố mang tính chất
bản sắc của cả hai quốc gia là Trung Quốc và Việt Nam. Từ một vấn đề của
Trung Hoa, khi đưa sang Việt Nam có thể nhận thức được sự cải biên cũng

8


như quá trình thay đổi và tính ích dụng của nó trong đời sống người Việt
nói chung và đời sống văn hoá tâm linh nói riêng; qua đó có thể so sánh
được các giá trị, sự giống và khác nhau, cách tiếp cận và sự lệch pha trong
hệ thống 12 con giáp của hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam.
Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp

giữa Việt Nam và Trung Quốc” giúp thể hiện sức sống mãnh liệt của các
giá trị văn hoá truyền thống Đông Á nói chung và truyền thống Trung Hoa
– Việt Nam nói riêng, đặc biệt là những giá trị cố hữu, bất biến ở những
vấn đề tồn tại xung quanh hệ thống 12 con giáp. Khi nhận thức và tìm hiểu
được các vấn đề cốt lõi và cơ bản xung quanh hệ thống này có thể đối sánh
và nhìn nhận tầm quan trọng của việc ứng dụng hệ thống 12 con giáp trong
cuộc sống thường nhật của người dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam từ
ngàn đời nay.
Hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam – hai truyền thống dân tộc
trong quá khứ và hiện tại đã có những giao lưu văn hoá, quan hệ quốc tế rất
sâu sắc. Ngoài quan hệ chính trị thì không thể phủ định được quan hệ dân
tộc của hai cộng đồng dân tộc giữa người Hoa và người Việt là vô cùng
mật thiết. Tuy có những sóng gió trong lịch sử nhưng đó là sóng gió chính
trị, không phải là sóng gió do dân tộc. Vì vậy với việc tìm hiểu đề tài về sự
tương đồng cũng như dị biệt của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và
Việt Nam góp phần làm tăng thêm mối quan hệ truyền thống giữa hai dân
tộc, nhất là hiện nay khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã có những tiếp cận rất tốt, ngoại trừ những mâu thuẫn mang
tính thời cuộc.

9


3.2. Giới hạn đề tài nghiên cứu
Mọi đối tượng văn hoá, yếu tố văn hoá nếu muốn tồn tại và phát triển
đều cần phải có mối liên hệ, sự tương quan trong các yếu tố văn hoá khác,
có sự liên quan và tương tác lẫn nhau. Vì vậy khi muốn đi sâu vào tìm hiểu
và nghiên cứu một đối tượng văn hoá cụ thể đều phải đặt nó trong một hệ
thống các mối tương quan, sự liên hệ nhất định. Nghiên cứu về vấn đề 12
con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.

Sự xuất hiện, tồn tại và phát huy các giá trị nền tảng cũng như những
giá trị lan toả của 12 con giáp đều phải dựa vào một hệ thống tổng thể, các
mối liên hệ mật thiết từ tự nhiên, địa lý, lịch sử khu vực đến tư duy, triết
học, các học thuyết âm dương, phương vị, phong thuỷ, phong tục, tập
quán,….của người Đông Á nói chung và cụ thể hơn là người Trung Quốc
và Việt Nam.
Mọi vấn đề của văn hoá khi cần xuất hiện và tồn tại đều có nguồn gốc
về sự hình thành và phát triển của riêng nó. Vấn đề về 12 con giáp cũng
vậy. Sự ra đời của 12 con giáp đều bắt nguồn từ địa lý, điều kiện tự
nhiên của Trung Quốc và sự phát triển của nó song song với sự phát
triển của nền văn minh Hoa Hạ và diễn trình lịch sử của cộng đồng
người Hoa. Vì vậy khi tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của hệ
thống 12 con giáp chính là tìm hiểu về địa lý, tự nhiên cũng như tiến
trình lịch sử của dân tộc Trung Hoa.
Một yếu tố văn hoá khi nó phát triển một cách mạnh mẽ là khi nó
được tồn tại trong các mối tương quan của một hệ thống nhất định, 12 con
giáp cũng vậy. Song hành với sự phát triển của nó chính là các yếu tố, các

10


học thuyết về ngũ hành, âm dương, phương vị,…giúp nó củng cố và thâm
nhập một cách có hệ thống và ảnh hưởng sâu sắc vào tư duy cũng như tư
tưởng của người dân. Nói cách khác, khi tìm hiểu về vấn đề 12 con giáp
cũng chính là tìm hiểu về hệ thống liên kết của nó là các học thuyết cổ đại
cũng như tư duy của người phương Đông.
Tất cả các nền văn hoá khi phát triển đủ rực rỡ sẽ có sức lan toả sang
các nền văn hoá khác. Với cư dân lúa nước người Việt, trong diễn trình lịch
sử, đã tiếp nhận và tiếp biến một cách chọn lọc các yếu tố văn hoá của
người Hoa, trong đó có hệ thống 12 con giáp. Trong quá trình đón nhận,

người Việt đã dựa vào văn hoá truyền thống của mình là nền tảng để đón
nhận những cái phù hợp và thay đổi những cái chưa phù hợp của hệ thống
12 con giáp đối với văn hoá Việt. Vì vậy, khi nghiên cứu về sự giống và
khác nhau của hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam đều phải
tìm hiểu về văn hoá người Việt nói chung, mà cụ thể hơn chính là phong
tục, tập quán, lễ hội, tư duy của người Việt.
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về hệ thống 12 con giáp cũng chính
là nghiên cứu về cả một hệ thống những vấn đề tồn tại bao quanh nó trong
suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của hai quốc gia
Trung Quốc và Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu và cơ sở tƣ liệu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng
hợp liên ngành để có thể dùng nhiều tiêu chuẩn của các ngành khoa học
như khu vực học, địa lý, văn hóa, lịch sử, khảo cổ học, folklore,...Đây là

11


phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn. Với phương pháp
này, chúng tôi có thể tiếp cận các vấn đề ở nhiều phương diện khác nhau
một cách chân thực và khoa học nhất. Bởi vì đây là một vấn đề vừa mang
tính thực tiễn, vừa mang tính lý thuyết, vừa mang tính lịch sử, vừa mang
tính hiện đại và vừa mang tính tương lai. Chính vì vậy nên một phương
pháp nghiên cứu sẽ không đáp ứng được. Đó là lí do khi nghiên cứu vấn đề
này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp liên ngành xuyên suốt
luận văn.
Ngoài phương pháp chính là tổng hợp liên nghành, chúng tôi còn sử
dụng phương pháp như nghiên cứu khu vực học vì đối tượng nghiên cứu
của đề tài là hệ thống 12 con giáp trong khu vực Trung Quốc và Việt Nam.

Phương pháp khảo cứu lịch sử và so sánh lịch đại cũng được sử dụng
để thấy được sự thay đổi, chuyển di của hệ thống 12 con giáp ở Trung
Quốc sang Việt Nam. Bởi vì đây là một vấn đề mang tính trừu tượng, nó
chỉ có thể hiện diện và xuất hiện khi được đưa vào ứng dụng. Qua đó có thể
thấy được sự thay đổi trong quá trình chuyển di một yếu tố văn hoá giữa
hai quốc gia.
Ngoài các thao tác phục vụ nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng
phương pháp thống kê, liệt kê làm cơ sở tư liệu để phân tích và so sánh, để
từ đó có cái nhìn tổng quan hơn về sự giống nhau và khác nhau về hệ thống
12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam.
4.2. Cơ sở tư liệu
Nguồn tài liệu mang tính lý thuyết được sử dụng xuyên suốt trong
luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu đã có về tính lý thuyết văn hóa, văn học,

12


lịch sử,... Có thể nói với đề tài hệ thống 12 con giáp hầu như không được
đề cập đến trong bất kỳ một cuốn sử chính thức của một triều đại nhất định
nào ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhà Tần –
Hán đã có một số ghi chép về vấn đề 12 con giáp và can chi qua sách tre,
đặc biệt là trong bộ “Nhật Thư” và “ Luận Hoàng”.
Bên cạnh một số ít bộ sách chính sử còn được lưu giữ lại còn có một
nguồn tài liệu hiếm hoi và hết sức quý giá là các công trình khảo cứu hoặc
các ghi chép của một số học giả Trung Quốc về đề tài và những vấn đề liên
quan đến 12 con giáp như cuốn “Thử luận nền tảng triết học của văn hoá 12
con giáp” của Hoàng Kiến Vinh hay như vấn đề địa chi cũng được học giả
Thái Tiên Kim đề cập đến trong cuốn “Bước đầu tìm hiểu Địa chi nguyên
nghĩa”, hoặc Nam Hoài Cẩn cũng có đề cập đến một số vấn đề liên quan
đến 12 con giáp trong “Kinh dịch tạp thuyết”. Tuy mức độ thông tin xuất

hiện chưa được trọn vẹn, song người nghiên cứu vẫn có thể tìm chọn và
chắt lọc các tri thức để phục vụ cho đề tài.
Nguồn hệ thống tư liệu mang tính thực tiễn như quan sát, phỏng vấn
các cách ứng dụng và vận hành hệ thống 12 con giáp trong cuộc sống của
người dân Việt Nam và Trung Hoa ở một số khu vực nhất định của hai
quốc gia cũng được sử dụng trong luận văn.
Ngoài ra còn có nguồn tư liệu dã sử bao gồm các câu thơ hay truyền
thuyết dân gian, câu truyện cổ tích về sự ra đời của 12 con giáp. Cũng có
một số tài liệu truyền miệng phản ánh tương đối khách quan về ước vọng
và niềm tin của người dân về 12 con vật được hệ thống hoá thành 12 con
giáp đưa vào ứng dụng trong cuộc sống. Nhưng đặc điểm chung của những

13


nguồn tư liệu này đều mang tính ước lệ và giải thích theo cảm tính. Tuy
nhiên, nếu có sự so sánh, đối chiếu với các tư liệu loại khác thì nguồn tư
liệu truyền miệng cũng có thể cung cấp một nguồn thông tin dồi dào, phong
phú và sinh động để có thể hiểu hơn về đời sống vật chất cũng như đời
sống tinh thần của người dân Trung Quốc và Việt Nam thông qua hình
tượng 12 con giáp.
5. Những đóng góp cơ bản của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về đề tài 12 con
giáp ở Trung Quốc và Việt Nam. Qua đó, chúng tôi đã tổng hợp, hệ thống
hoá được các kết quả của các học giả đi trước và đề ra được một số bổ
khuyết, bởi những nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung tìm hiểu dưới
một góc độ nhất định và chưa đưa các lý thuyết này ứng dụng vào thực tiễn
để nghiên cứu. Với đề tài này, sẽ là một đề tài có hệ thống trong việc tìm
hiểu và so sánh sự tương đồng và dị biệt trong hệ thống 12 con giáp ở
Trung Quốc và Việt Nam.

Với đề tài “Tương đồng và khác biệt trong quan niệm 12 con giáp
giữa Việt Nam và Trung Quốc”, chúng tôi còn tổng hợp được các nguyên
lý trong quá trình vận hành hệ thống 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt
Nam. Từ đó có thể tìm ra được những thiên di văn hoá trong lịch sử cũng
như hiện tại để từ đó có thể đề xuất những ý kiến trong việc bảo tồn, bảo
lưu và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống cổ xưa trong khu vực.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 4 phần lớn: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
và tài liệu tham khảo.

14


Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về 12 con giáp.
Chương 2: Tương đồng trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và
Trung Quốc.
Chương 3: Khác biệt trong quan niệm 12 con giáp của Việt Nam và
Trung Quốc.

15


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ 12 CON GIÁP
1.1. Khái quát cơ tầng của 12 con giáp ở Trung Quốc và Việt Nam
1.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ tư trên thế giới. Lãnh
thổ của Trung Quốc trải dài và giáp với 14 nước, trong đó có Việt Nam.
Biên giới với các nước chủ yếu là núi cao, phía đông giáp biển, mở rộng
ra Thái Bình Dương.

Về cơ bản, lãnh thổ Trung Quốc được chia làm 2 miền là miền Đông và
miền Tây. Nếu như miền Đông là nơi có các đồng bằng châu thổ rộng lớn, đất
phù sa màu mỡ thì miền Tây Trung Quốc lại có các dãy núi cao, các sơn
nguyên đồ sộ xen lẫn các bồn địa, vì thế kiến tạo địa lý của Trung Quốc đều
bắt nguồn trực tiếp bởi các đường nét sơn văn và thuỷ văn.
Về đường nét sơn văn: Vị trí kiến tạo của Trung Quốc bắt nguồn trực
tiếp từ dãy Thiên Sơn, Côn Luân và Himalaya. Vành cung Thiên Sơn và
Himalaya đi về Tứ Xuyên, Vân Nam, kéo dài và kết thúc ở đất nước
Malaixia. Hệ thống đứt gãy của hệ các vành cung này lại nằm ở hệ thống đảo
Indonexia thuộc khu vực Đông Nam Á nên cả Trung Quốc và Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam đều nằm trong một mạch kiến tạo chung và nó sẽ có
một số nét tương đồng giữa hai khu vực.
Về đường nét thuỷ văn: Khu vực miền Tây Trung Quốc có rất nhiều các
dãy núi cao, đồ sộ với rất nhiều rừng và đồng cỏ; đây cũng là nơi bắt nguồn
của các con sông lớn chảy về phía đông như sông Hoàng Hà, Trường Giang
và sông Lan Thương (Mê Kông).

16


Sông Lan Thương là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt
nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua khu vực Tứ
Xuyên, Vân Nam của Trung Quốc, đi qua Lào, Myama, Thái Lan, Cam pu
chia và đổ ra Thái Bình Dương. Cũng như đường nét sơn văn, đường nét thuỷ
văn cũng đều nằm chung trong một hệ thống dòng chảy của sông Mê Kông
nên không chỉ vấn đề tự nhiên mà vấn đề xã hội, con người giữa hai khu vực
là Trung Quốc và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam cũng có sự tương đồng
nhất định. Không những thế, hệ thống hai sông lớn ở miền Bắc Việt Nam là
sông Hồng và sông Thái Bình đều bắt nguồn từ cao nguyên Vân Nam của
Trung Quốc nên tự nhiên và văn hoá Việt Nam cũng sẽ có sự ảnh hưởng nhất

định với văn hoá Trung Hoa.
Không phải con sông lớn nào cũng mang lại văn minh cho nhân loại,
nhưng những nền văn minh lớn, văn minh đầu tiên của nhân loại đều bắt
nguồn từ các con sông. Khu vực bắt đầu cho các nền văn minh đều phụ thuộc
vào một dòng sông. Ví dụ nền văn minh Ai Cập gắn với con sông Nin, nền
văn minh Babilon là sự gắn kết của hai con sông Tigơrơvà Ơphơrat, nền văn
minh Ấn Độ là sự kết tinh của sông Ấn và sông Hằng thì nền văn minh Trung
Hoa cũng là sự thăng hoa của hai dòng sông Hoàng Hà và Trường Giang.
Sông Hoàng Hà và Trường Giang đều bắt nguồn từ sơn nguyên Tây
Tạng, chảy về phía đông rồi đổ ra Hoàng hải và biển Đông Trung Hoa. Ở hạ
lưu các con sông bồi đắp thành những đồng bằng rộng lớn, màu mỡ.
Nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn từ khu vực trung lưu và hạ lưu sông
Hoàng Hà (tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc). Tuy nhiên, sông Hoàng Hà có chế
độ nước thất thường vì chảy qua các vùng khí hậu khác nhau. Mùa đông lưu
17


lượng nước rất nhỏ, nhưng mùa hạ lưu lượng nước cực kỳ lớn do lượng băng
tuyết tan ở thượng nguồn và mưa nên thường xảy ra lũ lụt, không thuận lợi
cho sản xuất và phát triển nông nghiệp ở khu vực này.Vì thế với người Trung
Hoa cổ, sự ra đời và phát triển nền văn minh của mình không phải bắt đầu từ
nguồn nước và phù sa màu mỡ của con sông Hoàng Hà mà nền văn minh
Trung Hoa nhận sự “ban ơn” từ chi lưu của con sông này. Vùng đất Thiểm
Tây phía bắc có núi cao, hiểm trở, phía nam có sông lớn và đồng bằng màu
mỡ, phì nhiêu nên thuận lợi cho việc trồng lúa, vì vậy về cơ bản, cội nguồn
của văn hoá Trung Hoa là nông nghiệp.
Bên cạnh hệ thống sông lớn, Trung Quốc còn có một hệ thống hồ rất lớn
đặc biệt là xuôi xuống khu vực miền trung và miền nam. Với cội nguồn là văn
hoá sản xuất nông nghiệp ở chi lưu sông Hoàng Hà và hệ thống hồ mang tính
chất tĩnh thì đặc trưng của văn hoá Trung Hoa là nền văn hoá trọng văn, thích

yên tĩnh và ưa sự hoà mục,…Vấn đề này được biểu hiện rất rõ trong các học
thuyết cũng như tư duy học của người Trung Quốc; nói theo cách khác, sự ra
đời của tư duy và các học thuyết cổ Trung Hoa đều bắt nguồn và ảnh hưởng
bởi các nét thuỷ văn trong đó có sông và hồ của người Hoa Hạ.
Văn hoá Trung Hoa phát nguyên ở khu vực trung và hạ du của sông
Hoàng Hà cách ngày nay khoảng 5000 năm, đây là một trong những nền văn
hoá cổ xưa nhất của nhân loại. Khi hoàn cảnh sinh tồn và điều kiện sinh sống
của cư dân gốc được xác lập thì đó chính là cột mốc cho sự hình thành của
một nền văn hoá. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa tự nhiên và con người
mà người Trung Hoa đã nâng lên thành những hệ tư tưởng, những học thuyết
của riêng mình.
18


Điều kiện tự nhiên của khu vực sinh sôi ra các nền văn minh cổ đại trên
thế giới đều có những sự thuận lợi và khó khăn nhất định, và đó là quy luật tất
yếu, không thể tránh khỏi. Tuy nhiên chính những thuận lợi và khó khăn riêng
đã xác lập nên những nét khác biệt văn hoá của các cộng đồng dân tộc; con
người là yếu tố quyết định cho cái riêng của nền văn hoá ấy vì con người là
chủ thể quan trọng nhất cho một nền văn hoá. Nếu như sinh sống trong một
điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt thì con người sẽ dành toàn bộ tâm trí của
mình để tự vệ trước cái “hung dữ”và sức mạnh huỷ diệt của tự nhiên; nhưng
nếu sinh sống trong một môi trường tự nhiên quá thuận lợi, quá ưu việt sẽ làm
cho tư duy của con người bị bó hẹp và không thể phát triển được. Hai miền
tam giác châu thổ rộng lớn và phì nhiêu của sông Trường Giang và Chu
Giang không trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa mà sự khó khăn
của con sông Hoàng Hà ở phía bắc lại là nơi hình thành nên cái nôi cho sự
văn minh của người Trung Quốc. Cũng chính bởi xuất phát điểm từ con sông
Hoàng Hà nên tại khu vực này đã nảy sinh rất nhiều học thuyết, hệ tư tưởng,
các phát kiến lớn của dân tộc Trung Hoa.

Văn hoá của dân tộc Trung Hoa là sản phẩm, là thành tựu của cả hai nền
văn hoá. Đó chính là văn hoá du mục ở phía bắc và văn hoá nông nghiệp ở
phía nam. Nếu như văn hoá du mục trọng về tính “động” và sức mạnh thì văn
hoá nông nghiệp thiên về tính “tĩnh” và sự hài hoà. Tuy có sự khác biệt nhưng
vẫn có sự hỗn dung nhất định. Điều này thể hiện rất rõ trong các học thuyết
của người Trung Hoa như âm dương, ngũ hành,…
Nhìn từ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong buổi bình minh
của nhân loại, bởi từ buổi sơ khai, sự hiểu biết của con người về tự nhiên còn
nhiều hạn chế nên đã nảy sinh tư tưởng sùng bái tự nhiên “kính thiên”, “tôn
19


thiên mệnh”,… Sau đó, ý thức về tự nhiên ngày một cao hơn trong quá trình
phát triển của chính mình, con người đã chuyển dần sự sùng bái thành chinh
phục tự nhiên. Người Trung Hoa cũng không phải là ngoại lệ, cũng nằm trong
chu trình phát triển của nhân loại. Khi ý thức được hình thành và dần thoát
khỏi sự kì bí của yếu tố tôn giáo thì nó sẽ trở thành một bộ phận quan trọng
cấu thành văn hoá dân tộc Trung Hoa. Những quan niệm, tư duy về can chi,
âm dương, ngũ hành, bát quái,… chính là kết quả của sự phát triển trong ý
thức của người Trung Quốc. Từ chỗ lo lắng, sợ hãi trước tự nhiên nên sùng
bái tự nhiên, người Trung Hoa đã chinh phục tự nhiên bằng cách quan sát để
tìm ra hệ thống các quy luật vận động của tự nhiên để sinh tồn và phát triển.
Dân cư cổ Trung Hoa phân bố chủ yếu nằm ở vùng ôn đới Bắc bán cầu
với hình thái kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ thể. Thời thượng cổ, khi môi
trường canh tác tương đối ổn định, Trung Quốc đã bước qua ngưỡng cửa văn
minh, thủ lĩnh thị tộc chuyển hoá thành giai cấp thống trị mới nổi nắm trong
tay mọi quyền lực. Cầu nối huyết thống và hệ thống hành chính quốc gia
thống nhất làm một, kết tụ thành kết cấu tầng sâu của xã hội, hình thành xu
hướng hướng nội, luân thường đạo lý, quần thể và tập quyền.
Tại lưu vực sông Hoàng Hà và Trường Giang, thời cổ đại Trung Quốc

đã phát triển mô hình sản xuất cày sâu cuốc bẫm, dùng đồ sắt và trâu cày. Từ
đây đã hình thành nên một nền kinh tế nông nghiệp mang tính cá chất cá thể,
có mối quan hệ phụ thuộc nhân thân tương đối lỏng lẻo, và chế độ tư hữu
ruộng đất cùng quan hệ giao kèo thuê ruộng.
Đại lục Trung Hoa cách văn minh phương Tây khá xa, qua núi cao, sa
mạc, đại dương, hình thành nên một đơn vị địa lý tương đối độc lập. Trong
không gian rộng rãi, được các vùng miền vây quanh, lại có các môi trường
20


như đất đai màu mỡ, rộng lớn thích hợp cho việc canh tác, có thảo nguyên,
duyên hải thích hợp với chăn thả, buôn bán, đánh cá, làm muối. Những môi
trường sinh tồn phong phú đa dạng này có lợi cho việc giao lưu xã hội và các
yếu tố bổ sung lẫn nhau.
Thời cổ Trung Quốc dựa vào sức sản xuất tiên tiến và ưu thế chỉnh thể
thống nhất, đã sáng tạo nên bốn phát minh lớn đánh dấu văn minh cổ đại huy
hoàng chói lọi, giữ vị trí hàng đầu trên thế giới trong một thời gian dài.
1.1.2. Việt Nam
Nước Việt Nam nằm ở đông nam lục địa châu Á, bắc giáp nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
vương quốc Campuchia, đông và nam giáp Thái Bình Dương. Từ thời cổ sinh
của trái đất (cách ngày nay từ 185 - 520 triệu năm) đây đã là một nền đá hoa
cương, vân mẫu và phiến ma nham vững chắc, tương đối ổn định. Vào kỷ thứ
ba của thời tân sinh (cách ngày nay khoảng 50 triệu năm) toàn lục địa châu Á
được nâng lên và sau nhiều biến động lớn của quả đất, dần dần hình thành các
vùng đất của Đông Nam Á.
Sự hình thành lâu đời và bền vững của lục địa châu Á đã ảnh hưởng rất
lớn đến sự ra đời của con người và xã hội trong khu vực. Năm 1892, nhà bác
học Hà Lan Ơgien Duy boa (Engène Dubois) đã tìm thấy hài cốt của người
vượn Java, sống cách đây khoảng 180 vạn năm. Việc phát hiện hài cốt người

nguyên thủy trong các thập niên qua đã chứng tỏ rằng Đông Nam Á là một
trong những quê hương của loài người.
Địa hình vùng đất liền của Việt Nam khá đặc biệt với hai đầu phình ra
(Bắc bộ và Nam bộ) ở giữa thu hẹp và kéo dài (Trung bộ). Địa hình miền Bắc
21


×