Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỘNG TUYỀN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỘNG TUYỀN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số :838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒ SỸ SƠN


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn về đề tài: “Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam” do tôi viết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham khảo,
giáo trình hướng dẫn, và thực tiễn thực hiện pháp luật từ từ thực tiễn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.Tôi đã hoàn thành luận văn và chịu trách nhiệm
với những vấn đề tôi viết.
Tác giả

Nguyễn Thị Mộng Tuyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM................................................ 7
1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa pháp lý của các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ..................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ......................................................................... 17
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÌNH
TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG
NAM ............................................................................................................... 41
2.1. Khái quát các điều kiện kinh tế - xã hôi tác động đến tình hình áp dụng
quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại thành phố Hội

An, tỉnh Quảng Nam ....................................................................................... 41
2.2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại thành phố Hội An ...................................... 45
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ........................................................................................................ 60
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự .................................................................................................. 60
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng quy định của pháp luật
Hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm ............................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT

Cụm từ

Viết tắt

01

Bộ luật Hình sự

BLHS

02


Pháp luật Hình sự

PLHS

03

Trách nhiệm Hình sự

TNHS

04

Thành phố

Tp


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

Tên bảng
Số liệu các vụ hình sự phát hiện và xử lý từ năm 2015
đến 2019 trên địa bàn thành phố Hội An

Trang

45


Số liệu các vụ án hình sự được áp dụng các tình tiết
2.2.

giảm nhẹ TNHS của Tòa án nhân dân thành phố Hội

47

An từ năm 2015 đến năm 2019
Chất lượng xét xử các vụ án hình sự áp dụng các tình
2.3.

tiết giảm nhẹ TNHS của Tòa án nhân dân thành phố
Hội An từ năm 2015 đến năm 2019

50


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

Bản đồ hành chính Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

41

hình

2.1.
2.2.

2.3.

Biểu đồ biểu thị trình trình độ chuyên môn đội ngũ cán
bộ, công chức thành phố năm 2019
Biểu thị số vụ hình sự phát hiện và xử lý từ năm 2015
đến 2019 trên địa bàn thành phố Hội An

44

46

Thống kê các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 46 BLHS
2.4.

năm 1999) được áp dụng nhiều và có sự tương đồng
khá phổ biến

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không làm oan người
vô tội và cũng không bỏ lọt hành vi của người phạm tội là mục tiêu, là yêu
cầu quan trọng hàng đầu trong việc giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nếu định tội là tiền đề, là cơ sở cho
việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của

hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt một cách chính xác có ý nghĩa rất
quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Theo đó Tòa án sẽ nhân danh
nhà nước mà tuyên bố hình phạt cho người phạm tội. Việc quyết định áp dụng
một hình phạt đúng, chính xác không những đảm bảo sự công bằng, hợp lý,
minh bạch trong thực thi pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tội phạm mà còn có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với người
có hành vi phạm tội trong quá trình tiến hành thủ tục tố tụng hình sự, là cơ sở
pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xem xét đánh giá tính chất, mức
độ của hành vi phạm tội. Từ đó đưa ra quyết định hình phạt tương xứng có giá
trị răn đe, đảm bảo việc cải tạo giáo dục, góp phần thực hiện nguyên tắc công
bằng, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc nhân đạo, đảm bảo quyền con người
và tinh thần thượng tôn pháp luật. Đối với vụ án cụ thể việc áp dụng tình tiết
giảm nhẹ làm thay đổi hình phạt, giảm nhẹ hình phạt hơn cho người phạm tội.
Pháp luật hình sự Việt Nam từ khi được xây dựng, kế thừa và hiện hành
đều quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS, tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn còn
nhiều vấn đề đang mâu thuẫn, chưa đầy đủ, vướng mắc dẫn đến việc áp dụng
còn thiếu sự nhất quán, đồng bộ, không thống nhất, việc áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS còn tùy tiện, không công bằng trong quá trình giải quyết vụ

1


án hình sự.
Việc xem xét, đánh giá giá trị các tình tiết giảm nhẹ TNHS của HĐXX
phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận đánh giá cụ thể của từng tình tiết. Cách nhìn
nhận và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS của HĐXX còn nhiều điểm
chưa được khách quan. Nên việc đồng nhất quan điểm về các tình tiết giảm
nhẹ TNHS và áp dụng một cách khách quan là rất quan trọng. Việc nhận thức
và áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ TNHS dẫn đến việc ban hành

các quyết định hình phạt chưa phù hợp là vi phạm nguyên tắt bình đẳng,
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo và đảm bảo quyền con người mà
pháp luật quy định.
Từ thực tế tại địa bàn Tp Hội An, việc xét xử các vụ án hình sự của
TAND Tp Hội An hầu hết đều được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS
theo đúng quy định pháp luật. Nhưng vẫn còn một vài trường hợp, do cách
nhìn nhận đánh giá một số tình tiết không đồng nhất dẫn đến những bất cập
trong thực tiễn áp dụng.
Với những lý do đó, học viên chọn đề tài: “Các tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tp Hội An” làm đề tài
nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Luật học, nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Qua đó, học
viên đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu tìm hiểu thì tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được nhiều tác
giả nghiên cứu trong nhiều công trình.Nhìn chung qua các công trình nghiên
cứu của các nhà làm luật đã thể hiện được những phương diện, góc cạnh khác
nhau của vấn đề từ đó đưa ra được những kiến nghị, giải pháp để khắc phục.
Cụ thể như:

2


Luận án tiến sỹ của Trần Thị Quang Vinh (Năm 2002, các tình tiết
giảm nhẹ TNHS trong Luật Hình sự Việt Nam).
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 phần chung của thạc sỹ Đinh Văn
Quế (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh năm 2006).
PGS. TS Võ Khánh Vinh, TS.Trần Thị Quang Vinh (1996) “Về khái
nhiệm, bản chất, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ TNHS Việt Nam”, Tạp chí

Tòa án nhân dân;
Tập thể tác giả do PGS. TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001) Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam- phần chung, ĐH Huế, Nxb Giáo dục;
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2010) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam- phần chung.Nxb Công an nhân dân;
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Mộng Vương (2018) “Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS theo Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Củ Chi, Tp Hồ
Chí Minh”.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2018), “Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS theo Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Gò Vấp, Tp Hồ
Chí Minh”.
Luận văn thạc sỹ của Đỗ Hải Hà, (2017), “Các tình tiết giảm nhẹ TNHS
theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang”.
Nhìn chung qua nghiên cứu hầu như các công trình, bài viết đã phân
tích khá chi tiết, phản ánh đúng nội dung, lý luận logic các tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo quy định của pháp luật.Tuy nhiên, qua thực tế xét xử vẫn còn tồn
tại nhiều tranh luận, nhiều ý kiến trái chiều không có sự nhất quán, đồng bộ
khi áp dụng.Vì lẽ đó việc tiếp tục nghiên cứu đề tài này là cần thiết nhằm cố
gắng hoàn thiện hơn về cơ sở pháp lý, tổng hợp thực tiễn từ địa phương và
qua đó cũng đưa ra những kiến nghị, giải pháp giúp hoàn thiện PLHS về các
tình tiết giảm nhẹ TNHS theo PLHS Việt Nam.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn vận dụng tình tiết giảm nhẹ
trong quyết định hình phạt tại Tp Hội An, tỉnh Quảng Nam luận văn đề xuất

hoàn thiện quy định BLHS và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp
dụng quy định pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quyết định hình phạt
dựa trên các tình tiết giảm nhẹ;
- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự hiện hành ở Việt Nam về
các tình tiết giảm nhẹ TNHS
- Phân tích đánh giá thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS làm
căn cứ quyết định hình phạt.
- Chỉ ra những vi phạm, sai lầm trong khi áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt tại Tp Hội An và nguyên nhân của những
vi phạm sai lầm đó.
- Lập luận, đề xuất các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng áp
dụng quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo
PLHS Việt Nam từ thực tiễn Tp Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Luận văn sử dụng các quan điểm khoa học được nêu ra trong khoa học

4


luật tố tụng hình sư, các quy định của luật hình sự và thực tiễn áp dụng của
pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình
sự và tố tụng hình sự

Về quy phạm pháp luật luận văn chỉ đề cập nghiên cứu các tình tiết
giảm nhẹ (chung) TNHS áp dụng đối với chủ thể là cá nhân ghi nhận tại Điều
51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có đối chiếu với các quy định
của các BLHS trước đây..Số liệu nghiên cứu được thu thập tại TAND Tp Hội
An, tỉnh Quảng Nam trong thời gian 2015-2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện
chứng và phép duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lenin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
tội phạm, hình phạt, cải cách tư pháp, phòng ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp cụ
thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch, phương pháp
quy nạp. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê
các số liệu thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ cơ sở lý luận của luận văn sẽ làm tiền đề, định hướng cho các công
trình nghiên cứu tiếp theo.Đồng thời kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và nội dung quy định của BLHS.

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như nội dung
các tình tiết giảm nhẹ TNHS.Đồng thời trên cơ sở thực tế, thực tiễn xét xử tại
địa phương giúp cho ta nhận định đúng hơn, áp dụng chính xác hơn các tình

tiết giảm nhẹ để từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.Có như vậy mới
hạn chế được oan sai, bỏ lọt tội phạm và tinh thần thượng tôn pháp luật ngày
càng được nâng cao hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
danh mục những từ viết tắt thì luận văn gồm có:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2:Thực tiễn áp dụng các quy định về tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam tại TP Hội An, tỉnh Quảng
Nam.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa pháp lý của
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“Tình tiết” được hiểu là những sự việc nhỏ trong quá trình hay diễn
biến của một sự vật, sự việc.Trên cơ sở khái niệm này thì có thể hiểu, “tình
tiết giảm nhẹ TNHS” là những sự việc nhỏ, những chi tiết nhỏ, những tình
huống nhỏ, sự kiện nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc làm giảm
mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội đối với xã hội, thể hiện thái độ, khả năng

cải tạo, sửa chữa lỗi lầm của người phạm tội, là cơ sở để giảm nhẹ hình phạt
(TNHS) pháp lý của người phạm tội so với mức hình phạt mà người phạm tội
phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.Nếu một tình tiết xuất hiện
trong sự việc hình sự, nhưng mang ý nghĩa định tội, định khung tội danh và
không có giá trị trong việc giảm nhẹ TNHS cho người phạm tội thì không
được xác định là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS theo BLHS hiện hành hay các bộ luật trước
đây không đưa ra khái niệmgiảm nhẹ TNHS. Trong khoa học pháp lý nước ta,
khái niệm về tình tiết giảm nhẹ cũng chưa thật thống nhất. Tuy nhiên, đa số ý
kiến cho rằng, trường hợp giảm nhẹ TNHS là trường hợp được quy định trong
BLHS với tính chất là trường hợp giảm nhẹ chung hoặc là trường hợp được
ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem
xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp và hoàn
cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết
giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án và hình phạt đối với người phạm tội
7


theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt.Quan niệm trên
chưa cho thấy hết được bản chất, nội dung của trường hợp giảm nhẹ TNHS cụ
thể mà mới chỉ nêu đặc trưng pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ TNHS, thể
hiện tính khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội.Điều đó,
thể hiện ngay ở một trong những bộ luật quan trọng thuộc pháp luật cổ Việt
Nam là Quốc triều hình luật qua nguyên tắc “chiếu cố” được thể hiện ở một
số loại người được chiếu cố và nội dung chiếu cố.Tuy khái niệm về tình tiết
giảm nhẹ hình phạt chưa có, nhưng nguyên tắc, đối tượng cho tình tiết giảm
nhẹ hình phạt được thông qua các đặc điểm áp dụng nhất định.Nhìn chung sự
giảm nhẹ tội danh hình sự, được luật cổ Việt Nam áp dụng thông qua tuổi
người già và trẻ em.Vì vậy, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những dấu hiệu
khách quan và chủ quan của hành vi phạm tội, không nằm trong cấu thành tội

phạm nhưng những tình tiết này là một trong những căn cứ để Tòa án cân
nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt đối với tội phạm nhằm phản ánh chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
Dưới góc độ nghiên cứu của cá nhân, về bản chất, trường hợp giảm nhẹ
TNHS là những biểu hiện về các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống có ảnh
hưởng đến việc thực hiện tội phạm, qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn
của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội có thể chịu TNHS ở
khung hình phạt thấp hơn quy định.Theo tiếng anh “tình tiết giảm nhẹTNHS”
có nghĩa là “extenuating circumstances: describes any reason or excuse that
someone gives to request that their actions be forgiven” với nghĩa giảm nhẹ
các tình huống nghiêm trọng, mô tả bất kỳ lý do hoặc lý do nào mà ai đó đưa
ra để yêu cầu hành động sai phạm của họ được tha thứ, hay được hiểu là
những tình tiết làm cho các trường hợp phạm tội cụ thể của tội phạm giảm
mức độ nguy hiểm, giảm hình phạt trong phạm vi một khung hình phạt nhất
định so với những trường hợp phạm tội bình thường [22, tr.54].

8


1.1.2. Bản chất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ không chỉ là sự cụ thể hóa nguyên
tắc nhân đạo, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự mà còn thể
hiện được nội dung nguyên tắc cá thể hóa hình phạt – nguyên tắc đặc thù của
luật hình sự. Trên thực tế các nhà làm luật không quy định được các tình tiết
giảm nhẹ TNHS có ảnh hưởng đến mức độ nào đối với việc quyết định hình
phạt, mà đưa các tình tiết này vào phần chung của luật hình sự nhằm khi áp
dụng các tình huống cụ thể, vụ án cụ thể, Tòa án phải tự xác định, phán quyết
theo ý chí, tình hình thực tế của vụ án, nên các tình tiết này chỉ là căn cứ
quyết định hình phạt.
Mà khi là căn cứ quyết định hình phạt, thì các tình tiết này có 3 nhóm

bản chất sau:
Một là, ảnh hướng của tình tiết đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội ấy, ví dụ: Chưa gây thiệt hại, hoặc gây thiệt hại không lớn về
tài sản, tính mạng…. Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội
phạm.Mức độ giảm nhẹ này phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội
đối với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt thiệt hại (có tích cực, tự nguyện
không…) và thực tế tác hại đã được ngăn chặn như thế nào. Người phạm tội tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả: người phạm tội tự
nguyện hạn chế hậu quả của tội phạm một cách tự nguyện, không có sự đòi hỏi.
Biểu hiện như: sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài
sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả. Mức độ
giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội
cũng như mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.
Một số trường hợp khác cũng được cho là căn cứ giảm nhẹ TNHS khi
phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: trường hợp
này có nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của người phạm tội; do

9


hậu quả của tội phạm cũng là yếu tố quyết định mức nguy hiểm cho xã hội
nên luật hình sự coi trường hợp này mà một trong số các căn cứ để giảm nhẹ
TNHS.
Trường hợp các tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến
mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội, là trường hợp lần đầu tiên
phạm tội nhưng phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nếu là tội phạm
nghiêm trọng thì phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.Mức độ giảm nhẹ
trong trường hợp này phụ thuộc vào mức độ ít nghiêm trọng của hành vi
phạm tội.
Trường hợp tình tiết ảnh hưởng đến mức độ lỗi, ví dụ: Phạm tội trong

trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; hoặc Phạm tội trong
trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; hoặc Phạm tội trong
trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị
hại hoặc người khác gây ra: người phạm tội thực hiện tội phạm khi không làm
chủ về tình cảm do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác tác
động.Mức độ giảm nhẹ trong từng trường hợp phụ thuộc vào tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi tác động, mức độ kích động và mức độ phản ứng
của người bị kích động.
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây
ra: người phạm tội thực hiện tội phạm do chịu sự tác động, chi phối bởi hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại. Đó phải là hoàn cảnh khó khăn
hơn nhiều so với mức bình thường; có thể lấy ví dụ như: Thiên tai, dịch bệnh,
hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác. Mức độ giảm nhẹ
TNHS trong tình tiết này phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng
tìm cách khắc phục của người phạm tội.
Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức: Trong trường hợp này
người phạm tội do bị đe dọa, cưỡng bức nên không hoàn toàn tự do lựa chọn,

10


điều khiển hành vi của mình và bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của
người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức.Đe dọa trong trường hợp này được
hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như gây thương tích hoặc gây thiệt hại về tài
sản, hủy hoại tài sản, nếu người bị đe dọa không thực hiện theo yêu cầu.
Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần của người khác để họ
buộc phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập, giam giữ
người bị cưỡng bức… Mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào
mức độ bị đe dọa hoặc cưỡng bức.
Phạm tội do lạc hậu: Do trình độ nhận thức lạc hậu, thấp kém đã hạn

chế nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mức giảm nhẹ trong
trường hợp này phụ thuộc vào mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nơi tội phạm sinh sống.
Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình: Người phạm tội do có bệnh làm khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi bị hạn chế nên đã không nhận thức
được đầy đủ tính nguy hiểm hoặc có thể nhận thức được tính nguy hiểm
nhưng lại hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc
vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc mức độ hạn chế điều khiển
hành vi của người phạm tội.
Hai là, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội như:
Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội tự thú,
người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải …
Trường hợp người phạm tội tự thú: người phạm tội chưa bị phát hiện
nhưng đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo hành vi phạm
tội của mình.
Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: người phạm tội
đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội của

11


mình (thành khẩn khai báo); người phạm tội đã day dứt, hối hận về tội phạm
đã thực hiện và thể hiện mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động, tham gia các hoạt động cộng
đồng.Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện,
điều tra tội phạm: người phạm tội cung cấp bằng chứng, tài liệu, tin tức cho
cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để
điều tra tội phạm mà họ tham gia hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội
khác mà họ biết. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào hiệu quả của hành vi của

người phạm tội vì sự giúp đỡ các cơ quan.
Người phạm tội đã lập công chuộc tội: đây là trường hợp mà người
phạm tội đã có thành tích đột xuất tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu
hỏa, chống bão, lũ lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng; việc lập công này phần nào đã chứng minh sự ăn năn, hối cải
lỗi lầm của họ. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất,
chiến đấu, học tập hoặc công tác: những biểu hiện có thể thấy như người
phạm tội được tặng thưởng huân, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng
khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều
năm được công nhận là chiến sĩ thi đua…
Ba là, phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội, do đó, đòi hỏi
Tòa án phải xem xét, điều tra kỹ lưỡng, đưa ra quyết định sáng suốt để đảm
bảo hình phạt tuyên bố đảm bảo tình hình thực tế, phù hợp với nguyên tắc của
luật hình sự, chính sách của Nhà nước, cũng như đáp ứng được mục đích
trừng trị, giáo dục người phạm tội: Như người phụ nữ có thai hoặc nuôi con
nhỏ (không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.Không thi
hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân; Người

12


phạm tội là phụ nữ có thai là một tình tiết giảm nhẹ TNHS; Phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến
khi con đủ 36 tháng tuổi…), người phạm tội là người già, người phạm tội có
thành tích trong sản xuất, chiến đấu, có công với cách mạng, học tập và công
tác…Người phạm tội là phụ nữ có thai: người phụ nữ phạm tội trong thời gian
mang thai, đây là thời điểm người phụ nữ có nhiều thay đổi về tâm- sinh lý và
sức khỏe. Vì chính sách nhân đạo đối với bà mẹ và trẻ em nên người phụ nữ

mang thai phạm tội sẽ bị xử lý nhẹ hơn người bình thường.
Ngoài ra, bản chất “tình tiết giảm nhẹ TNHS” xét trong toàn bộ cấu
trúc của BLHS thì các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo cấu trúc của cặp phạm
trù “nặng – nhẹ”.Xét theo các dấu hiệu cấu thành tội phạm, thì quy định về
các tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể thuộc: Dấu hiệu chủ thể như: Người già,
phụ nữ…; dấu hiệu về mặt khách quan như: Hành vi phạm tội, hậu quả, hoàn
cảnh phạm tội…; dấu hiệu về mặt chủ quan như: Động cơ, thủ đoạn…; dấu
hiệu khách thể như: Mức độ thiệt hại, bồi thường…Cụ thể: Có thể hiểu là
những biểu hiện tích cực cho đời sống xã hội của người phạm tội hoặc vì
ngoại cảnh tác động mà thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.3. Đặc điểm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Những tình tiết giảm nhẹ TNHS đã là yếu tố định tội hoặc định khung
hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS.Một phần do tính
nguy hiểm cho xã hội cho tình tiết đó, do đó đặc điểm các tình tiết giảm nhẹ
TNHS là không quy định trùng lặp trong định tội, định khung. Bên cạnh đó,
chủ thể áp dụng pháp luật tìm ra những biểu hiện tích cực cho đời sống xã hội
của người phạm tội khi áp dụng hình phạt “Khi quyết định hình phạt, Tòa án
có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi vào
trong bản án” (khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015).Vì vậy, căn cứ vào quy
định của pháp luật, có thể nhận thấy tình tiết giảm nhẹ TNHS có những đặc

13


điểm sau:
Một là, những tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được quy định với tính cách
là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt của một số tội phạm cụ
thể thì trong quá trình xét xử, Tòa án không được xem xét nó như là tình tiết
giảm nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 51 BLHS.Nghĩa là một tình
tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cũng không thể được áp

dụng hai lần cho một trường hợp phạm tội cụ thể.
Hai là, tình tiết giảm nhẹ TNHS chỉ là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem
xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội.
Ba là, pháp luật hiện nay không quy định cụ thể sự hiện diện của tình
tiết giảm nhẹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt, sự hiện
hữu của tình tiết nào thì được giảm trách nhiệm hình đến đâu, điều đó phụ
thuộc vào sự xem xét và cân nhắc của Tòa án.
Bốn là, các tình tiết giảm nhẹ TNHS không cụ thể, rõ ràng, mà nó chỉ là
sự việc nhỏ xuất hiện trong quá trình xét xử, điều tra, truy tố, cho nên ngoài
Khoản 1 Điều 51 BLHS và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị
quyết số 01/2000/NQ- HĐTP, thì trong quá trình xét xử từng vụ án cụ thể,
Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.
Năm là, mức độ ảnh hưởng của mỗi tình tiết giảm nhẹ TNHS đến việc
quyết định hình phạt cuả Tòa án là không giống nhau, không phải lúc nào
cũng như án lệ, tình tiết đó, sự kiện giống vậy là khung hình phạt giống nhau.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng
đều nhau, có tình tiết ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt và đối
với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết lại ảnh hưởng ít hơn. Không
những thế, cùng một tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng có mức độ ảnh hưởng
khác nhau đối với những tội khác nhau.Ví dụ: Tình tiết "Phạm tội vì hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra" có ý nghĩa lớn đối

14


với trường hợp tội phạm là người phạm tội trộm cắp tài sản nhưng lại không
có nhiều ý nghĩa trong trường hợp phạm tội giết người.
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự
Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể tác động đến việc

định khung, hoặc quyết định hình phạt của vụ án. Nó là các tiêu chí cụ thể hóa
bản chất truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, đường lối, chính sách khoan
hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, tạo điều kiện để họ ăn
năn, hối cải, tái hòa nhập cuộc sống cộng đồng. Vấn đề đặt ra là hiệu quả của
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với đời sống xã hội như thế nào?
Những người được hưởng một trong các chính sách khoan hồng bằng cách
giảm nhẹ mức án so với thực tế sẽ ứng xử sao với xã hội, rút ra bài học kinh
nghiệm gì? Mức án do Tòa án quyết định đó có phù hợp, thỏa mãn với các
bên có liên quan trong vụ án? Có đem lại tiếng nói chung cho phản ứng của
cộng đồng? Tính nhân văn của áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS nhất
thiết phải đi đôi với hiệu quả răn đe, nhằm bảo đảm kỷ cương nghiêm minh
của pháp luật. . .
Do đó, các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa lớn cả về mặt xã hội
cũng như pháp lý…, nên thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng
cao hiệu quả vận dụng chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS” [15, tr.57]. Khi
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định giúp Nhà nước xác định một
cách khách quan, công bằng hơn hành vi phạm tội, nhân thân, hoàn cảnh và
thái độ của người phạm tội, kiểm chứng việc thực hiện nguyên tắc nhân đạo
trong PLHS, để thực hiện đúng đắn mục đích của hình phạt là không chỉ trừng
trị người phạm tội mà còn giáo dục họ hướng thiện và có tác dụng phòng
ngừa tội phạm trong cộng đồng dân cư. Ngoài ra, áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ sẽ cân bằng được giữa một bên là thái độ của Nhà nước (cưỡng chế hình

15


sự) đối với tội phạm (nghiêm khắc nghiêm trị), một bên là quyền và lợi ích
của công dân và xã hội có liên quan; hay nói cách khác là cân bằng giữa mục
đích trừng trị tội phạm với mục đích giáo dục người phạm tội [19, tr.62]. Nó
còn giảm thiểu hoặc tránh được sự lạm quyền của cơ quan có thẩm quyền

trong việc thực hiện quyền lực công khi tiến hành tố tụng hình sự TNHS [19,
tr.12].
Về mặt pháp lý khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS tác động đến
việc cân nhắc quyết định hình phạt của Tòa án, là công cụ đắc lực để Tòa án
coi là cơ sở của quyết định hình phạt [8, tr.22]. Tình tiết giảm nhẹ là một
trong những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án do cơ quan tiến hành tố
tụng đảm trách. Nó bị chi phối đến một số thủ tục tố tụng hình sự, cụ thể:
Thứ nhất, áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự: Đó là biện
pháp ngăn chặn tạm giam quy định tại Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015.
Theo đó, không áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với bị can, bị cáo là phụ
nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người bị bệnh nặng, trừ
trường hợp đặc biệt. Quy định này phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ ở
trường hợp người phạm tội là phụ nữ có thai, hoặc người mắc bệnh nặng bị
hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi quy định tại khoản 1 Điều
51 BLHS.
Thứ hai, xem xét quyết định các loại hình phạt trong khi hội đồng xét
xử nghị án, đó là ngoài các yếu tố khác phải xem xét, hội đồng xét xử phải
cân nhắc đến tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để áp đặt mức độ, tần suất
của hình phạt chính và hình phạt bổ sung:
Thứ ba, xem xét miễn hình phạt theo mong muốn của người phạm
tội: Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp được
hạikhung hình phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS mà đáng
được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS.

16


Thứ tư, xét xử xem xét miễn TNHS cho người phạm tội là người dưới
18 tuổi: Như vậy, khi xem xét miễn TNHS cho người phạm tội dưới 18 tuổi
thì tùy tội phạm cụ thể, họ có thể được miễn TNHS, nhưng họ phải có nhiều

tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS, trong đó tình tiết giảm nhẹ bắt
buộc là tự nguyện khắc phục hậu quả (khắc phục phần lớn) - đó là điều kiện
tiên quyết.
Trên thực tế, còn có trường hợp Tòa án tùy nghi, dễ dãi trong việc áp
dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, trong việc quyết định mức án
nặng, nhẹ không công bằng, thiếu nhất quán. Nguyên nhân đó là do BLHS
năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định nhiều tình tiết giảm
nhẹ chưa hợp lý, cũng như cho phép Tòa án tùy nghi lựa chọn áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ quá mức cần thiết. Những bất cập về mặt quy phạm đó vẫn
chưa được BLHS năm 2015 khắc phục.
Tóm lại việc áp dụng của các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa pháp
lý rất quan trọng trong xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hội
An, mang ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xét xử trong cả nước nói
chung và hoạt động xét xử của Tòa án thành phố Hội An nói riêng. Đề cao
tinh thần thượng tôn pháp luật, chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng và
Nhà nước, tính công bằng, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Hội
An. Đồng thời thể hiện kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật của các Thẩm
phán tại TAND thành phố Hội An, kiểm sát viên tại Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Hội An được hoàn thiện, nhờ vào chính sách tuyên truyền, tổ chức
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên của Đảng và Nhà nước đưa ra.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Quy định của pháp luật Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự qua các giai đoạn thời kỳ từ khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, tình

17


tiết giảm nhẹ TNHS đã được đề cập ở quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS thời
kỳ phong kiến với mục đích phản ánh những đặc trưng về “Chính trị”, “Tư

tưởng” của thời kỳ phong kiến [17, tr.8]. Cụ thể là Luật hình sự, điển hành là
các bộ luật như: Bộ Hình Thư (thời vua Lý Thái Tông); Bộ Hình luật thư
(Thời vua Trần Dụ Tông); Bộ Quốc triều hình luật (Triều Lê); Bộ Hoàng Việt
luật lệ (Nhà Nguyễn)... [4, tr.1]. Hầu hết mọi điều khoản trong các bộ luật cổ
điều được chế tài về phương diện hình sự. Do vậy, trong các bộ luật cổ này
cũng có nhiều quy định về các tình tiết giảm nhẹ tội. Đặc biệt với khía cạnh
nhân thân của con người được xem xét làm tiêu chí để giảm nhẹ tội. Các tình
tiết giảm nhẹ TNHS thời kỳ phong kiến Việt Nam khá đa dạng phản ảnh chủ
yếu đặc điểm về nhân thân người phạm tội căn cứ vào địa vị xã hội, quan hệ
giai đình, độ tuổi...
Quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS thời kỳ Pháp thuộc mang tính chất
thực dân – phong kiến do xã hội được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tư tưởng
pháp lý phương Tây với ba bộ luật hình [13, tr.20-24]: Hình luật Bắc phần,
Hình luật Trung phần, Hình luật Canh cả. Những quy định của pháp luật
phong kiến mà trái với tư tưởng pháp lý tư sản phương Tây điều bị loài bỏ
(chế định Bát nghị, các hình phạt mang tính hà khắc, tráich nhiệm tập thể...).
Tuy nhiên, các quy định nào thể hiện đặc thù của xã hội Việt Nam mà không
trái với tư tưởng pháp lý phương Tây thì vẫn tiếp tục được duy trì (tính nhân
đạo, trật tự giai đình... ). Do vậy, một số tình tiết giảm nhẹ TNHS từ thời
phong kiến vẫn được duy trì trong giai đoạn này như: Tình tiết giảm nhẹ vì có
quan hệ giai đình như việc trộm cắp, lừa gạt, sang đoạt giữa vợ chồng hoặc
những người có quan hệ giai đình như tôn thuộc, ty thuộc (Điều 380 Hình luật
Canh cả; Điều 260 Hình luật Trung phần); Điều 355 Hình luật Bắc phần)...
Nhưng, nhìn chung những tình tiết giảm nhẹ tạ thời kỳ này là nền tảng
xây dựng viì có tương tự như các tình tiết giảm nhẹ THNS được quy định

18



×