VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ MINH CẢNH
HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – Năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ MINH CẢNH
HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
: 838.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI – năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Minh Cảnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................ 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................................ 7
1.2. Cơ sở và các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ......................................................... 12
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN
TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN TUY AN, TỈNH
PHÚ YÊN ....................................................................................................... 24
2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ...................................................................... 24
2.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ...................................... 30
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI HUYỆN TUY AN,
TỈNH PHÚ YÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ................. 51
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản
pháp luật khác liên quan .................................................................................. 51
3.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ......................................... 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV
: Điều tra viên
HĐXX
: Hội đồng xét xử
KSV
: Kiểm sát viên
STVAHS
: Sơ thẩm vụ án hình sự
THQCT
: Thực hành quyền công tố
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
TAND
: Toà án nhân dân
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện
bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ
của tố tụng hình sự. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
là một trong những nội dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động tố
tụng hình sự, nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng và công khai giữa những
người tham gia tố tụng và kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
tòa, là căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án, là cơ sở để Hội đồng
xét xử ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong hoạt động xét xử thì tranh tụng chiếm vị trí rất quan trọng. Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những quan
điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, trong đó có nêu: “…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại
phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa, và những
người tham gia tố tụng khác..., việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, Bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản
án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật
quy định…” [7, tr.3]. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tranh tụng” được chính thức
ghi nhận và là điểm nhấn trong tiến trình cải cách tư pháp, tạo sự đổi mới về
“chất” của công tác xét xử, góp phần nâng cao tính công bằng, khách quan và
đúng pháp luật cho các phán quyết của Toà án.
Trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” đã đề ra: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, coi
1
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” [8, tr.5]. Rõ ràng các Nghị
quyết của Bộ Chính trị đã xác định tranh tụng tại phiên toà là rất quan trọng,
quyết định và phải khẩn trương nâng cao chất lượng tranh tụng.
Chủ trương mở rộng, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà
là chủ trương đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công
việc của các cơ quan tư pháp. Thực tiễn tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự nói chung và Tòa án nhân dân huyện Tuy An nói riêng cho thấy
tranh tụng tại phiên toà còn mang tính hình thức. Tranh tụng tại phiên toà
hình như được hiểu là chỉ bó gọn trong phần tranh luận và ngay trong phần
tranh luận này, chất lượng tranh tụng của các phiên toà cũng không đồng đều,
có phiên toà thực hiện tranh tụng tốt, nhưng cũng có nhiều phiên toà tranh
tụng còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu là các bản án, phán quyết của
Toà án phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà như tinh thần
Nghị quyết 08-NQ/TW đã nêu. Từ thực trạng trên đặt ra việc tiếp tục nghiên
cứu những vấn đề về tranh tụng trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay nhằm
đề xuất một số giải phù hợp với thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự nói
chung và phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của huyện Tuy An nói riêng là hết
sức cần thiết.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh
Phú Yên” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW
của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới”, đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến
tranh tụng. Các công trình đó tập trung giải quyết các vấn đề như: khái niệm
2
tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, so sánh để làm rõ ưu điểm, hạn chế của hai
hệ thống tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trên thế giới, việc vận dụng
tranh tụng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam…
Trong đó, đáng chú ý như:
Đề tài khoa học cấp bộ “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2005;
Đề tài khoa học cấp bộ “Tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh
thần cải cách tư pháp”, Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2008. Hai đề tài đã
bàn những vấn đề cơ bản về hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng thẩm vấn và đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng theo tinh
thần cải cách tư pháp.
Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến tranh tụng tại phiên toà”, Toà án nhân
dân tối cao, năm 2007 bàn về khái niệm tranh tụng, thực trạng của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa và một số giải pháp nâng cao chất lượng tại phiên tòa
xét xử hình sự.
Một số luận văn Thạc sỹ, như: “Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn
Tiến Long, năm 2005; “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang”, Bùi Trí
Dũng, năm 2008; “Chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử hình sự sơ
thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá hiện nay”,
Mai Thị Nam, năm 2008 bàn về một số vấn đề liên quan đến hoạt động
tranh tụng của KSV; “Tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ
thực tiễn TAND quận Hoàng Mai, Hà Nội”, Đặng Hoàng Tú, 2015; “Hoạt động
tranh tụng của KSV Viện kiểm sát viên nhân dân tỉnh Quãng Ngãi tại phiên tòa
xét xử hình sự sơ thẩm”, Võ Thị Hồng Luyến, năm 2010.
3
Ngoài ra, có một số bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp
chí chuyên ngành như tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí
Luật học, tạp chí Nhà nước và pháp luật viết về những vấn đề liên quan đến
tranh tụng như: Mô hình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, tranh tụng tại
phiên tòa… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về hoạt
động tranh tụng của Kiểm sát viên, cũng như chưa có công trình nào
nghiên cứu về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về tranh tụng và đánh giá thực trạng hoạt
động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân huyện Tuy An tại
phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao
hiệu quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, hướng tới xây dựng một
phiên tòa thực sự bình đẳng, dân chủ, công bằng, góp phần thực hiện quá
trình cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự;
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ
2015 đến 2019;
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Tuy An, Phú Yên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về hoạt
động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại
phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu hoạt động tranh tụng ở các VKS địa
phương khác, cũng như không đề cập đến tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng
dân sự, trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm và hoạt động
tranh tụng trong các cơ quan tư pháp quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp
luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Phương pháp cụ thể được áp dụng là: Phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn, tổng kết để làm sáng tỏ các nội dung
nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ
sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn đánh giá, nâng
cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự.
5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án
hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
chữ cái viết tắt, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành tại huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên
Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động tranh tụng của kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm
Tranh tụng hiểu theo nghĩa cơ bản nhất theo Từ điển tiếng Việt thì
chính là sự kiện cáo nhau [47, tr.1654]. Đó là tranh luận giữa hai bên có lập
trường tương phản nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử . Tuy nhiên,
đây là cách hiểu thông thường, và ở khía cạnh này, thuật ngữ tranh tụng được
dùng để nói chung trong tất các các hình thức tố tụng như: dân sự, hình sự,
hành chính… [50, tr.10]. Tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có
nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa
hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà người đứng
ra phân xử trong cuộc tranh đấu này chính là Tòa án [50, tr.11].
Xét về mặt lịch sử, tranh tụng hình sự là một nội dung cụ thể của nền
tư pháp tranh tụng hình thành từ thời cổ đại mà tư tưởng của nó bắt nguồn từ
nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp là Plato [53, tr.9]. Ông cho rằng
“Bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài,
một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện, và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự
thật” [53, tr.9]. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát
triển và xây dựng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà
nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã
và các quốc gia khác ở Châu Âu, với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [16,
tr.3]. Như vậy, vấn đề tranh tụng đã được đề cập từ rất lâu trong lịch sử tư
pháp, bản chất của nó là hoạt động đối đáp liên tục giữa các bên có lợi ích đối
7
kháng nhau trước người trọng tài đóng vai trò phân xử để đi tìm chân lý.
Bên cạnh đó, xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng được hiểu
theo ba nội dụng khác nhau: thứ nhất được hiểu là một mô hình tố tụng; thứ
hai được hiểu là một nguyên tắc thuộc tố tụng hình sự; thứ ba được hiểu là
phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau và
có quyền ngang nhau trong tố tụng hình sự hay còn gọi là hoạt động tranh
tụng [49, tr.21]. Dù hiểu theo nghĩa nào thì tranh tụng luôn có bản chất là
cách thức đi tìm sự thật khách quan của vụ án mà hoạt động tố tụng hình sự
luôn muốn hướng tới. Theo nhiều luật gia, phương thức tranh tụng là phương
thức có ưu điểm nhất trong việc vừa có thể tìm ra sự thật khách quan của vụ
án vừa có thể bảo vệ hữu hiệu quyền con người của người buộc tội và chống
oan sai, có thể hiểu: “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của
mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía
bên kia” [45, tr.8].
Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc
tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc
thực hiện quá trình tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định của pháp
luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm
ra sự thật khách quan của vụ án [45, tr.8]. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng
hình sự thực chất là quá trình vận động tác động qua lại giữa hai chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa [38, tr.9].
Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này được tạo điều kiện “bình đẳng”
với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự [38, tr.9].
Nguyên tắc này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới không chỉ ở
những nước có mô hình tố tụng tranh tụng mà còn ở những nước có mô hình
8
tố tụng pha trộn (ví dụ như ở Việt Nam) [38, tr.9]. Tuy có sự thể hiện ở các
mức độ khác nhau, mặc dù có thể được thể hiện hoặc chưa thể hiện trong văn
bản pháp luật cụ thể là BLTTHS thì nguyên tắc tranh tụng vẫn đang là cơ sở
định hướng cho việc xây dựng quy định của BLTTHS cũng như thực hiện quá
trình giải quyết vụ án để tìm ra sự thật khách quan.
Mặc dù đã xuất hiện và được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử tư pháp
ở các nước phát triển khác, nhưng vấn đề tranh tụng cũng như nguyên tắc
tranh tụng rất ít được nghiên cứu ở Việt Nam và đặc biệt cho đến trước năm
2013 thì nó chưa được thừa nhận trong các văn bản pháp lý chính thức của
Nhà nước [50, tr.12]. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu tiên về tranh tụng ở
Việt Nam trong các văn bản chính thức của Đảng đó chính là Nghị quyết
08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định“…việc phán quyết của
tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào
chữa, bị cáo …để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết
phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [50, tr.13]. Tiếp theo đó, vấn đề
tranh tụng tiếp tục được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thể hiện, theo đó:
“Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh
tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan
tư pháp” [50, tr.13]. Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh
tụng tiếp tục được thể chế hóa ở Hiến Pháp 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy
định” nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” [50, tr.11]. Nguyên
tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa tại Điều 26 và
Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: “Bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa
9
ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về
những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây
ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật
chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết
khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố
tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra
chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử
phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn
diện sự thật của vụ án” [36, tr.274].
Từ đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm Hoạt động tranh tụng của KSV
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự" đó là, quá trình tác động qua lại bằng việc
tranh luận, đối đáp giữa KSV với các chủ thể khác từ khi khai mạc phiên tòa
cho đến khi kết thúc phần tranh luận nhằm làm sáng rõ sự thật khách quan,
làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án, bảo vệ quan điểm của VKS trong Cáo
trạng, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm
Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
(STVAHS) là một hoạt động đặc biệt, thể hiện ở một số đặc điểm sau đây:
- Khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV là một chủ thể
tranh luận đặc biệt. Bởi vì KSV tranh luận với tư cách nhân danh công
quyền, đưa ra sự cáo buộc công khai đối với Bị cáo về hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị coi là tội phạm, nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân bị xâm hại, bảo vệ pháp chế và kỷ cương xã hội. Trong
10
khi đó, Bị cáo, Người bào chữa, Bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự,
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Người đại diện hợp pháp và
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tranh luận với tư
cách là cá nhân công dân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân họ hoặc người họ đại diện mà thôi.
Sự đặc biệt còn thể hiện ở chỗ sự bắt buộc có mặt tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự của KSV. Theo quy định của BLTTHS thì tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự có mặt của những người tham gia tố tụng là không bắt buộc
100%, trong nhiều trường hợp tuy họ vắng mặt nhưng phiên tòa vẫn được tiến
hành xét xử. Nhưng sự có mặt của KSV là bắt buộc, nếu KSV vắng mặt thì
trong mọi trường hợp phải hoãn phiên tòa.
-Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV không chỉ là chủ thể tranh
tụng mà còn là chủ thể kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa. Nhiệm vụ này xuất phát từ chức năng THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKSND. Những chủ thể tranh tụng khác như Bị cáo,
Người bào chữa, Người bị hại… là đối tượng của hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật tại phiên tòa. KSV tiến hành kiểm sát việc tranh tụng theo
các nội dung như: tư cách chủ thể, trình tự, nội dung và phạm vi tranh tụng
theo quy định của BLTTHS. Như vậy, khi tranh tụng tại phiên tòa, KSV là
người áp dụng và tuân thủ pháp luật, đồng thời giám sát việc tuân thủ pháp
luật của các chủ thể khác.
- Phải tôn trọng sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình đối đáp
tranh luận, Kiểm sát viên không nên tranh luận theo ý thức chủ quan của
mình, mà phải dựa trên cơ sở, tình tiết, chứng cứ khách quan của vụ án đã
được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở căn cứ quy định của pháp luật để đưa
ra quan điểm tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác.
11
- Phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa KSV với người tham gia tố tụng.
HĐXX phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý
kiến của mình [50, tr.14]. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách
quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng
đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không có căn cứ pháp luật [50, tr.14].
- Quá trình tranh tụng phải đề cao và tôn trọng nguyên tắc “thượng tôn
pháp luật”. Khi đối đáp tranh luận, đòi hỏi các bên phải căn cứ trên cơ sơ pháp
luật. Nhất là đối với Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, cũng là cơ quan bảo vệ pháp luật; bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của công dân, đảm bảo việc xử lý phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để oan, sai thì càng đòi hỏi việc tranh luận phải
trên cơ sở các quy định của pháp luật. Tuyêt đối không được tranh luận theo
kiểu nể nang hay vì động cơ cá nhân khác mà suy diễn, áp đặt ý thức chủ quan
của mình khi đối đáp tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa.
- Đảm bảo tính văn hóa trong đối đáp tranh luận. Kiểm sát viên khi
tranh luận sử dụng những ngôn từ có tính văn hóa, dễ hiểu. Nghĩa là phương
pháp đối đáp phải nhẹ nhàng, lịch sự, có sức thuyết phục cao đối với người
nghe. Không nên sử dụng ngôn từ mang tính đả kích, tự cao, xem thường
người phát biểu tranh luận với mình, hay có thái độ cau có, gay gắt, quát
nạt… Không được lợi dụng việc tranh luận để đã kích, cải vã tay đôi tại phiên
tòa, làm ảnh hưởng đến vị thế của Kiểm sát viên và của Ngành.
1.2. Cơ sở và các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, về cơ sở lý luận
Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là
12
một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình
sự, là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa
người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án
và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005,
Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trọng của
tranh tụng trong xét xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng
tâm của cải cách tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp [8, tr.5].
Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể
chế hóa ở Hiến pháp 2013 [50, tr.15]. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy
định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [50, tr.15]. Như
vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành
một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và
phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta [50, tr.15].
“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được quy định tại Điều 26 Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và cụ thể hóa tại Điều 322
BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố
tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của
mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng
cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo
trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức
hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên
nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị
cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị
13
của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp
đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại
phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án” [36, tr.274].
Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng hoạt
động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự; các qui định của Bộ
luật TTHS và qui định của Hiến pháp 2013, chúng tôi nhận thấy khái niệm
tranh tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về
cải cách tư pháp, gần đây được Hiến pháp qui định. Tranh tụng được hiểu với
nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của
KSV và những người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự, cụ thể là tại
phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự. Trong đó, KSV và người tham gia tố tụng
dựa trên các tài liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy
logic hình thức để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ
sự thật khách quan của vụ án [50, tr.16].
Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn
dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức; dưới góc độ pháp lý, bản chất của tranh
tụng gồm có các nội dung cơ bản sau đây [50, tr.16]:
- Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng
phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS [39, tr.5].
- Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tố
tụng khác; các chủ thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng
bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm
về giải quyết vụ án; Kiểm sát viên có thể tranh tụng với người bào chữa, với
bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật
khách quan của đối tượng tranh tụng [50, tr.19].
14
- Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ
toạ phiên toà; Chủ tọa phiên toà có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh
tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp
tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần thiết làm rõ các
vấn đề của vụ án [50, tr.20].
- Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan
của vụ án; sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã diễn ra trên thực
tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý (dưói góc độ đánh giá
trên cơ sở pháp luật hình sự và TTHS) [50, tr.20].
- Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận
chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án [53, tr.7].
- Cách thức tranh tụng là các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng
cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại
phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện hành để làm rõ các đối tượng tranh
tụng [29].
Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức; bản chất
của tranh tụng có các nội dung sau [50, tr.14]:
+ Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên
tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định
quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên
tranh tụng đối lập [50, tr.14].
+ Tranh tụng không chỉ là quyền, là trách nhiệm của các bên tham gia
tranh tụng mà còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Nói cách
khác, tranh tụng không chỉ là phương tiện để đạt được sự thật khách quan mà
tranh tụng còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Chân lý về vụ
án phải tìm thấy, có được thông qua tranh tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của
tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ
15
chứng cứ để khẳng định lời nhận tội của bị cáo là có cơ sở, tại phiên toà
không có những quan điểm xung đột thì không phát sinh tranh tụng hoặc nếu
có thì chỉ ở mức độ nhất định [50, tr.14].
* Nguyên tắc tranh tụng
Nguyên tắc là tư tưởng có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở cho những
thiết chế và hoạt động. Nguyên tắc trong một quan hệ pháp luật tố tụng là
những tư tưởng pháp lý làm nền tảng, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi
pháp luật trong lĩnh vực tố tụng đó [50, tr.14].
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng
được ghi nhận là một nguyên tắc [50, tr.15]. Nội hàm của nguyên tắc tranh
tụng có các nội dung cơ bản sau:
+Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa KSV với những người
tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử [50,
tr.15];
+Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng
cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng
trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lần nhau [50, tr.15].
+ KSV và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách
nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh
thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử [50, tr.15].
+Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng
tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận
chứng của các bên tranh tụng [50, tr.15].
+Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định
của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng [50,
tr.15].
16
Với các nội dung trên thì phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng
chủ yếu là tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự; bắt đầu từ khi Toà án mở
phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà và tập trung trong phần tranh luận
của KSV với những người tham gia tố tụng…[50, tr.16]
* Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
[50, tr.10]
KSV là chủ thể chính của tranh tụng. Tranh tụng vừa là quyền, vừa là
trách nhiệm của KSV [50, tr.13]. Mục đích của tranh tụng của KSV có mục
đích trước mắt và mục đích cuối cùng [50, tr.13]. KSV tranh tụng trước hết
nhằm mục đích bảo vệ tính đúng đắn, khách quan, tính hợp pháp và có căn cứ
của quan điểm truy tố (thể hiện trong bản cáo trạng). Nói cách khác, xuất phát
điểm của tranh tụng của KSV với những người tham gia tố tụng khác là nhằm
bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy tố [50, tr.29]. Tranh tụng
của KSV suy cho cùng là nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án (chân lý
về vụ án) [50, tr.29]. Khi tranh tụng, KSV xuất phát điểm là nhằm bảo vệ
quan điểm truy tố, do vậy các luận điểm, luận cứ và luận chứng là nhằm thực
hiện mục đích này. Tuy nhiên thông qua tranh tụng, KSV có thể phát hiện ra
những nội dung bất hợp lý, thiếu căn cứ hoặc không phù hợp pháp luật của
quan điểm truy tố [50, tr.29]. Nếu đủ cơ sở, KSV sẽ xử lý các tình huống phát
sinh nói trên theo qui định của pháp luật TTHS; cụ thể như: Có thể đề nghị
HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung; rút một phần hoặc toàn bộ quyết định
truy tố; chuyển tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi khung khoản truy tố phù hợp
với thẩm quyền xét xử của HĐXX (ở cấp sơ thẩm) [50, tr.30].
Hoạt động tranh tụng của KSV chủ yếu thực hiện tại phiên toà, tập
trung ở giai đoạn tranh luận. Tuy nhiên để tranh tụng tốt thì KSV phải thực
hiện đầy đủ và có chất lượng việc xét hỏi, vì xét hỏi chính là để làm rõ các
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ quan điểm truy tố.
17
Nhìn chung, để đảm bảo tranh tụng có chất lượng tốt thì KSV phải đáp ứng
được các điều kiện bắt buộc để tranh tụng, phải thực hiện tốt nhiều hoạt động
mang tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà, phải có các kỹ năng
nghiệp vụ khi tham gia tranh tụng, có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm và
danh dự nghề nghiệp [50, tr.30].
Cơ sở thực tiễn,
Để thực hiện tốt hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án, nắm chắc các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, am hiểu kỹ
năng nghiệp vụ, vận dụng linh hoạt vào việc xử lý tình huống tại phiên tòa.
Nội dung tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa chủ yếu phụ thuộc vào
nội dung của những ý kiến, quan điểm, đề nghị của bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác đối với quan điểm luận tội của Kiểm sát
viên và đối với việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, thực tiễn tại nhiều phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ở huyện
Tuy An thường xảy ra một số tình huống tranh tụng mà Kiểm sát viên phải xử
lý, đó là:
+ Trường hợp tranh luận đối với bị cáo và người bào chữa
Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo, người bào chữa của bị cáo
thường tranh luận để tự bào chữa hoặc bào chữa, bảo vệ lợi ích của bị cáo
theo những hướng sau đây:
- Hướng thứ nhất: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn
cứ pháp luật để chứng minh bị cáo không phạm tội như Viện kiểm sát đã truy
tố trong bản Cáo trạng.
Để đối đáp, tranh luận lại, Kiểm sát viên phải đưa ra được những chứng
cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa kết hợp với những tài liệu, chứng cứ đã có
trong hồ sơ vụ án và những căn cứ pháp luật nhằm bác bỏ những chứng cứ,
18
căn cứ pháp lý mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra, phải vận dụng kiến thức
pháp lý về cấu thành tội phạm để phân tích, chứng minh bị cáo phạm tội như
Viện kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Để chứng minh bị cáo không phạm tội vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí
(Điều 219 BLHS), người bào chữa đưa ra những chứng cứ chứng minh hành
vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo chỉ gây ra thất thoát
dưới 100 triệu đồng và chưa từng bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Trong
trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra những chứng cứ chứng minh hành
vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo đã gây ra thất thoát về
tài sản (từ 100 triệu đồng trở lên).
- Hướng thứ hai: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn
cứ pháp luật để chứng minh bị cáo phạm tội khác nhẹ hơn hoặc bị cáo phạm
tội như Viện kiểm sát đã truy tố nhưng ở khoản khác nhẹ hơn trong cùng một
điều luật.
Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ tài liệu buộc
tội để kiểm tra, đối chứng ngay tại phiên tòa, nếu cần thiết, Kiểm sát viên có
thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại phần xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội
của bị cáo và những tình tiết của vụ án. Đồng thời vận dụng lý luận về cấu
thành tội phạm, các tình tiết định tội, định khung để phân tích, chứng minh
hành vi phạm tội của bị cáo hội đủ yếu tố cấu thành tội phạm, khoản của điều
luật mà Viện kiểm sát đã truy tố. Mặt khác, phải chứng minh rằng tội danh
hoặc khoản của điều luật mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra có ít nhất một
yếu tố cấu thành không được đáp ứng hoặc không được hiểu chính xác. Ví dụ:
Để chứng minh bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản” như Viện kiểm sát đã
truy tố mà chỉ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, người bào chữa đưa ra chứng
cứ chứng minh bị cáo chỉ đe dọa dùng vũ lực chứ không phải là đe dọa dùng
vũ lực “ngay tức khắc”. Đối đáp lại, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ
19
chứng minh các yếu tố liên quan đến hành vi của bị cáo như thời gian, không
gian, địa điểm xảy ra vụ việc, thái độ, cử chỉ, lời nói của bị cáo khi đe dọa,
tương quan lực lượng, trạng thái tâm lý của người bị hại... để có đủ cơ sở kết
luận hành vi của bị cáo là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị
hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nên đủ yếu tố cấu thành tội
cướp tài sản.
- Hướng thứ ba: Bị cáo, người bào chữa đồng ý với Viện kiểm sát về
tội danh nhưng không thống nhất về cách đánh giá tính chất, mức độ phạm tội
của bị cáo và đưa ra một số tình tiết giảm nhẹ, tình tiết về nhân thân... để được
Hội dồng giảm nhẹ mức hình phạt, xin được hưởng án treo, giảm nhẹ trách
nhiệm bồi thường dân sự... Đối với tình huống này, Kiểm sát viên cần ghi
chép các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết về nhân thân mà người bào chữa nêu
ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật xem tình tiết nào được luật quy
định, tình tiết nào chưa được luật quy định, tình tiết nào đã được Viện kiểm
sát áp dụng để từ đó chấp nhận hay không chấp nhận lời đề nghị của bị cáo,
người bào chữa.
- Hướng thứ tư: Bị cáo, người bào chữa nêu ra một số sai sót về trình
tự, thủ tục trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để đề nghị Hội đồng xét xử
trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Để xử lý tình huống này, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ nội dung đề
nghị của bị cáo, người bào chữa và đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án để xem xét đánh giá những sai sót được nêu ra có chính xác không? Có
thuộc trường hợp phải trả hồ sơ điều tra bổ sung không? Từ đó có quan điểm
chấp nhận hay không chấp nhận.
+ Trường hợp tranh luận đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi
của đương sự [57, tr.8].
20