Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh kiên giang từ nay đến năm 2020 QLNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.75 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Kiên Giang là tỉnh nằm tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, có hơn 60
km biên giới với nước bạn Campuchia và hơn 200 km bờ biển. Mặc dù tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn do điều kiện địa lý phức
tạp và hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhưng những năm qua, thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về giáo dục và đào tạo,
sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh Kiên Giang đã có bước phát triển, tiến bộ
trên nhiều mặt. Ngân sách đầu tư cho giáo dục nhiều hơn; cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ dạy và học được tăng cường. Mạng lưới, quy mô trường lớp tiếp
tục được quy hoạch, mở rộng, tạo cơ hội học tập cho con em nhân dân trong tỉnh,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Chủ trương xã hội hóa giáo
dục được nhân dân đồng thuận, ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân trong và
ngoài tỉnh đóng góp, ủng hộ, đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên được tăng cường về lượng và nâng lên về chất; chất
lượng giáo dục ở những vùng có điều kiện nâng lên khá nhanh, tỷ lệ học sinh giỏi,
học sinh tốt nghiệp phổ thông và trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng
tăng lên hằng năm; mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh tiếp
tục được nâng lên...
Bên cạnh những kết quả, tiến bộ đạt được, sự nghiệp giáo dục và đào tạo
của tỉnh Kiên Giang vẫn còn những hạn chế, bất cập, đó là: Mạng lưới trường
học còn phân tán; hệ thống trường trọng điểm, trường chất lượng cao phát triển
chậm và còn nhiều xã, phường, thị trấn chưa có trường mầm non. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy và học đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu
cầu đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy và học. Đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên vừa thừa, vừa thiếu giữa các ngành học, cấp học, môn học và
giữa các vùng, địa phương trong tỉnh. Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi so với


dân số trong độ tuổi, học sinh mầm non và học sinh tiểu học được học 2
2


buổi/ngày còn thấp; học sinh bỏ học còn cao. Chất lượng giáo dục và đào tạo
thấp so với các tỉnh, thành phố trong khu vực và cả nước. Việc giáo dục đạo đức,
lối sống, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc cho học sinh, sinh viên chưa
được quan tâm đúng mức; giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy
chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề”.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, nhiều sinh viên ra trường không tìm được việc
làm; những biểu hiện tiêu cực trong thi cử, sử dụng bằng cấp, dạy thêm, học
thêm, lạm thu trong trường học vẫn còn.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên chủ yếu là do một số cấp
ủy, chính quyền quán triệt chưa đầy đủ, sâu sắc về những quan điểm của Đảng
về giáo dục và đào tạo nên trong chỉ đạo, điều hành thiếu thường xuyên, sâu sát.
Ngành giáo dục và đào tạo chưa phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền các cấp, nhất là tham mưu đề ra những giải pháp nhằm giải quyết hài hòa
giữa phát triển về quy mô, số lượng với nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập, thiếu tính dự báo
trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực và phát
triển giáo dục và đào tạo; nhiều cơ sở giáo dục thiếu chủ động, sáng tạo trong
khắc phục khó khăn, nâng cao chất lượng giáo dục…
Từ thực tế trên, em chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục - đào tạo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang từ nay đến năm 2020” làm tiểu
luận môn “Quản lý nhà nước trong các linh vực trọng yếu”.

3


CHƯƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI

VỚI GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm giáo dục - đào tạo
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục là hoạt động tác động có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của một người nào đó làm cho người ấy dần dần
có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra; đào tạo là hoạt động
tác động có hệ thống đến người nào đó làm cho người ấy có những năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ theo những tiêu chuẩn nhất định.
Như vậy, giáo dục - đào tạo là hoạt động cung cấp kiến thức và rèn luyện
kỹ năng nhằm hình thành những năng lực và phẩm chất cho người học theo
những tiêu chuẩn nhất định của bậc học, ngành học.
1.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục - đào tạo
Quản lý giáo dục - đào tạo là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục - đào tạo đạt tới kết quả mong
muốn một cách hiệu quả nhất.
Nói cách khác, quản lý giáo dục - đào tạo là chủ thể thực hiện các chức
năng quản lý (lập kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức, kiểm tra, đánh giá) đối với các đối
tượng quản lý (thông tin, kiến thức; cơ sở vật chất - tài chính; đội ngũ cán bộ
ngành giáo dục và người học…) để thực hiện mục tiêu giáo dục - đào tạo.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
Theo cuốn “Quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục và
đào tạo” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo là “Nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ

4


các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà nước”.
Như vậy, quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ

chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục của
nhà nước từ trung ương đến cơ sở để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà
nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, duy trì trật tự, kỷ
cương, thỏa mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu
giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước
(cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) và trực tiếp là các cơ
quan quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở (Bộ Giáo dục - đào
tạo, sở giáo dục - đào tạo, phòng giáo dục - đào tạo, các cơ sở giáo dục - đào
tạo).
Đối tượng quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là hệ thống giáo dục
quốc dân, là mọi hoạt động giáo dục - đào tạo trong phạm vi cả nước: Các định
hướng giáo dục - đào tạo như chiến lược, chính sách, kế hoạch…; cơ sở vật chất
thiết bị, tài chính; yếu tố con người liên quan đến các quá trình dạy và học. Điều
14 Luật Giáo dục (năm 2005) quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu
chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng”.
Mục tiêu tổng thể của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là đảm bảo
trật tự, kỷ cương trong hoạt động giáo dục - đào tạo của cả nước nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của công
dân. Mỗi cấp học, mỗi ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong
Luật Giáo dục và các điều lệ.

5


1.2. Vai trò của giáo dục - đào tạo
Trong đời sống xã hội, giáo dục - đào tạo có vai trò rất quan trọng đối với
mọi quốc gia, dân tộc, ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển kinh tế tri thức
ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng

đầu để phát triển đất nước. Vai trò của giáo dục - đào tạo đối với phát triển kinh
tế - xã hội thể hiện ở những mặt chủ yếu dưới đây:
Một là, giáo dục - đào tạo là động lực quan trọng để phát triển xã hội:
Muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần,
nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây
dựng và cải tạo xã hội. Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân
tộc. Đây là lĩnh vực xuất hiện sớm nhất trong xã hội loài người nhằm truyền bá
kiến thức và kinh nghiệm từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhanh và hiệu quả nhất.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra vai trò quyết định của giáo dục đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc. Ngay sau khi nước Việt Nam mới giành độc lập, trong
tác phẩm “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”,
Người cho rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bởi không có tri thức, hiểu
biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người đó sẽ luôn lệ thuộc, bất
lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước
mình. Ngày nay, giáo dục và đào tạo còn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội
mới. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc, từ tài nguyên,
sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ
bản nhất.
Hai là, giáo dục - đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc
gia, dân tộc: Giáo dục là điều kiện đảm bảo thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định: “Sự nghiệp của nhà trường chúng ta cũng là
đấu tranh đánh đổ giai cấp tư sản… Nói nhà trường đứng ngoài cuộc sống, đứng
ngoài chính trị là nói dối và lừa bịp”. Do vậy, Người cảnh báo rằng người mù
chữ là người đứng ngoài chính trị. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, John
6


Kenedy (nguyên Tổng thống Hoa Kỳ) cũng đã chủ trương tăng nhịp độ và quy
mô giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Kenedy cho rằng, chủ nghĩa tư bản thắng
hay bại chính là ở trường đại học của Mỹ. Tư tưởng đó cũng là một nguyên nhân

quan trọng làm cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ của nước Mỹ
phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Như vậy, giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình
độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội, đồng thời có bản lĩnh chính trị vững
vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong quá trình
hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
Ba là, giáo dục - đào tạo là nhân tố quan trọng đối với phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia, dân tộc: Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình
độ góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong tác phẩm “Những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”, Lênin coi giáo dục - đào tạo là bộ phận
nằm trong kết cấu hạ tầng xã hội, là phương tiện quan trọng để phát triển xã hội.
Khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” đã được đông đảo nhân
dân thấm nhuần và thực hiện rộng rãi, góp phần vào sự thịnh vượng của đất
nước Liên Xô những năm 60-80 của thế kỷ XX.
Giáo dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút
ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các nước Anh, Mỹ mất
hơn 200 năm để hoàn thành công nghiệp hóa. Các nước “con rồng châu Á” nhờ
kế thừa tri thức các nước trước đó thông qua giáo dục - đào tạo nên chỉ mất vài
chục năm hoàn thành công nghiệp hóa.
Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có trình
độ chuyên môn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan
trọng phát triển khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức.
Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) dự báo
thế kỷ XXI sẽ phổ biến một nền văn minh dựa vào quyền lực của tri thức và nêu
lên bốn trụ cột của giáo dục trong thế kỷ XXI, đó là: học để biết, học để làm,
7


học để chung sống với người khác và học để tự khẳng định mình. Cuối thế kỷ
XX, đầu thế kỷ XXI, tất cả các nước phát triển đều có chiến lược phát triển giáo

dục. Trong “Báo cáo Giám sát toàn cầu Giáo dục cho mọi người” năm 2008,
UNESCO khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục.
Ở Việt Nam, ngay sau khi mới giành chính quyền (năm 1945), Hồ Chủ
tịch đã chỉ ra “giặc dốt” cũng là một thứ giặc cần phải chống. Người dạy thế hệ
trẻ Việt Nam: “Non song Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt
Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu thanh thiếu
niên, nhi đồng”. Sự nghiệp giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, thời kỳ đổi mới là dấu mốc
quan trọng, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã khẳng định
giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là “quốc sách hàng đầu”. Tư
tưởng này tiếp tục được cụ thể hóa trong các văn kiện đại hội Đảng sau đó, đặc
biệt là trong các văn kiện Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII), văn kiện Hội nghị
Trung ương 2 (khóa VIII), văn kiện Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI).
1.3. Vai trò quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là sự quản lý của nhà nước đối với
toàn bộ hoạt động giáo dục - đào tạo của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước
thông qua Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa.
Quản lý hoạt động giáo dục - đào tạo là hoạt động có tính chất nhà nước, nhằm
điều hành hoạt động văn hóa được thực hiện bởi cơ quan hành chính. Trong công
tác quản lý giáo dục - đào tạo, điều quan trọng là phải xây dựng được cơ chế
quản lý.
Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo có những vai trò quan trọng. Nó
đóng vai trò định hướng nền giáo dục - đào tạo nước nhà phát triển phù hợp xu
thế khách quan và “đi tắt đón đầu” văn minh nhân loại. Ngoài ra, quản lý nhà

8


nước về giáo dục - đào tạo góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển

lực lượng sản xuất, trong đó tập trung phát triển nhân tố con người.
1.4. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
Các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo bao gồm các vấn đề
cơ bản là: hoạch định chính sách, lập pháp, lập quy và thực hiện quyền hành
pháp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; tổ chức và điều hành bộ máy quản lý
giáo dục, huy động và quản lý các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo; thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật trong
hoạt động giáo dục - đào tạo. Dưới góc độ quản lý, có thể chia các nội dung
quản lý nhà nước về giáo dục thành ba nhóm theo quy trình quản lý là: ra các
quyết định; tổ chức thực hiện các quyết định; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện
các quyết định về giáo dục - đào tạo.
Ra các quyết định về lĩnh vực giáo dục - đào tạo thể hiện qua việc xây
dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chính sách phát triển giáo
dục - đào tạo; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục - đào tạo,
điều lệ nhà trường; quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục;
quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu
chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn in và phát hành sách
giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng; quy định việc tặng các
danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo
dục.
Tổ chức thực hiện các quyết định trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo được
thể hiện qua việc: Tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục - đào tạo và các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực giáo dục - đào tạo; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để
phát triển sự nghiệp giáp dục - đào tạo; tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu

9


khoa học - công nghệ trong ngành giáo dục; tổ chức, quản lý công tác quan hệ

quốc tế về giáo dục - đào tạo.
Việc thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về giáo dục - đào tạo được
tiến hành ở những nội dung: thanh tra việc chấp hành Luật Giáo dục; việc thực
hiện mục tiêu kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp; quy chế chuyên
môn, thi cử; cấp văn bằng, chứng chỉ. Thanh tra, kiểm tra thường gắn liền với
việc phát hiện những nhân tố tích cực và những yếu kém trong hoạt động giáo
dục - đào tạo. Khi phát hiện sai phạm, các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn và xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật; đồng thời khen
thưởng các cá nhân và tập thể có thành tích trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO
DỤC- ĐÀO TẠO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY
2.1. Ưu điểm, tiến bộ
2.1.1. Về thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo
Để thu hẹp chênh lệch về trình độ dân trí, nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo ở những vùng kinh tế - xã hội còn khó khăn, vùng đông đồng bào dân
tộc, các ngành, địa phương, đơn vị đã thực hiện khá tốt các chính sách về miễn,
giảm học phí, hỗ trợ học tập, cử tuyển và tín dụng cho các đối tượng học sinh là
người dân tộc thiểu số, con em gia đình chính sách, hộ nghèo. Qua đó, đã tạo
điều kiện cho hơn 31.700 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn
theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với số tiền trên
474 tỷ đồng để chi phí trong học tập; đã cử tuyển hàng trăm học sinh người dân
tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong và
ngoài tỉnh. Năm 2014, huy động được 38.474 học sinh dân tộc thiểu số, chiếm
11,3% tổng số học sinh toàn tỉnh. Hiện có 5 trường phổ thông dân tộc nội trú và
34 trường phổ thông, mở được 261 lớp có 5.283 học sinh học chữ Khmer và 2
10


trường có 356 học sinh học chữ Hoa. Huy động 842 trẻ khuyết tật học chương

trình hòa nhập trong trường tiểu học và mầm non…
2.1.2. Về phát triển quy mô trường lớp, nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục - đào tạo
Quy mô, mạng lưới trường lớp tiếp tục được mở rộng, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh. Năm 2014, toàn
tỉnh có 610 trường mầm non và phổ thông (tăng 70 trường so với năm 2010)
với 1.703 điểm trường, trong đó có 119/610 trường đạt chuẩn quốc gia (đạt
19,5%), trong đó: Ngành học mầm non có 91 trường/82 xã, phường, thị trấn (đạt
62,07% xã, phường, thị trấn có trường mầm non); các xã, phường, thị trấn còn
lại tuy chưa có trường mầm non nhưng đều có lớp mẫu giáo trong các trường
tiểu học, đã huy động được 38.407 cháu, trong đó trẻ 5 tuổi đạt 86,53% dân số
độ tuổi. Cấp tiểu học có 301 trường, huy động được 159.981 học sinh, trong đó
học sinh 6-14 tuổi đạt 96,02% dân số độ tuổi, học sinh được học 2 buổi/ngày đạt
50% tổng số học sinh tiểu học. Đối với bậc trung học cơ sở có 166 trường, huy
động được 89.493 học sinh, trong đó học sinh 11-14 tuổi đạt 93,52% dân số độ
tuổi. Trung học phổ thông có 52 trường, huy động được 35.506 học sinh, trong
đó học sinh từ 15-17 tuổi đạt 33,4% dân số độ tuổi. Tỉnh được công nhận đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2007 và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở năm 2008.
Hệ thống giáo dục thường xuyên, đào tạo và dạy nghề phát triển khá
nhanh, theo hướng huy động tối đa cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý để phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực. Toàn tỉnh, hiện có 1 trường đại học, 5 trường cao đẳng, 1
trường trung cấp kỹ thuật nghiệp vụ, 3 trường trung cấp nghề, 14 trung tâm giáo
dục thường xuyên, 1 trung tâm ngoại ngữ - tin học và nhiều cơ sở dạy nghề,
ngoại ngữ, tin học ở các huyện, thị, thành phố; tất cả các xã, phường, thị trấn
đều có trung tâm học tập cộng đồng, từng bước đáp ứng nhu cầu xây dựng xã
11



hội học tập trong cộng đồng dân cư. Bình quân hằng năm các trường, trung tâm
tuyển sinh đào tạo mới khoảng 12.000 học sinh, sinh viên; trong đó đào tạo trình
độ cao đẳng, đại học khoảng 1.300 người, trung học chuyên nghiệp 2.800 người
và trình độ cao đẳng, trung cấp nghề 7.900 người. Cùng với phát triển về quy
mô, số lượng, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đã quan tâm đến việc
nâng cao chất lượng và từng bước chuyển đổi hình thức đào tạo theo niên chế
sang đào tạo tín chỉ, nâng cao tính thực tiễn, kỹ năng thực hành cho sinh viên,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.1.3. Về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục
Tỉnh thường xuyên quan tâm chỉ đạo thực hiện khá tốt Chỉ thị 40-CT/TW
của Ban Bí thư (khóa IX) về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, giáo dục chính trị tư tưởng và bố trí, sắp xếp lại đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý được tăng cường. Việc tổ chức tiếp thu, tập huấn, bồi dưỡng
về đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học cho giáo viên, cán bộ
quản lý được chú trọng, sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề được duy trì và tổ
chức với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, góp phần nâng cao năng lực giảng
dạy của giáo viên. Việc đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ quản lý
và giáo viên đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình, quy định; các chế độ, chính sách
đối với giáo viên, cán bộ quản lý được thực hiện khá tốt. Công tác thanh tra,
kiểm tra được tăng cường, kỷ luật, kỷ cương trong trường học được chú trọng,
góp phần đưa hoạt động dạy và học đi vào nề nếp và thực chất hơn. Đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý được nâng lên cả về lượng và chất, cơ bản đáp ứng yêu
cầu giảng dạy, quản lý ở các trường học, cơ sở đào tạo. Toàn tỉnh hiện có 22.644
cán bộ, giáo viên, nhân viên (tăng trên 4.000 người so với năm 2010), trong đó
có 954 giáo viên người dân tộc, 13 tiến sĩ, 350 thạc sĩ. Tỷ lệ giáo viên ngành học
12



mầm non và phổ thông đạt chuẩn 98,76%, trên chuẩn 69,77% (năm 2010 đạt
chuẩn 96,6%, trên chuẩn 43,72%). Đa số giáo viên, cán bộ quản lý đều có phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt, tận tụy và tâm huyết với nghề, có ý thức
vươn lên trong học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ và hoàn thành nhiệm vụ
được giao, góp phần quan trọng vào phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo
tỉnh nhà.
2.1.4. Về huy động các nguồn lực xã hội, tập trung đầu tư đồng bộ
mạng lưới trường lớp giáo dục, đào tạo và dạy nghề
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động giáo dục và đào
tạo thường xuyên được quan tâm đầu tư, với mức chi hằng năm chiếm hơn 20%
tổng chi ngân sách tỉnh. Đã hoàn thành quy hoạch mạng lưới trường lớp đến
2020, theo hướng tăng quy mô trường lớp, giảm điểm trường nhỏ lẻ ở những nơi
điều kiện giao thông thuận lợi và đa dạng hóa các loại hình, đáp ứng nhu cầu
học tập cho nhiều đối tượng khác nhau, ưu tiên phát triển trường mầm non để
phổ cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi. Trong 5 năm qua đã xây dựng mới 3.530 phòng
học các loại, 454 phòng công vụ với tổng vốn đầu tư 2.119 tỷ đồng (trong đó
ngân sách tỉnh 1.352 tỷ đồng, trái phiếu chính phủ 311 tỷ đồng, ODA 255 tỷ
đồng và xã hội hóa 201 tỷ đồng); trang bị 9.795 máy vi tính, 1.974 bộ thiết bị
nghe nhìn, 1.614 máy in, photocoppy phục vụ cho việc dạy và học.
Phong trào xã hội hóa giáo dục ngày càng được hưởng ứng mạnh mẽ, với
nhiều hình thức phong phú, các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập phát
triển ở hầu hết các cấp học, bậc học. Từ năm 2010 đến nay, các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài tỉnh đã hỗ trợ trên 200 tỷ đồng và hơn 20.000 m 2 đất để xây
dựng, sửa chữa, mở rộng trường lớp và hỗ trợ, tạo điều kiện cho những học sinh,
sinh viên, giáo viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tiếp tục đến trường, góp
phần rút ngắn khoảng cách trong giáo dục và đào tạo giữa các vùng, địa phương
trong tỉnh. Toàn tỉnh hiện có 16 trường ngoài công lập, chiếm tỷ lệ 2,62% tổng
số trường trong tỉnh.
13



2.2. Hạn chế, yếu kém
2.2.1. Về thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo
Việc thực hiện chính sách hỗ trợ và huy động trẻ khuyết tật vào trường học
còn ít; học sinh có hoàn cảnh khó khăn phải tham gia lao động sớm dẫn đến bỏ học
còn nhiều. Chất lượng cử tuyển đối với một số trường hợp không đảm bảo yêu cầu.
Thực hiện chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên một số trường hợp chưa
kịp thời, hồ sơ thủ tục còn rườm rà.
2.2.2. Về phát triển quy mô trường lớp, nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục - đào tạo
Việc xây dựng quy hoạch phát triển quy mô, mạng lưới trường, lớp học có
nơi chưa đồng bộ, nhiều phòng học xuống cấp nhưng chưa được quan tâm đầu tư
sửa chữa kịp thời; số trường đạt chuẩn quốc gia, trường tổ chức cho học sinh học 2
buổi/ngày còn ít và còn 63 xã, phường, thị trấn chưa có trường mầm non. Việc dạy
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân theo Quyết định 1400/2008/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ còn gặp nhiều khó khăn, nhất là công tác đánh giá, đào
tạo, bồi dưỡng giáo viên. Chất lượng, hiệu quả giáo dục nâng lên chậm và thấp so
với các tỉnh trong khu vực, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và còn chênh lệch giữa các địa bàn trong tỉnh. Việc giáo dục, rèn luyện nhân cách
và kỹ năng sống cho học sinh còn hạn chế. Tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao, công tác
phân luồng học sinh sau trung học cơ sở còn nhiều khó khăn...
Cơ sở vật chất cho đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều khó khăn; máy móc,
thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu, đào tạo thiếu đồng bộ và không theo
kịp sự phát triển của sản xuất. Các trường, cơ sở đào tạo đa số mới thành lập và
nâng cấp dẫn đến thiếu giáo viên có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, giáo
viên giỏi ở các khoa, ngành đào tạo... Chất lượng đào tạo chuyên nghiệp và dạy
nghề nâng lên chậm, có mặt còn hạn chế, chưa gắn kết tốt với nhu cầu xã hội,
nhiều sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm. Công tác tư vấn, hướng
nghiệp chưa sát với thực tế, hệ thống cơ sở dạy nghề phát triển chậm, hạn chế

14


đến việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Nguồn kinh phí đào tạo chủ yếu huy động từ ngân sách nhà nước và gia đình
người học, sự đóng góp của doanh nghiệp và cộng đồng còn hạn chế.
2.2.3. Về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục
Cơ cấu đội ngũ nhà giáo chưa đồng bộ, trình độ, năng lực chuyên môn
không đồng đều, lý luận chính trị còn hạn chế. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên,
giảng viên cục bộ giữa các ngành học, cấp học, môn học và giữa các vùng, địa
phương trong tỉnh chưa có giải pháp khắc phục. Một bộ phận giáo viên, cán bộ
quản lý tuy đạt chuẩn về bằng cấp, nhưng năng lực quản lý, giảng dạy, kỹ năng
sư phạm còn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp
giảng dạy, nên chất lượng dạy học và quản lý ở một số trường nâng lên chậm.
Việc rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý có nơi còn nể
nang, dễ dãi, chưa đúng thực chất. Công tác luân chuyển, bổ nhiệm lại cán bộ
quản lý từng lúc, từng nơi còn chậm, tạo tâm lý chủ quan, ỷ lại, thiếu linh động,
nhạy bén trong công tác. Tỉnh chưa có chính sách giải quyết đầu ra cho số giáo
viên, cán bộ quản lý còn hạn chế về trình độ, năng lực chuyên môn nhưng không
có khả năng đào tạo lại do lớn tuổi, dẫn đến khó khăn trong việc tuyển mới
những giáo viên có trình độ, năng lực chuyên môn cao.
2.2.4. Về huy động các nguồn lực xã hội, tập trung đầu tư đồng bộ
mạng lưới trường lớp giáo dục, đào tạo và dạy nghề
Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến quy hoạch phát triển
trường lớp, thiếu chủ động chuẩn bị mặt bằng xây dựng dẫn đến tiến độ thực
hiện các chương trình, dự án đầu tư còn chậm; một số trường chưa có phòng
học bộ môn, thư viện, sân chơi, bãi tập; mạng lưới trường lớp ngoài công lập
phát triển chậm, quy mô nhỏ. Việc đầu tư thành lập các trường, trung tâm dạy
nghề theo quy hoạch và phát triển mạng lưới hệ thống dạy nghề còn chậm.


15


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
KIÊN GIANG TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
3.1. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân
chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở
giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
Đẩy mạnh phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo, phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
và các cơ sở giáo dục - đào tạo. Phát huy tốt vai trò của các cơ quan quản lý giáo
dục, đào tạo địa phương trong việc tham gia quyết định về quản lý nhân sự, đầu
tư, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.

16


Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với nâng cao trách nhiệm, tạo
động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy
vai trò của hội đồng trường, người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Thực hiện giám
sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội, tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra của các cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh
bạch; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra trong quá trình đào tạo. Quản lý chặt
chẽ đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo ngoài tỉnh và nước ngoài.
Phát huy các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ
thông tin trong hoạt động giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh ứng dụng phần mềm
công nghệ vào hoạt động quản lý và giảng dạy nhằm từng bước tiến tới công

khai hóa, minh bạch hoạt động và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục - đào tạo
ở các cấp; đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục - đào
tạo; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục - đào tạo tham
gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo đảm bảo tính kế thừa, đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu cả về cơ cấu, số lượng, chất lượng. Tập trung đổi mới phương thức
đào tạo tại Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang theo hướng đáp ứng nhu cầu
thực tế của tỉnh, khuyến khích học sinh giỏi vào học ngành sư phạm; tập trung
đào tạo, tuyển dụng các loại hình giáo viên còn thiếu.
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa IX “về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục”. Xây dựng và áp dụng một số chính sách đối với nhà
giáo phù hợp với điều kiện ở địa phương như: luân chuyển, biệt phái giáo viên, cán
17


bộ quản lý giáo dục; xây dựng nhà công vụ cho giáo viên ở những vùng khó khăn;
có cơ chế khuyến khích tăng tỷ lệ giáo viên dạy giỏi các cấp, giáo viên người dân
tộc thiểu số thông thạo tiếng dân tộc ở những vùng có đông đồng bào dân tộc.
Thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác;
có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành
đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý tự giác nghiên cứu, học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Chú trọng đầu tư chăm bồi đội
ngũ nhà giáo trẻ, có năng lực chuyên môn chuyên sâu ở một số môn học và

ngành, nghề mũi nhọn.
3.3. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia
đóng góp của toàn xã hội để phát triển giáo dục và đào tạo
Ngân sách tỉnh giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào
tạo. Tập trung đầu tư cho các mục tiêu, chương trình trọng điểm của ngành.
Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Tăng cường giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh
phí, đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, nhằm huy động tốt các nguồn lực để đầu tư
cho giáo dục - đào tạo. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi về vốn, mặt bằng cho
việc duy trì và khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập, nhất
là giáo dục mầm non và giáo dục nghề nghiệp, tiến tới xã hội hóa đáp ứng nhu
cầu giáo dục chất lượng cao ở những nơi có điều kiện. Đối với các cơ sở giáo
dục- đào tạo có chất lượng, được xã hội tín nhiệm cao cần có cơ chế khuyến
khích thực hiện xã hội hóa một phần, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối
tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng.
18


Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chính sách hỗ trợ đối với nhà giáo, học
sinh, sinh viên thuộc đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế
tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay tiền để học.
Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, giúp học sinh, sinh
viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có
thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
3.4. Hoàn thiện hệ thống trường, lớp học theo hướng tăng quy mô gắn
với hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Hoàn thiện và triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo
dục, đào tạo và dạy nghề trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, đáp ứng cả 3 mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tập trung đầu tư cho các
mục tiêu ưu tiên như: hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường học và nhà

công vụ cho giáo viên; xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, trường chuyên,
trường trọng điểm, trường phổ thông dân tộc nội trú. Chú trọng đầu tư đáp ứng
tiêu chí giáo dục và đào tạo trong xây dựng các xã nông thôn mới và nhiệm vụ
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Từng bước thành lập trường trọng
điểm các cấp học ở những nơi có điều kiện. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học
cơ sở; định hướng, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, giáo dục nghề nghiệp sau
trung học phổ thông gắn với phát huy liên thông, liên kết đào tạo giữa giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Bố trí, sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ, phân cấp quản lý đối với các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trung tâm giáo dục thường
xuyên và dạy nghề trong tỉnh, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp, đảm
bảo tính thiết thực, hiệu quả trong hoạt động và đào tạo. Chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Thực hiện đào
tạo theo tín chỉ và có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham

19


gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo, đánh giá năng lực
người học.
3.5. Thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục - đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện những chủ trương của
Đảng và Nhà nước về đổi mới các yếu tố cơ bản của giáo dục - đào tạo ở tất cả
các cấp học, bậc học cả về mục tiêu, chương trình, nội dung, tài liệu và phương
pháp, theo hướng xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc
học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó là cam kết
bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục - đào tạo; là căn cứ
giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo.
Phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy

người, dạy chữ và dạy nghề, với nội dung, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình
độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức công dân và ý thức cộng đồng.
Tập trung vào các giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc,
tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc
phòng - an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn
hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng
nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số. Đổi mới phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học.

20


3.6. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục - đào tạo
Chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các chủ trương của
Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra
và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, theo hướng: Trong thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục - đào tạo cần đảm bảo khách quan, trung thực; phối hợp sử
dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học;
đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường
với đánh giá của gia đình và của xã hội... Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ
sở giáo dục - đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định.
Chú trọng kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đối với các cơ sở
ngoài công lập, các lớp, các khóa học theo hình thức không chính quy, liên kết

đào tạo ngoài tỉnh và nước ngoài. Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động
qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực
tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống
chính trị. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí
quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề
nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục - đào tạo và
ngành nghề đào tạo.
3.7. Tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong
giáo dục - đào tạo
Quán triệt và thực hiện các chủ trương hội nhập quốc tế về giáo dục - đào
tạo. Tiếp tục thực hiện quy hoạch đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà
nước đối với đội ngũ giáo viên, giảng viên, chuyên gia, cán bộ chuyên sâu các
ngành, lĩnh vực quan trọng của tỉnh. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở
nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên

21


kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục
đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.
Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao khoa học và công nghệ, tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật
quốc tế tại các cơ sở đào tạo. Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn
luyện của học sinh, sinh viên của tỉnh đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở
giáo dục - đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

22



KẾT LUẬN
Giáo dục - đào tạo có vai trò rất quan trọng và luôn được Đảng, Nhà nước
ta xem là chính sách, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển đất nước.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tiếp tục khẳng định
quan điểm của Đảng ta: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”.
Quán triệt quan điểm trên của Đảng, tỉnh Kiên Giang đã tập trung đầu tư
cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo; trong đó đặc biệt coi trọng đẩy mạnh quản lý
nhà nước về giáo dục - đào tạo. Các quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về
dạy nghề và giáo dục theo Nghị định số 70/2009/NĐ-CP và Nghị định số
115/2010/NĐ-CP của Chính phủ được thực hiện nghiêm túc, đã có sự tác động
tích cực đến các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp về giáo dục - đào tạo. Tuy
nhiên, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý giáo dục và
đào tạo, các trường học, cơ sở đào tạo từng lúc, từng nơi chưa sâu sát, thiếu toàn
diện, thiếu quyết liệt, chưa theo kịp diễn biến thực tế nên công tác giáo dục và
đào tạo của tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập.
Vì vậy, Kiên Giang cần tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém
trong quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo hiện nay. Trong đó, tiếp tục cụ
thể hóa, triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu của Đảng về giáo dục đào tạo, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào
tạo, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện
đồng bộ, hiệu quả các giải pháp sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo
23


dục - đào tạo trên địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng vào mục tiêu đến năm 2020,
các chỉ số phát triển giáo dục - đào tạo của tỉnh Kiên Giang đạt khá trong vùng
đồng bằng Sông Cửu Long và trên mức bình quân chung cả nước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đề cương bài giảng Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu, Khoa Xây

2.

dựng Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội 2014.
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04-11-2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị

3.

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết 44/NQ-CP, ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-112013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

4.

và hội nhập quốc tế.
Chương trình hành động số 47-Ctr/TU, ngày 10-02-2014 của Tỉnh ủy Kiên
Giang thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
5. Báo cáo số 189-BC/TU, ngày 27-02-2013 của Tỉnh ủy Kiên Giang tổng
kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về

6.

phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2010 định hướng đến năm 2015.
Báo cáo số 21-BC/TU, ngày 31-3-2011 của Tỉnh ủy Kiên Giang tổng
kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 61-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa

7.

VIII) về thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
Chương trình hành động số 27-Ctr/TU, ngày 24-7-2012 của Tỉnh ủy Kiên
Giang thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 05-12-2011 của Bộ Chính trị
(khóa XI) về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi, củng cố kết quả
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học
sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn.
24


8.

Báo cáo tổng kết các năm 2010, 2011, 2012, 2013 và 2014 của Sở Giáo dục đào tạo Kiên Giang.
-----------------

25


×