Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH vực PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH từ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.93 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ LAN ANH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ LAN ANH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN QUÂN


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp
với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Hà Thị Lan Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH........................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
phát thanh - truyền hình....................................................................................7
1.2. Chủ thể, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình.......................................................................................... 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh –
truyền hình...................................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH

VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM.......26
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình...........................................26
2.2. Thực trạng hoạt động phát thanh - truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.......29
tỉnh Quảng Nam..............................................................................................32
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình tại
tỉnh Quảng Nam..............................................................................................42
2.4. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình tại tỉnh Quảng Nam.................................................................................57
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
TẠI TỈNH QUẢNG NAM............................................................................62


3.1. Định hướng bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tại tỉnh Quảng Nam......................................................................62
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tại tỉnh Quảng Nam......................................................................65
KẾT LUẬN....................................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1


TCTT

Tiếp cận thông tin

2

QTCTDBC

Quyền tiếp cận tự do báo chí

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5

XHCH

Xã hội chủ nghĩa

6


LBC

Luật báo chí

7

PTTH

Phát thanh truyền hình

8

PLVBC

Pháp luật về báo chí

9

KT-XH

Kinh tế - xã hội

10

TT-TH

Truyền thanh - truyền hình

10


ĐVSNCL

Đơn vị sự nghiệp công lập


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Thực trạng hoạt động của Đài Phát thanh - Truyền hình

30

tỉnh Quảng Nam
2.2

Thực trạng hoạt động của Đài Phát thanh - Truyền hình

32

huyện
2.3


Thực trạng hoạt động của Đài Truyền thanh xã

35

2.4

Tình hình hoạt động truyền hình trả tiền

40

2.5

Cơ cấu nhân sự tại QRT từ năm 2017 - 2019

48

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

hình
2.1

Thời lượng phát sóng các chương trình truyền hình trên
đài QRT

38



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ đang tập trung chỉ đạo thực hiện
cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Ngoài ra, với xu thế phát triển công
nghệ và dịch vụ, nhiều tổ chức, trong nước và nước ngoài đang cung cấp các
dịch vụ nội dung phát thanh, truyền hình theo yêu cầu qua mạng Internet vào
Việt Nam, tuy nhiên, Nghị định số 06 cũng như các văn bản khác chưa quy
định cụ thể việc quản lý, cung cấp và sử dụng đối với loại hình dịch vụ này.
Tại tỉnh Quảng Nam, Sau hơn 22 năm tái lập tỉnh và 20 năm thành lập
Hội Nhà báo tỉnh, báo chí và đội ngũ làm báo Quảng Nam đã có bước tiến
dài, phát triển vượt bậc về nhiều mặt. Chỉ riêng nguồn nhân lực, theo thống
kê, số lượng người làm việc trong các cơ quan báo chí và hệ thống truyền
thanh, truyền hình, bản tin chuyên ngành của cả tỉnh hiện trên dưới 500
người; trong đó hơn 130 người được cấp Thẻ nhà báo, hơn 180 hội viên Hội
Nhà báo Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của lình vực phát thanh truyền hình trong phát triển kình tế - xã hội, thời gian qua Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh Quảng Nam đã triển khai nhiều biện pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống hạ tầng phát thanh - truyền hình, nội dung các chương trình phát thanh truyền hình… Tuy nhiên, việc triển khai các văn bản quản lý về phát thanh –
truyền hình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn hạn chế, các văn bản hướng dẫn
của tỉnh còn chậm được ban hành, các hình thức, nội dung các chương trình
truyền hình – truyền thanh còn đơn điệu, chưa phù hợp với thực tiễn trên địa
bàn tỉnh.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm
đề tài luận văn thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích
1


nghiên cứu những giải pháp hữu hiệu để tăng cường hiệu quả thực hiện pháp

luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đề cập đến các khía cạnh khác nhau của đề
tài đã có một số đề tài khoa học, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, thạc sĩ và
các bài báo. Sau đây, tác giả xin nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu,
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận văn, cụ thể như:
Bài viết “Tiếp cận thông tin: Pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở
Việt Nam” đã đề cập toàn diện, đầy đủ về pháp luật và thực tiễn tiếp cận thông
tin ở Việt Nam và trên thế giới. Cuốn sách có những đề xuất quan trọng như:
Báo chí là một kênh để người dân tiếp cận thông tin. Bảo vệ quyền tiếp cận
thông tin của báo chí cũng là bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng.
Quyền tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí và quyền được thông tin là những
quyền con người, đồng thời là những quyền công dân cơ bản - những quyền
hiến định vốn có của một xã hội dân chủ, đồng thời cũng là một chuẩn mực
bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Công trình “Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí” của tác giả Lê
Thanh Bình và Phí Thị Thanh Tâm (Nxb Văn hóa Thông tin, năm 2009).
Cuốn sách trình bày khái lược nội dung, đặc điểm, tình hình thực hiện pháp
luật về quản lý nhà nước về báo chí. Tuy nhiên, về cơ bản cuốn sách được
phát triển từ Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay” của ThS. Phí Thị Thanh Tâm nên các
vấn đề trình bày còn khái lược, chưa đi vào luận giải một cách sâu sắc các
khía cạnh của việc hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam.
Bài viết “Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”
của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp, đăng trên Tạp chí
Cộng sản điện tử ngày 18/6/2007. Bài viết phân tích sự lớn mạnh và đóng
2


góp xứng đáng của báo chí trong hơn 20 năm đổi mới; đồng thời chỉ ra những

yếu kém trong hoạt động và quản lý báo chí, từ đó tác giả đề xuất 7 nhiệm vụ
chính về quản lý báo chí trong tình hình hiện nay.
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về báo chí: Nhu cầu bức thiết của thực
tiễn” của PGS. TS Lê Thanh Bình, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số
12, tháng 6/2009. Bài viết đưa ra một số yêu cầu và nguyên tắc cơ bản của
việc hoàn thiện pháp luật về báo chí; đồng thời kiến nghị một số vấn đề sửa
đổi LBC hiện hành.
Bài viết “Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí”
của tác giả Hoàng Anh đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 25/10/2012.
Bài viết đánh giá thực trạng hệ thống văn bản pháp luật và thực trạng quản lý
nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí; qua đó đề xuất một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với báo chí
là: giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; tiếp tục
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; có chính sách
hợp lý để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bài viết “Những bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí” của GS.TS Nguyễn Minh Thuyết trong tập Tài liệu Hội nghị
Tham vấn chuyên gia về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh
vực báo chí tổ chức ngày 28/7/2014. Bài viết chỉ ra một số hạn chế của hệ
thống các quy phạm pháp luật về báo chí là: Quy định trong quá nhiều văn
bản; một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí; vẫn còn
một số vấn đề chưa được quy định hoặc quy định thiếu cụ thể, cần được bổ
sung. Bài viết kết luận: Tới nay, sự phát triển của thực tiễn, đặc biệt là sự phát
triển có tính chất bước ngoặt của công nghệ thông tin và truyền thông, đòi hỏi
LBC phải được sửa đổi một cách căn bản nhằm bao quát được đầy đủ các loại
hình báo chí và mô hình hoạt động báo chí mới xuất hiện, chấn chỉnh các hiện
3


tượng tiêu cực, tạo điều kiện cho báo chí tiếp tục phát triển lành mạnh, đáp

ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đề tài “Nâng cao hiệu quả của báo chí trong đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng ở Việt Nam” do PGS.TS Trần Quang Nhiếp làm chủ nhiệm
đi sâu phân tích vai trò, thực trạng của báo chí trong đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, trên cơ sở đó kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của báo chí trong chống quan liêu, tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong
thời kỳ đổi mới” của TS Nguyễn Vũ Tiến (Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2003). Luận án phân tích những bước tiến trong quá trình
lãnh đạo báo chí của Đảng, trong đó khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện tiên quyết đảm bảo cho báo chí tiếp tục phát triển.
Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với hầu hết những kết quả nghiên
cứu trên. Tuy nhiên, bên cạnh những đề xuất có giá trị đó, do những mục tiêu
nghiên cứu khác nhau, đi vào những vấn đề cụ thể khác nhau mà những công
trình này vẫn chưa có điều kiện trình bày một cách có hệ thống và toàn diện
các mặt pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình cũng như thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực này trên một địa bàn cụ thể. Chính vì vậy, việc tác giả
lựa chọn nghiên cứu đề tài: Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh
- truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam không bị trùng lặp với các công
trình nghiên cứu trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất các giải
pháp bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4


Luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Phân tích, đánh giá những kết quả
đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam và làm rõ nguyên
nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2015 đến nay.
Về không gian: Tỉnh Quảng Nam
Về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh
- truyền hình, trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê,
tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn
đề khoa học cần nghiên cứu.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần

làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về báo
chí ở nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của
người dân về quyền tiếp cận thông tin, vai trò của hệ thống phát thanh –
truyền hình. Bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực
tiễn sẽ nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tại tỉnh Quảng Nam và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham
khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn
cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những
vấn đề pháp luật báo chí.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình;
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tại tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bào đảm thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
1.1.1.1. Khái quát về lĩnh vực phát thanh - truyền
hình * Khái niệm phát thanh
Chúng ta hiểu thuật ngữ phát thanh là bao gồm cả hai hình thức: hữu

tuyến và vô tuyến. Hiện nay, trên thế giới không có đất nước nào mà không có
phát thanh. Dù phát thanh có mục đích phục vụ cho các mặt: thương mại,
quảng cáo, chính trị xã hội… thì phát thanh vẫn có mục đích chung nhất là
phục vụ cho lợi ích chung của đông đảo quần chúng nhân dân.
Sự thay đổi của phương thức sản xuất không chỉ dựa trên nền tảng của
công nghệ, kỹ thuật mới mà còn đòi hỏi kỹ năng mới để tạo ra được chất
lượng nội dung và hình thức mới và qua đó có thể hình thành công chúng
mới… Trong phương thức sản xuất các chương trình phát thanh hiện đại,
những ưu điểm của phát thanh truyền thống (như: có đối tượng thính giả rộng
rãi; tính tức thời và tỏa khắp; ưu thế chiếm lĩnh không gian toàn bộ thời gian
trong ngày; tính giao tiếp cá nhân; thông điệp len lỏi khắp nơi và có khả năng
tác động nhanh; dễ tác động vào tình cảm; sinh động trong cách thể hiện; sự
thuyết phục, lôi kéo của lời nói tác động vào thính giác; kích thích trí tưởng
tượng, buộc thính giả phải tự hình dung, liên tưởng; thiết bị rẻ tiền, đơn giản,
dễ phổ biến…) vẫn tiếp tục được phát huy mạnh mẽ và lại được sự hỗ trợ đắc
lực của công nghệ mới nên càng trở nên hấp dẫn hơn, hiệu quả hơn.

7


Đối tượng tiếp nhận thông tin của phát thanh là người nghe, việc tiếp
nhận thông tin bằng thính giác thường có liên tưởng rất phong phú, phát thanh
phải tận dụng được lợi thế này để phối hợp giữa tiếng nói và âm thanh một
cách hài hòa tạo cảm giác hứng thú cho thính giả. Bên cạnh các hoạt động báo
chí khác, thì báo chí phát thanh đang ngày càng được quan tâm phát triển và
ngày càng hiện đại thu hút được nhiều khán thính giá, đặc biệt là những người
do yêu cầu công việc phải di chuyển nhiều.
* Khái niệm truyền hình
Truyền hình là hệ thống điện tử viễn thông có khả năng thu nhận tín
hiệu sóng và tín hiệu qua đường cáp để truyền tài hình ảnh, âm thanh và là

một loại máy phát hình truyền tải chủ yếu bằng hình ảnh sống động và âm
thanh kèm theo, máy truyền hình là máy nhận tín hiệu đó qua hệ thống thu
qua đó phát bằng hình ảnh.
- Truyền hình Analog
Truyền hình Analog là nguyên bản đầu tiên của công nghệ truyền hình,
truyền hình Analog còn được biết đến dưới cái tên rất “lạ” đó là truyền hình
tương tự. Cụm từ tương tự ở đây được hiểu như sau, tín hiệu được phát sóng
từ Đài truyền hình, đến các máy thu hình có hình ảnh và âm thanh tương tự
như tín hiệu gốc. Loại hình phát sóng này bị hạn chế bởi không gian, có nghĩa
năng lực của nó chỉ đáp ứng được phạm vi vài chục Km. Và có một điều hạn
chế nữa là loại hình Analog rất dễ bị tác động bởi vật cản hoặc môi trường
như tiếng động cơ xe hay các nguồn sóng khác như Radio, điện thoại.
- Truyền hình kỹ thuật số mặt đất
Truyền hình kỹ thuật số (Digital) là một trong những bước đột phá lớn
của lĩnh vực truyền hình. Các tín hiệu truyền hình tương tự được số hóa, hay
nói một cách dễ hiểu là các tín hiệu được mã hóa dưới dạng nhị phân (gồm 2
dãy số 0 và 1) trước khi truyền đi. Có hai loại hình được phát là phát lên các
8


vệ tinh truyền dẫn, hoặc phát trực tiếp trên mặt đất. Các máy thu hình muốn
bắt được loại hình phát sóng này, phải nhờ đến sự hỗ trợ của một bộ giải mã
hay còn gọi là Set - Top Box, Bộ giải mã được cung cấp bởi các dịch vụ của
Đài Truyền hình. Dù được mã hóa và truyền dẫn tốt hơn, nhưng sóng Digital
vẫn ít nhiều bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh.
- Truyền hình cáp
Đây là loại hình phát sóng mới của truyền hình, các tín hiệu âm thanh
và hình ảnh được truyền dẫn qua hệ thống cáp quang và cáp đồng trục. Trên lý
thuyết loại hình phát sóng này không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân như thời
tiết hay môi trường âm thanh nhiễu động, nhưng thực tế có một số kênh nước

ngoài được truyền dẫn từ vệ tinh xuống các tạm thu phát cũng sẽ ít nhiều bị
ảnh hưởng. Vì thế khi tín hiệu gốc bị ảnh hưởng thì các thiết bị thu cuối mà cụ
thể là mạng lưới máy thu hình cũng bị ảnh hưởng theo. Đây là loại hình phải
trả phí và hơn thế cho đến bây giờ, mạng lưới dịch vụ vẫn còn khá nhỏ, đa
phần chỉ tập chung ở các thành phố lớn. Chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường ở các vùng có khó khăn về địa lý.
- Truyền hình vệ tinh DTH
Truyền hình vệ tinh DTH (Direct to Home), đây là loại hình khá cao cấp,
hình thức phát sóng của loại hình này khác với truyền hình số mặt đất. Khi chuỗi
tín hiệu số được phát lên vệ tinh và vệ tinh phát trở lại mặt đất. Đầu thu sẽ sử
dụng Antena Parabol để thu tín hiệu và đầu thu tín hiệu vệ tinh sẽ thực hiện giải
mã chuyển hóa thành hình ảnh và âm thanh. Loại hình này có chi phí đầu tư rất
lớn và chỉ phù hợp với một bộ phận khách hàng có thu nhập cao.

Trong tương lai gần, truyền hình sẽ còn có những bước tiến mới khi
gần đây người ta bắt đầu nói về loại hình IPTV, một loại truyền hình phát
sóng qua hệ thống mạng internet băng thông rộng và công nghệ này sẽ trở
thành một lựa chọn của tương lai.
9


1.1.1.2. Khái niệm pháp luật về phát thanh - truyền hình
Giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật” của Đại học Luật Hà Nội
viết: Theo học thuyết Mác-Lê Nin, pháp luật chỉ tồn tại và phát triển trong xã
hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không
có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật mang tính giai cấp.
Trong xu thế hội nhập chung với thế giới, chúng ta đã dần từng bước
tiếp cận với nền khoa học pháp lý đương đại, các giáo trình lý luận về nhà
nước và pháp luật cũng đã có những hướng tiếp cận mới hơn. Giáo trình lý
luận nhà nước và pháp luật năm 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội đã

dành Chương VI - Nguồn gốc, bản chất, chức năng, kiểu, hình thức pháp luật
(từ trang 95 đến trang 124) để giới thiệu quan niệm về pháp luật từ góc độ
phân định luật tự nhiên và luật thực định. Mặc dù tiếp tục khẳng định “Pháp
luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu,
định hướng cụ thể” nhưng giáo trình cũng đã gợi mở về hướng tiếp cận nội
hàm của khái niệm pháp luật theo hướng mở rộng hơn. Theo đó, pháp luật
không đơn thuần chỉ là sự hiện hữu bằng hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung mà cần được quan niệm bao gồm nhiều yếu tố khác như: các
nguyên tắc pháp luật, khung pháp luật, chính sách pháp luật, các học thuyết
pháp lý.
Như vậy, ngày nay quan niệm về pháp luật đã có nhiều sự thay đổi. Có
rất nhiều quan niệm về pháp luật khác nhau, nhưng tựu chung lại pháp luật có
những đặc điểm chung là: hệ thống các quy tắc xử sự được thừa nhận chung
và có giá trị bắt buộc; chúng được thể hiện ở văn bản chính sách của nhà
nước, các loại hình thức khác (án lệ, đạo đức...); ghi nhận và bảo đảm các
quyền tự do của con người. Từ khái niệm chung về pháp luật có thể hiểu:
Pháp luật về phát thanh - truyền hình là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
10


nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình nhằm đảm bảo quyền con người trong lĩnh
vực báo chí.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
Có thể khẳng định thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai, sau khi đã
tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan trọng, không thể
thiếu vì pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò, giá trị trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển
khi được tôn trọng, thực hiện đầy đủ, nghiêm minh.

Hiện nay, báo chí nói chung, lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói riêng
của nước ta có sự phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, từng bước
đổi mới để thích ứng với xu thế phát triển của công nghệ thông tin và truyền
thông hiện đại. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của công
cuộc đổi mới đất nước thông qua các công cụ khác nhau trong đó có công cụ
pháp luật thì hoạt động phát thanh - truyền hình đã phát triển nhanh chóng và
đúng định hướng đề ra. Việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình được xuất phát từ thực tiễn nhu cầu quản lý và phát triển của lĩnh
vực. Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
được hiểu là việc các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình hoạt động theo quy định của pháp luật, phù hợp với thực
tiễn đời sống xã hội.
Trong phạm vi của luận văn, Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình là hành vi hợp pháp của người sử dụng dịch vụ, chủ sở
hữu dịch vụ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực phát thanh -

11


truyền hình nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về phát thanh truyền hình trong thực tiễn
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền

hình
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện. Chủ thể thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình đó là: các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp công lập, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức,
cá nhân thực hiện các mục tiêu về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình trên địa bàn các địa phương…
Thứ hai, về phạm vi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Phạm vi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình là môi trường và những giới hạn không gian, địa lý để các chủ thể tiến

hành các hoạt động thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình. Để có được phạm vi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình đòi hỏi Nhà nước phải quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình;
chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực phát thanh - truyền hình mang tính chất quản lý hành chính.
Thứ ba, về nội dung thực hiện. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát
thanh - truyền hình có nội hàm phong phú và bao trùm toàn bộ đời sống xã
hội như các chiến lược, chính sách, mục tiêu của Nhà nước về hoạt động phát
thanh - truyền hình. Do đó, một trong những nội dung không thể thiếu trong
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình gồm các biện pháp
thúc đẩy hoạt động phát thanh - truyền hình phát triển; phổ biến, chính sách
pháp luật về phát thanh - truyền hình, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ - những người có liên quan đến
việc thực thi chính sách về hoạt động phát thanh - truyền hình.
12


1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình có vai trò:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là
phương thức để những chủ trương, chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống.
Trên cơ sở đó, Nhà nước thực hiện thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính
sách đó thành hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình. Nội dung pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là chủ
trương, quan điểm, chính sách của Đảng đối với hoạt động báo chí nói chung
và hoạt động phát thanh - truyền hình nói riêng. Để chủ trương, chính sách đi
vào cuộc sống thì thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình
là cách thức có hiệu quả nhất và phù hợp nhất.
Thứ hai, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình sẽ

giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nâng cao ý thức pháp luật liên quan đến
lĩnh vực này. Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình có
vai trò quan trọng trong việc củng cố, nâng cao ý thức pháp luật, đồng thời
bồi dưỡng năng lực làm chủ để tham gia quản lý nhà nước về phát thanh truyền hình; giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm vững pháp luật, nhận
thức sâu sắc, hiểu biết đầy đủ hơn về lĩnh vực phát thanh – truyền hình, những
nội dung cơ bản liên quan đến lĩnh vực phát thanh - truyền hình sẽ nhận thức
đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật liên quan đến lĩnh vực phát thanh - truyền hình.
Thứ ba, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là
biện pháp phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về phát thanh - truyền
hình. Các chủ thể khi thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình sẽ nhận thức được giới hạn hành vi và tự giác thực hiện.

13


1.2. Chủ thể, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền
hình
Ở Việt Nam, chủ thể thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình là Bộ Thông tin và Truyền thông và ở địa phương thì UBND tỉnh
là cơ quan thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh – truyền hình. Hiện
nay, Điều 7, Luật Báo chí năm 2016 có quy định về chủ thể quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực báo chí trong đó có lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Tuy
nhiên nghiên cứu việc thực hiện pháp luật liên quan đến lĩnh vực phát thanh –
truyền hình là:
Chủ thể quản lý: quản lý nhà nước đối với báo chí (là Sở Thông tin và
Truyền thông. Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh)
có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về

phát thanh - truyền hình.
Chủ thể cung cấp dịch vụ phát thanh – truyền hình: hệ thống Đài phát
thanh - truyền hình Tỉnh, Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện, Đài Truyền
thanh xã, các công ty cung cấp dịch vụ về phát thanh – truyền hình.
Chủ thể sử dụng dịch vụ phát thanh – truyền hình: Các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu.
Các chủ thể trên đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong lĩnh
vực phát thanh - truyền hình.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
1.2.2.1. Ban hành các văn bản quản lý về lĩnh vực phát thanh - truyền
hình
14


Một trong nội dung quan trọng đầu tiên liên quan đến thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là việc ban hành các văn bản quản
lý dưới luật nhằm cụ thể hóa Luật Báo chí liên quan đến lĩnh vực phát thanh truyền hình. Các văn bản quản lý là pháp luật thường có tính cưỡng chế, bắt
buộc mọi người phải tuân theo, mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trước
pháp luật. Với những đặc điểm riêng có của mình, pháp luật nói chung và
pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói riêng có khả năng triển
khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh chóng, đồng
bộ và hiệu quả trên quy mô rộng lớn nhất.
Lĩnh vực phát thanh - truyền hình là một loại hình hoạt động vừa chịu
sự tác động của hệ thống các quy luật phát triển văn hóa - tư tưởng, vừa chịu
tác động của hệ thống các quy luật kinh tế. Vì vậy, trong hoạt động phát thanh
- truyền hình có sự đấu tranh về ý thức hệ biểu hiện cả trên phương diện văn
hóa - tư tưởng, cả trong các quan hệ kinh tế. Vì vậy, việc quy phạm hóa các
quy luật phát triển vừa phải thể hiện ở phương diện văn hóa tư tưởng, vừa
phải thể hiện ở phương diện kinh tế của hoạt động phát thanh - truyền hình.
Pháp luật phải mở đường cho tự do báo chí đồng thời hạn chế tối đa vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình.
Hoạt động phát thanh - truyền hình không chỉ đơn thuần là hoạt động
nghề nghiệp thuần túy mà là một lĩnh vực đặc biệt, hết sức nhạy cảm. Sản
phẩm tạo ra từ hoạt động phát thanh - truyền hình mang những giá trị to lớn,
giúp công chúng hiểu rõ các hiện tượng trong xã hội và tạo ra dư luận xã hội
về các vấn đề đó. Chính vì vậy, các quốc gia đều rất coi trọng hoạt động phát
thanh - truyền hình. Ở Việt Nam, nhận thức rõ vai trò to lớn của phát thanh truyền hình, pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể nội dung hoạt động phát
thanh - truyền hình. Nội dung đó được thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của
phát thanh - truyền hình. Theo đó, hoạt động báo chí phát thanh - truyền hình
15


phải thực hiện thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình trong nước và thế
giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; phản ánh và hướng
dẫn dư luận xã hội liên quan đến vấn đề; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do
ngôn luận của nhân dân, cung cấp thông tin cho nhân dân... Như vậy, trách
nhiệm của phát thanh - truyền hình là phải phản ánh hiện thực khách quan,
mang đến cho công chúng những thông tin cần thiết về tình hình trong nước
và thế giới một cách nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ nhất.
Đối với các nhà báo, trong hoạt động của mình cũng cần phải xử sự
theo quy định của pháp luật. Pháp luật về phát thanh - truyền hình quy định cụ
thể cách xử sự được phép (quyền) và những xử sự bắt buộc (nghĩa vụ) của
nhà báo. Theo đó, nhà báo có quyền được khai thác và được cung cấp thông
tin trong hoạt động phát thanh - truyền hình; được hưởng một số chế độ ưu
tiên cần thiết trong hoạt động phát thanh - truyền hình; được pháp luật bảo hộ
trong hoạt động nghề nghiệp; không ai được đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu,
cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật. Bên cạnh những
quyền lợi đó, nhà báo cũng phải có nghĩa vụ đem đến cho công chúng những
thông tin trung thực đồng thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội

dung tác phẩm phát thanh - truyền hình; không được lạm dụng danh nghĩa nhà
báo để sách nhiễu và làm việc vi phạm pháp luật...
1.2.2.2. Tổ chức triển khai các quy định về lĩnh vực phát thanh truyền hình
(1) Về nội dung dịch vụ phát thanh – truyền hình
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 06/2016/NĐ-CP thì Các
loại dịch vụ phát thanh, truyền hình, bao gồm:
- Dịch vụ truyền hình mặt đất: Là loại hình dịch vụ phát thanh, truyền
hình sử dụng hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng truyền hình mặt đất kỹ
16


thuật số để cung cấp các kênh chương trình phát thanh, truyền hình đến người
sử dụng dịch vụ;
- Dịch vụ truyền hình cáp: Là loại hình dịch vụ phát thanh, truyền hình
sử dụng hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng truyền hình cáp áp dụng các
công nghệ khác nhau để cung cấp các kênh chương trình phát thanh, truyền
hình đến người sử dụng dịch vụ, gồm: Dịch vụ truyền hình cáp tương tự; dịch
vụ truyền hình cáp kỹ thuật số; dịch vụ truyền hình cáp giao thức Internet
(IPTV);
- Dịch vụ truyền hình qua vệ tinh: Là loại hình dịch vụ phát thanh,
truyền hình sử dụng hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng truyền hình qua vệ
tinh để cung cấp các kênh chương trình phát thanh, truyền hình đến người sử
dụng dịch vụ;
- Dịch vụ truyền hình di động: Là loại hình dịch vụ phát thanh, truyền
hình sử dụng hạ tầng kỹ thuật truyền dẫn phát sóng truyền hình di động mặt
đất, truyền hình di động qua vệ tinh, truyền hình qua mạng viễn thông di động
mặt đất để cung cấp các kênh chương trình phát thanh, truyền hình đến người
sử dụng dịch vụ;
- Dịch vụ phát thanh, truyền hình trên mạng Internet: Là loại hình dịch
vụ phát thanh, truyền hình sử dụng kết nối mạng Internet thông qua các địa

chỉ tên miền của trang thông tin điện tử hoặc các địa chỉ Internet xác định do
Việt Nam quản lý để truyền tải các kênh chương trình phát thanh, truyền hình
đến người sử dụng dịch vụ.
(2) Về cung cấp dịch vụ phát thanh - truyền hình
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật Báo chí 2016 thì điều kiện cấp
giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền gồm:
- Là doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải được sự chấp thuận về chủ trương của Thủ tướng Chính phủ;
17


- Có phương án cung cấp dịch vụ phù hợp với chiến lược, kế hoạch và
chính sách của Nhà nước về phát triển dịch vụ truyền dẫn, phát sóng phát thanh,
truyền hình; (Điểm này được sửa đổi bởi Điểm b Khoản 6 Điều 20 Luật sửa đổi,
bổ sung một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018)
- Có giấy phép thiết lập mạng viễn thông hoặc có thỏa thuận được thuê,

sử dụng mạng viễn thông đáp ứng yêu cầu kỹ thuật truyền dẫn dịch vụ đến
các thuê bao kết nối với mạng viễn thông đó đối với dịch vụ truyền hình mặt
đất, dịch vụ truyền hình cáp, dịch vụ truyền hình qua vệ tinh, dịch vụ truyền
hình di động; có xác nhận đăng ký tên miền “.vn” hoặc địa chỉ Internet xác
định để cung cấp dịch vụ đến thuê bao đối với dịch vụ phát thanh, truyền hình
trên mạng Internet;
- Có phương án bố trí nguồn nhân lực; đầu tư trang thiết bị kỹ thuật; dự
báo và phân tích thị trường dịch vụ; kế hoạch kinh doanh và giá cước dịch vụ,
dự toán chi phí đầu tư và chi phí hoạt động ít nhất trong 02 năm đầu tiên; văn
bản chứng minh vốn Điều lệ hoặc văn bản giá trị tương đương đáp ứng yêu
cầu triển khai cung cấp dịch vụ theo dự toán;
- Có phương án thiết lập trung tâm thu phát tất cả các kênh phát thanh,
kênh truyền hình trong nước, kênh chương trình nước ngoài tập trung ở một địa

Điểm, trừ các kênh thuộc danh Mục kênh phát thanh, kênh truyền hình phục vụ
nhiệm vụ chính trị, thông tin, tuyên truyền thiết yếu của quốc gia, địa phương,
gồm thiết kế kỹ thuật hệ thống thiết bị xử lý tín hiệu, thiết bị kết nối đến mạng
truyền dẫn, thiết bị quản lý dịch vụ, quản lý thuê bao và bảo vệ nội dung;

- Có phương án áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại phù hợp quy định
của Nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật bảo đảm chất lượng dịch vụ
và an toàn, an ninh thông tin; xử lý kịp thời các sự cố kỹ thuật bảo đảm tính
liên tục của dịch vụ và quyền lợi của thuê bao;

18


×