Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






MAI PHƯƠNG LAN







THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






MAI PHƯƠNG LAN






THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI





Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 603801





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Hoàng Anh






Hà Nội – 2013
MUC LUC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích nghiên cứu
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
5. Phương pháp nghiên cứu:
6. Điểm mới của luận văn

7. Cơ cấu luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy
1.1. Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.2. Khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.2.3. Chủ thể của pháp luật phòng cháy và chữa cháy
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.1. Đặc điểm tình hình thành phố Hà Nội liên quan đến thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy
2.1.1. Tình hình kinh tế, xã hội liên quan
2.1.2. Tình hình cháy nổ
2.2.2. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về phòng cháy và chữa cháy
2.2. Hoạt động thực hiện pháp luật về phòng cháy và chữa cháy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
2.2.1. Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy chữa cháy
2.2.3. Kiểm tra an toàn phòng cháy chữa cháy và xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy
2.3.4. Thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy
2.3. Hoạt động thực hiện pháp luật về phòng cháy và chữa cháy tại các khu dân cư và các cơ sở
2.3.1. Hoạt động thực hiện pháp luật về phòng cháy chữa cháy tại các khu dân cư
2.3.2. Hoạt động thực hiện pháp luật về phòng cháy và chữa cháy tại cơ sở
2.4. Đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.4.2. Thành tựu đạt được
2.4.2. Khó khăn, bất cập
Chương 3: Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.1. Dự báo về yêu cầu phòng cháy chữa cháy trên thành phố Hà Nội trong thời gian tới

3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên thành
phố Hà Nội.
3.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền và giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng cháy và
chữa cháy
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật là cơ sở pháp lý của hoạt động thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
3.2.3. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về phòng
cháy chữa cháy nói chung và lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy nói riêng
3.2.4. Nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong thực hiện
pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.
KẾT LUẬN


1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN










2
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trật tự hóa,
củng cố và phát triển các quan hệ xã hội theo những định hướng mong muốn
nhằm đạt được những mục đích nhất định. Nhưng điều đó chỉ đạt được khi
những chỉ dẫn (mệnh lệnh) của các quy định pháp luật được thực hiện trong đời
sống xã hội, thể hiện ở hành vi hợp pháp thực tế của các tổ chức, các cơ quan,
của những người có quyền hạn, chức vụ và các cá nhân. Vì vậy, xây dựng một
hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện rất quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng
hơn là phải thực hiện chúng trong thực tế. Ngày nay, song song với vấn đề xây
dựng pháp luật, chúng ta càng quan tâm hơn và đề cao việc đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật trên thực tế. Bởi lẽ, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật là điều
kiện không thể thiếu của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Lĩnh vực Phòng cháy chữa cháy là một trong những lĩnh vực xã hội có tầm
quan trọng đặc biệt. Bởi vì, thiệt hại về cháy nổ tuy không diễn ra hàng ngày và
không phải là một vấn đề có tính thời sự như vi phạm an toàn giao thông, an toàn
thực phẩm…nhưng nếu các vụ cháy đã xảy ra trên thực tế thì thiệt hại về người
và tài sản là rất lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. “Thủy, hỏa, đạo tặc” vốn là một câu nói truyền miệng của ông
cha ta từ ngày xưa và đến nay dường như vẫn đúng khi nguy cơ cháy, nổ luôn
tiềm ẩn trong sinh hoạt, sản xuất thường ngày, luôn là sự đe dọa lớn thứ hai đến
an toàn cuộc sống của người dân và dễ đem đến những hậu quả khó lường. Theo
Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy, trong 6 tháng đầu năm 2011, cả nước đã

xảy ra 873 vụ cháy, gây thiệt hại chết 23 người, bị thương 80 người, thiệt hại về
3
tài sản trị giá 306, 551 tỷ đồng. Trong đó, xảy ra 14 vụ cháy lớn, gây thiệt hại về
tài sản khoảng 213 tỷ đổng. Cháy rừng xảy ra 167 vụ, gây thiệt hại 1.858 ha
rừng[8]. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy
thành phố Hà Nội vừa thống kê tình hình an toàn cháy nổ trong 8 tháng đầu năm
2011. Theo đó, tính đến ngày 15.8.2011, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 157 vụ
cháy nổ, làm 5 người chết, 15 người bị thương, thiệt hại ước tính hơn 19,5 tỷ
đồng [19]. Những con số đã cho thấy một khi cháy, nổ đã xảy ra thì thiệt hại rất
khó lường.
Từ năm 2001, Luật Phòng cháy chữa cháy đã được ban hành và sau đó là
những văn bản dưới luật quan trọng khác như: Nghị định số 35/2003/NĐ-CP
ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Phòng cháy và chữa cháy, Thông tư số 04/2004/TT-BCA về việc hướng dẫn thi
hành Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy, Nghị định số 123/2005/NĐ-
CP ngày 05/10/2005 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy…Các quy định của pháp luật về phòng cháy
chữa cháy đã phần nào đó tác động đến nhận thức và ý thức thực hiện quy định
pháp luật về phòng cháy, chữa cháy của nhân dân. Mặc dù vậy, đến nay, một số
những quy định đã trở nên không phù hợp như các quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy, các quy định về bảo hiểm cháy
nổ bắt buộc…dẫn đến hiệu quả công tác phòng cháy chữa cháy trong nhân dân
chưa cao và ý thức thực hiện pháp luật về phòng cháy chữa cháy của nhân dân
luôn là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những vụ cháy, nổ. Thực
tiễn cho thấy rằng việc thực hiện pháp luật về phòng chữa cháy đang bộc lộ rất
nhiều bất cập, ví dụ: Nhiều hộ gia đình chưa có phương tiện chữa cháy, chưa
4
nắm được phương pháp chữa cháy tại chỗ; một số khu đô thị, khu công nghiệp,
chung cư cao tầng không đảm bảo các điều kiện an toàn về phòng cháy chữa

cháy như không có lối thoát nạn, không có giải pháp chống cháy lan…; hoạt
động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về pháp luật phòng cháy và chữa cháy
chưa thường xuyên liên tục; hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phòng cháy và chữa cháy còn nhiều hạn chế, chưa có tác dụng răn đe, ngăn
ngừa vi phạm pháp luật…
Với tất cả những lý do về lý luận và thực tiễn trên, đề tài “Thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội” mong
muốn bước đầu tiếp cận toàn diện việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy chữa cháy của người dân, của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm
vi thành phố Hà Nội để đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy, làm rõ những hạn chế, bất
cập của một số quy định pháp luật về phòng cháy chữa cháy hiện hành, đưa ra
giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những quy định pháp luật đó nói riêng và
giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về phòng cháy chữa cháy nói chung, qua
đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật về phòng cháy chữa cháy trên thành phố
Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với lĩnh vực phòng cháy chữa cháy, hiện chưa có đề tài nào nghiên cứu về
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy. Chỉ có một số đề tài
thuộc cấp trường do các giảng viên của trường Đại học Phòng cháy chữa cháy
nghiên cứu ở các khía cạnh như: xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng cháy chữa cháy, cải cách hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy,
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy trên từng địa bàn
5
cụ thể…Có thể dẫn chứng như đề tài khoa học cấp trường “Xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy” năm 2011 của TS. Hoàng
Ngọc Hải, đề tài khoa học cấp cơ sở “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong
lĩnh vực phòng cháy chữa cháy đối với chung cư cao tầng trên địa bàn thành phố
Hà Nội theo chức năng của lực lượng cảnh sát phòng cháy chữa cháy” năm 2012
của TS. Hoàng Ngọc Hải và Ths.Vũ Thị Thanh Thủy, đề tài cấp nhà nước “Nâng

cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy” do TS.
Đào Hữu Dân chủ biên…
Đề tài nghiên cứu hiện tại đang ở trạng thái mới bắt đầu, hướng đến việc
tiếp cận toàn diện về quá trình thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy
chữa cháy, trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý luận thực hiện
pháp luật nói chung của các nhà nghiên cứu đi trước và thực tiễn thực hiện pháp
luật phòng cháy chữa cháy tại thành phố Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và
chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra một số giải pháp đảm bảo
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2001 đến
2011.
Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn sự nghiên cứu của
mình về các vấn đề sau:
- Đối với hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước về
phòng cháy và chữa cháy, luận văn tập trung nghiên cứu bốn hoạt động: Ban
6
hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng
cháy và chữa cháy; Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về phòng cháy
chữa cháy; Kiểm tra an toàn về phòng cháy chữa cháy và xử lý vi phạm về
phòng cháy chữa cháy; Thẩm duyệt về phòng cháy chữa cháy.
- Đối với hoạt động thực hiện pháp luật của hộ gia đình, cá nhân và các cơ
quan, tổ chức khác, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật
của những đối tượng này tại khu dân cư và các cơ sở.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp tổng
hợp, so sánh và phân tích. Trước hết trình bày những lý thuyết và sau đó là phân

tích thực trạng và chứng minh bằng số liệu thực tế.
6. Điểm mới của luận văn
Đề tài bước đầu mạnh dạn nghiên cứu một cách toàn diện hoạt động thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà
Nội và đưa ra một số giải pháp thực tế đảm bảo thực hiện pháp luật về phòng
cháy chữa cháy của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên thành phố Hà Nội.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật và thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật và thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy
1.1. Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy
Ngay từ những năm sáu mươi, trong điều kiện miền Bắc bắt đầu bắt tay vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên xuất phát điểm từ một nền kinh tế sản xuất
nhỏ, tự cấp tự túc với hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; hình thức quản lý
chủ yếu theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hóa; một số cơ sở công nghiệp mới bắt
đầu được hình thành…thì công tác phòng cháy và chữa cháy đã được chú trọng
như một nhiệm vụ song hành với xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Với mục
đích bảo vệ tài sản của nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo
vệ trật tự an ninh chung, ngày 27 tháng 9 năm 1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã ban hành pháp lệnh số 53 quy định việc quản lý của nhà nước đối với công
tác phòng cháy và chữa cháy. Ngay từ Điều 1, Pháp lệnh đã quy định việc phòng

cháy và chữa cháy là nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi công dân phải tích cực đề
phòng để không xảy ra nạn cháy, luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, triệt để
tuân theo các quy định về phòng cháy, chuẩn bị sẵn sàng để khi cần có thể chữa
cháy kịp thời và hiệu quả.
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, do sự phát triển của nền kinh tế-
xã hội, đặc biệt là quá trình hội nhập, mở cửa, liên doanh liên kết với nước ngoài
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã làm cho các đối tượng
quản lý phát triển rất đa dạng với tính chất và yêu cầu về phòng cháy và chữa
cháy ngày càng đa dạng, phức tạp, đòi hỏi ở trình độ kỹ thuật cao. Sự xuất hiện
các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao; sự
hình thành những ngành kinh tế mũi nhọn như: khai thác chế biến dầu mỏ khí
8
đốt, khai khoáng, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng…mà đặc điểm của quá
trình này là việc sử dụng và sản xuất ra ngày càng tăng các nguyên liệu, các chất
dễ cháy, đã đặt ra những yêu cầu mới cho công tác phòng cháy và chữa cháy.
Trên phương diện xã hội: việc hình thành các trung tâm đô thị lớn tập trung, các
khu chung cư cao tầng và quá trình đô thị hoá nông thôn đã đặt ra những yêu cầu
mới cho công tác phòng cháy và chữa cháy ngay từ khâu thiết kế quy hoạch đến
việc bảo đảm an toàn phòng cháy chữa cháy cho cộng đồng dân cư tại những khu
đô thị tập trung. Mặt khác, đời sống của các tầng lớp dân cư ngày càng cao được
chứng tỏ bằng việc sử dụng ngày càng nhiều các thiết bị, đồ dùng có giá trị kinh
tế lớn nhưng cũng ẩn chứa trong đó đặc tính nguy hiểm liên quan đến cháy, nổ.
Những tác động về kinh tế, xã hội tới an toàn phòng cháy và chữa cháy đã dẫn
đến yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy ngày phải được nâng cao, trong đó
không thể thiếu việc cần phải luật hóa các quy định về phòng cháy và chữa cháy.
Trong khi đó việc quản lý nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy
còn nhiều bất cập, việc thực hiện trách nhiệm phòng cháy và chữa cháy của một
bộ phận những người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cơ sở, đơn vị chưa tốt. Ý thức
phòng cháy và chữa cháy của một bộ phận nhân dân chưa cao, thiếu nhiều điều
kiện đảm bảo an toàn phòng cháy và chữa cháy. Trong sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ còn nặng về lợi nhuận mà coi nhẹ việc bảo đảm an toàn về phòng cháy
và chữa cháy. Phong trào quần chúng làm công tác phòng cháy và chữa cháy
chưa được sâu rộng. Lực lượng phòng cháy và chữa cháy tuy đã cùng toàn dân
hạn chế được những thiệt hại về cháy và có những sự trưởng thành, song nhìn
chung còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phương tiện trang bị cho lực lượng phòng cháy chữa cháy vừa
thiếu lại vừa yếu, đặc biệt là đối với các phương tiện chữa cháy các đám cháy
9
lớn, phức tạp, cháy nhà cao tầng, cháy rừng…Nhiều vụ cháy lớn gây thiệt hại
nghiêm trọng đã xảy ra, tình hình cháy và thiệt hại do cháy gây ra có xu hướng
ngày càng tăng. Cơ sở hạ tầng về giao thông, nguồn nước phục vụ công tác
phòng cháy chữa cháy chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là tại các thành phố lớn.
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu cũng tác động không nhỏ tới tình hình cháy, nổ.
Trong xu thế hội nhập, mở rộng đầu tư hợp tác với nước ngoài cũng như
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhiều công ty,
các đối tác nước ngoài tiếp tục mở rộng hợp tác và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Yêu cầu phòng cháy và chữa cháy lại liên quan hầu hết đến các lĩnh vực nên một
trong những vấn đề mà các nhà đầu tư quan tâm là tìm hiểu các quy định về
phòng cháy và chữa cháy của Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta lại thiếu những quy
định về phòng cháy chữa cháy và chưa được luật hóa trong khi các nước có nền
công nghiệp phát triển đều có Luật phòng cháy và chữa cháy.
Trước những tình hình trên, ngày 12/7/2001, Chủ tịch nước ký Lệnh số 08
công bố ban hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và ngày 4/10/2001, Luật Phòng
cháy và chữa cháy có hiệu lực thi hành. Đây là nguồn cơ bản nhất của pháp luật
về phòng cháy và chữa cháy Việt Nam hiện hành. Sự ra đời của Luật phòng cháy
và chữa cháy đã cho thấy vai trò quan trọng thiết yếu của công tác phòng cháy và
chữa cháy. So với Pháp lệnh số 53/1961/PL-UBTVQH của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định việc quản lý đối với công tác phòng cháy và chữa cháy thì
Luật phòng cháy và chữa cháy đã cho thấy tính toàn diện và hệ thống hơn. Trong
các quy định của Luật đã đề cập đến hầu hết các vấn đề của phòng cháy và chữa

cháy từ phòng cháy, chữa cháy, tổ chức lực lượng phòng cháy và chữa cháy
phương tiện phòng cháy và chữa cháy đến đầu tư cho hoạt động phòng cháy và
chữa cháy, quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy. Luật phòng cháy và
10
chữa cháy là đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật về phòng cháy và chữa
cháy, điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý nhà
nước về phòng cháy và chữa cháy nhằm bảo đảm an toàn cháy, nổ; cho việc tổ
chức, triển khai kịp thời công tác chữa cháy, cứu người, cứu tài sản, chống cháy
lan và nhanh chóng dập tắt đám cháy, góp phần bảo đảm an ninh và trật tự an
toàn xã hội.
Tổng kết 10 năm thi hành Luật phòng cháy chữa cháy (10/2002- 10/2011),
trong Báo cáo của Chính phủ trình bày trước Hội nghị đã chỉ rõ mục tiêu, yêu
cầu cơ bản của công tác phòng cháy chữa cháy trong những năm tới là: Kiềm chế
sự gia tăng cả về số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra, hạn chế đến mức thấp
nhất các vụ cháy lớn gây hậu quả nghiêm trọng, phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [9]. Mười năm qua, dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền các cấp và sự cố gắng thực hiện
của các Bộ, ngành, địa phương, trong đó nòng cốt là lực lượng Công an, công tác
phòng cháy và chữa cháy ở nhiều nơi đã đi vào nền nếp; phong trào toàn dân
tham gia phòng cháy, chữa cháy được đẩy mạnh và ngày càng phát triển sâu
rộng; hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy được tăng cường…,
những kết quả đó đã từng bước kiềm chế sự gia tăng về số vụ cháy và thiệt hại
do cháy gây ra trong thời gian qua, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội phục vụ sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Mười năm qua là thời gian để minh chứng rằng Luật phòng cháy và chữa
cháy là cơ sở lý luận quan trọng, đảm bảo hiệu quả hoạt động phòng cháy và
chữa cháy của các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, các nhân trong việc thực hiện
pháp luật về phòng cháy và chữa cháy. Luật phòng cháy và chữa cháy ra đời đã
góp phần nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong hoạt động phòng cháy và
11

chữa cháy đồng thời là cơ sở để xã hội hóa hoạt động phòng cháy và chữa cháy.
Bên cạnh đó, Luật phòng cháy và chữa cháy cũng là cơ sở để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy. Hiệu lực của các quy định pháp
luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy được nâng cao do Nhà nước sử
dụng nhiều các văn bản luật. Đây là những điều kiện tiền đề rất thuận lợi cho
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy. Chính vì lý do này nên các quy định của pháp luật phòng cháy và chữa
cháy đã từng bước phát huy được tác dụng của chúng trong thực tế.
Để cụ thể hóa Luật phòng cháy và chữa cháy, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật phòng cháy và chữa cháy; Nghị định số 123/2005/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy. Ngay
mới đây, vào tháng 5 năm 2012, Chính phủ đã ban hành tiếp hai nghị định Nghị
định số 46/2012/NĐ-CP ngày 22/5/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 35/2003/NĐ-CP và Nghị định số 52/2012/NĐ-CP ngày 14/06/2012 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy thay
thế Nghị định 123/2005/NĐ-CP. Ngoài Luật phòng cháy và chữa cháy còn có
các văn bản dưới luật khác có chứa đựng một số quy định về phòng cháy và chữa
cháy như:
Nghị định số 64/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý vật liệu nổ công
nghiệp.
Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ quy định về
phòng cháy và chữa cháy rừng.
12
Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ
quy định về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.
Quyết định số 95/2009/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc cấm sản xuất, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, đốt
và thả “đèn trời”.

Thông tư số 04/2004/TT-BCA ngày 31 tháng 3 năm 2004 của Bộ công an
về việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 4/4/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng cháy và chữa
cháy.
Thông tư số 220/2006/TT-BCN ngày 29 tháng 3 năm 2005 của Bộ công
nghiệp hướng dẫn quản lý, sản xuất, kinh doanh cung ứng và sử dụng vật liệu nổ
công nghiệp.
Do lĩnh vực phòng cháy chữa cháy cũng là một lĩnh vực có những đặc thù
riêng về tính chất kỹ thuật nên các văn bản quy phạm pháp luật quy định các tiêu
chuẩn kỹ thuật an toàn phòng cháy chữa cháy cũng thuộc hệ thống pháp luật về
phòng cháy chữa cháy đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong
hoạt động có liên quan đến phòng cháy chữa cháy phải chấp hành nghiêm chỉnh.
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn phòng
cháy chữa cháy là những quy định khoa học nhằm đảm bảo những yêu cầu an
toàn, ngăn ngừa cháy nổ xảy ra, đồng thời đáp ứng những yêu cầu về công tác
chống cháy lan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cứu người, cứu tài sản khi có
cháy xảy ra. Tiêu chuẩn về phòng cháy chữa cháy là quy định về mức giới hạn
của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý (các thông số, chỉ số kỹ thuật…) được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để áp dụng trong hoạt động phòng
cháy chữa cháy. Theo Điều 6 Nghị định 35/2003/NĐ-CP thì Tiêu chuẩn về
13
phòng cháy chữa cháy là tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng gồm tiêu chuẩn Việt Nam
và tiêu chuẩn ngành có liên quan hoặc chuyên về phòng cháy chữa cháy. Các
tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn phòng cháy chữa cháy có vai trò đặc biệt quan trọng
trên góc độ pháp lý, nó chính là những quy định cụ thể nhằm đảm bảo cho những
quy định của luật, nghị định, pháp lệnh… được thực hiện trong thực tế có hiệu
lực và hiệu quả. Hiện có 06 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; 50 Tiêu chuẩn Việt
Nam; 10 Tiêu chuẩn ngành; 11 Tiêu chuẩn xây dựng có liên quan đến an toàn
phòng cháy chữa cháy thuộc các lĩnh vực: An toàn cháy trong xây dựng nhà,
công trình, nhà cao tầng, chợ, trung tâm thương mại, kho tàng; trong sản xuất,

chế biến kinh doanh xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, điện; các hệ thống phòng chống
cháy, nổ; về trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện phòng cháy chữa cháy…Như
vậy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy chữa cháy bao gồm
các văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý và các văn bản quy phạm
pháp luật quy định các tiêu chuẩn, quy chuẩn về phòng cháy chữa cháy được ban
hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các văn bản quy phạm pháp luật
về phòng cháy và chữa cháy như đã được nêu ở trên- trong đó quan trọng nhất là
Luật phòng cháy và chữa cháy 2001.
Phòng cháy và chữa cháy là nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả các cơ quan,
tổ chức, cá nhân và hộ gia đình. Nhà nước ta đã coi vấn đề phòng cháy và chữa
cháy là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo an toàn trật tự xã hội
và phát triển kinh tế đất nước.
1.2. Khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy
14
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật- Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội thì thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [9, tr.494]. Cũng theo giáo
trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội thì thực hiện pháp
luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ
thể pháp luật [13, tr.494]. Như vậy, về cơ bản, quan niệm thực hiện pháp luật
trong hai cuốn giáo trình trên là tương đồng nhau và qua đó có thể thấy bản chất
của thực hiện pháp luật chính là tạo lập các hành vi hợp pháp của các tổ chức và
cá nhân trong xã hội. Các tổ chức và cá nhân khi gặp phải những tình huống thực
tế mà pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình sẽ chuyển hóa một
cách sáng tạo các quy định pháp luật vào tình huống cụ thể của cuộc sống thông

qua hành vi hợp pháp của mình.
Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy như sau: Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng
cháy và chữa cháy là hoạt động của các cơ quan, các tổ chức, các hộ gia đình và
các cá nhân nhằm đưa các quy phạm pháp luật về phòng cháy và chữa cháy vào
cuộc sống. Nói cách khác, đó là quá trình vật chất hóa, hiện thực hóa các quy
phạm pháp luật về phòng cháy và chữa cháy. Như vậy, thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy luôn là hoạt động có ý thức và mục đích rõ
ràng.
1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa
cháy
15
Về lý luận và thực tiễn, do Nhà nước ban hành nhiều loại quy phạm pháp
luật khác nhau để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cơ bản khác nhau nên việc
thực hiện pháp luật được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Khoa học
pháp lý xác định thực hiện pháp luật có thể được tiến hành thông qua các hình
thức như tuân thủ pháp luật (hay tuân theo pháp luật), chấp hành pháp luật (hay
thi hành pháp luật), sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật [9, tr.468]. Cả bốn
hình thức thực hiện pháp luật này gắn bó chặt chẽ với nhau và hiệu quả của
chúng đều phụ thuộc vào bốn điều kiện cơ bản: trình độ phát triển về kinh tế, văn
hóa, xã hội; mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật; sự trong sạch và tinh
thông của bộ máy nhà nước và trình độ ý thức pháp luật của các cá nhân, các
nhóm xã hội và của cả xã hội.
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế, không thực hiện những hoạt động mà pháp luật cấm.
Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này. Các quy phạm
pháp luật ngăn cấm quy định những điều không được làm, khi đó các chủ thể
pháp luật có ý thức tự kiềm chế mình để không làm điều pháp luật cấm. Sự tự
kiềm chế này phụ thuộc rất lớn vào trình độ văn hóa nói chung và trình độ ý thức
pháp luật nói riêng của mỗi cá nhân. Nếu trình độ ý thức pháp luật của mỗi cá

nhân cao thì cá nhân đó luôn có ý thức tự kiềm chế mình để không thực hiện
những hành vi bị pháp luật cấm. Ngược lại, khi trình độ ý thức pháp luật của cá
nhân thấp thì sự kiềm chế một cách tự giác của cá nhân không thể diễn ra thường
xuyên, thậm chí có lúc cá nhân đó cũng không thể tự kiềm chế mình được dẫn
đến vi phạm pháp luật.
Thứ hai, chấp hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích
16
cực. Nghĩa vụ pháp lý là sự cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp
luật nhằm đáp ứng lợi ích của Nhà nước, xã hội và các cá nhân khác trong những
hoàn cảnh, điều kiện, tình huống cụ thể mà pháp luật đã dự liệu từ trước. Nghĩa
vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật bắt buộc và được đảm
bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Các quy phạm pháp luật bắt
buộc chỉ được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất thông qua
những hành vi tích cực có ý thức tự giác của các chủ thể pháp luật. Nhà nước
yêu cầu tất cả các đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
mọi công dân không những thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình mà còn
thực hiện các nghĩa vụ đó một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất. Điều đó
chỉ có thể đạt được khi có trình độ ý thức pháp luật cao của các cá nhân, các
nhóm xã hội và của toàn xã hội. Bất cứ hành vi nào trốn tránh nghĩa vụ pháp lý
hoặc thực hiện nghĩa vụ pháp lý không đầy đủ đều bị coi là vi phạm pháp luật và
chủ thể của nó bị nghiêm trị theo pháp luật.
Thứ ba, sử dụng pháp luật là thực hiện các quyền mà pháp luật đã quy định
trong giới hạn cho phép của pháp luật. Quyền pháp lý là khả năng mà pháp luật
trao cho mỗi cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân được tiến hành những hành vi nhất định trong phạm vi, giới
hạn cho phép của pháp luật khi họ ở vào những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống
mà pháp luật đã trù tính từ trước. Quyền pháp lý được quy định trong các quy
phạm pháp luật trao quyền (hay các quy phạm pháp luật cho phép) và được đảm
bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Nhà nước cũng yêu cầu các

chủ thể pháp luật phải thực hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, có nghĩa
là chỉ được tiến hành những hành vi nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép
của pháp luật. Và điều này cũng chỉ có thể đạt được khi tồn tại một trình độ ý
17
thức pháp luật cao của cá nhân, các nhóm xã hội và của toàn xã hội. Bất cứ hành
vi nào được thực hiện có ý thức mà vượt quá phạm vi, giới hạn cho phép của
pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật và chủ thể của nó phải bị xử lý theo
pháp luật.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước,
do các cơ quan, tổ chức hoặc các cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện
hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Về thực
chất, áp dụng pháp luật chính là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc cá nhân được Nhà nước trao quyền nhằm tổ chức cho các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và các cá nhân khác
thực thi các quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất.
Đây là hình thức thực hiện pháp luật mang tính tổng hợp, trong đó có cả ba hình
thức thực hiện pháp luật là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp
luật. Nhà nước đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các
quy phạm pháp luật hiện hành một cách đúng pháp luật vào từng trường hợp cụ
thể, đối với những cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức cụ thể. Cụm từ “đúng
pháp luật” ở đây nghĩa là phải theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung mà pháp luật
đã quy định nhằm bảo đảm tính hợp lý, hợp tình và chính xác. Ở đây, mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, sự trong sạch và vững mạnh của bộ máy nhà
nước, trình độ cao của ý thức pháp luật đóng vai trò quyết định tới hiệu quả áp
dụng pháp luật. Bởi vậy, việc tạo lập và nâng cao không ngừng ba tiền đề, điều
kiện đó là nhiệm vụ chung của cả Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, nếu hiểu khái niệm “thực hiện pháp luật” như trên thì chưa phản
ánh hết nội dung, thực chất của vấn đề. Trên thực tế, hình thức hoạt động thực
18

hiện pháp luật phong phú, đã dạng và phức tạp hơn. Bởi vậy, nên hiểu khái niệm
“thực hiện pháp luật” theo nghĩa rộng, tức là không chỉ gồm bốn hình thức là
tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật,
mà còn là các hình thức hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của Nhà nước.
Nội dung các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật cũng khá phong phú, đa
dạng, phức tạp, nhưng chủ yếu là các hoạt động triển khai thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và của chính mình và
việc áp dụng các biện pháp tổ chức, kỹ thuật- pháp lý nhằm bảo đảm cho hoạt
động đó có hiệu quả trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Cụ thể là những hoạt động
như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giải thích,
giáo dục pháp luật, huy động sức người sức của để thực thi pháp luật; kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý các vi phạm pháp luật theo pháp luật; sử
đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật do chính mình ban hành và kịp
thời đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật hiện hành
do các cơ quan nhà nước khác ban hành; tổng kết, đánh giá việc thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước mà mình đảm nhiệm.
Đối với lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy, trước hết cần khái quát các
hành vi hay các hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật phòng cháy và
chữa cháy. Xuất phát điểm của việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật phòng
cháy và chữa cháy là ở quan niệm về “cháy”. Sự cháy là phản ứng ôxy hóa có
tỏa nhiệt và phát sáng. Song không phải tất cả các sự cháy nói chung đều thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật phòng cháy và chữa cháy. Theo Khoản 1 Điều 3
Luật PCCC, cháy được hiểu là: “Trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được
có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường”. Như vậy, chỉ
những trường hợp xảy ra cháy ngoài ý muốn, có thể gây thiệt hại về người, tài
19
sản và ảnh hưởng đến môi trường mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật phòng
cháy và chữa cháy. Trong các quy định của Luật phòng cháy và chữa cháy có đề
cập đến trường hợp “nổ” song cần hiểu “nổ” là do cháy nhanh, các trường hợp
nổ của vũ khí, đạn không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật phòng cháy và chữa

cháy. Quan niệm về cháy, nổ như vậy là tiền đề để xem xét các hoạt động của
con người trong phòng ngừa cháy nổ; trong công tác chữa cháy và các hoạt động
khác có liên quan đến phòng cháy và chữa cháy. Các hoạt động trong lĩnh vực
phòng cháy và chữa cháy luôn là hành vi của những cá nhân, những cơ quan, tổ
chức cụ thể nhằm thực hiện các quy định về phòng cháy và chữa cháy. Các hành
vi trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy có thể khái quát thành các nhóm hành
vi sau:
- Nhóm các hành vi trong việc ngăn ngừa, hạn chế, loại trừ các nguyên
nhân, điều kiện gây cháy và chống cháy lan như: Bảo đảm việc quản lý chặt chẽ,
sử dụng an toàn các chất cháy, nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị dụng cụ sinh lửa,
sinh nhiệt; bảo đảm an toàn cháy ngay từ khi thiết kế quy hoạch xây dựng mới
công trình, đô thị, khu dân cư…; các giải pháp về tổ chức và kỹ thuật trong việc
bảo đảm các điều kiện an toàn phòng cháy chữa cháy đối với các cơ sở, khu dân
cư, hộ gia đình, phương tiện giao thông cơ giới và đối với rừng; trong công tác
tuyên truyền, kiểm tra, xử lý vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy.
- Nhóm các hành vi trong công tác chữa cháy: tổ chức cứu người, cứu tài
sản, chống cháy lan; huy động lực lượng, phương tiện, tài sản để chữa cháy và
đảm bảo các điều kiện chữa cháy có hiệu quả; bảo đảm các điều kiện phục vụ
chữa cháy…
- Nhóm các hành vi trong công tác xây dựng lực lượng phòng cháy chữa
cháy: việc tổ chức, quản lý và duy trì hoạt động của lực lượng dân phòng, lực
20
lượng phòng cháy chữa cháy cơ sở và chuyên ngành; huấn luyện, bồi dưỡng
nghiệp vụ và kiến thức về phòng cháy chữa cháy, xây dựng và thực hiện các chế
độ, chính sách đối với người tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy…
- Nhóm các hành vi trong trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện phòng
cháy chữa cháy, phương tiện cứu nạn cứu hộ; trong hoạt động sản xuất kinh
doanh phương tiện và các dịch vụ về phòng cháy chữa cháy.
- Nhóm các hành vì liên quan đến tạo nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài
chính cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy.

Theo đó, với đối tượng điều chỉnh như trên mà Luật phòng cháy và chữa
cháy và các văn bản chi tiết hướng dẫn thi hành đã điều chỉnh hầu hết các lĩnh
vực hoạt động có liên quan đến phòng cháy và chữa cháy. Trong đó, có thể phân
ra thành các nhóm: Nhóm các quy định nhằm bảo đảm việc phòng ngừa cháy, nổ
trong các cơ sở, khu dân cư, hộ gia đình và phương tiện giao thông cơ giới và đối
với rừng; Nhóm các quy định làm cơ sở cho công tác thẩm duyệt, kiểm định, cấp
giấy phép, cấp giấy chứng nhận, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm quy
định về phòng cháy chữa cháy; Nhóm các quy định nhằm bảo đảm cho công tác
tổ chức chữa cháy; Nhóm các quy định là cơ sở cho công tác xây dựng lực lượng
phòng cháy chữa cháy tại chỗ; Nhóm các quy định về trách nhiệm phòng cháy
chữa cháy của các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong phòng cháy
chữa cháy.
Từ những trình bày trên, có thể khái quát nội dung thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy như sau:
Tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy, tức là các chủ
thể pháp luật tự kiềm chế mình để không thực hiện những hành vi mà pháp luật
về phòng cháy và chữa cháy cấm. Nhà nước yêu cầu các chủ thể pháp luật phải

×