Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

GIÁO dục PHÁP LUẬT về PHÒNG, CHỐNG xâm hại TÌNH dục đối với NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN từ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.51 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG CHÂU HÒA

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI
TÌNH DỤC ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN LINH GIANG

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Phú Yên, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Trương Châu Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ


PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN ............................................................................................................... 11
1.1. Các khái niệm cơ bản về phòng chống xâm hại tình dục cho người chưa
thành niên. ....................................................................................................... 11
1.2. Nội dung giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục cho người
chưa thành niên. .............................................................................................. 17
1.3. Các phương pháp giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục
cho người chưa thành niên .............................................................................. 19
1.4. Các chủ thể thực hiện giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình
dục cho người chưa thành niên ....................................................................... 21
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục phòng, chống xâm hại tình
dục cho người chưa thành niên. ...................................................................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở
HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN .......................................................... 29
2.1. Khái quát về địa bàn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ................................. 29
2.2. Tình hình giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục cho NCT
ở huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ....................................................................... 32
2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 43


CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT PHÒNG,
CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở
HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN .......................................................... 50
3.1. Phương hướng đề xuất các giải pháp ....................................................... 50
3.2. Các giải pháp. ........................................................................................... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

TTPBPL

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật

2

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

KT-XH

Kinh tế - xã hội

4

HĐND


Hội đồng nhân dân

5

UBND

Ủy ban nhân dân

6

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

7

XHTD

Xâm hại tình dục

8

GDPL

Giáo dục pháp luật

9

PCXHTD


Phòng, chống xâm hại tình dục

10

NCTN

Người chưa thành niên


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong công tác nâng cao ý
thức, tuân thủ pháp luật và là nội dung quan trọng của công tác thực thi pháp
luật, tăng cường phấp chế xã hội chủ nghĩa. GDPL là cầu nối để nội dung
pháp luật đi vào cuộc sống. Cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật cho đồng bộ và phù hợp với pháp luật quốc tế
là đòi hỏi cấp bách của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, để pháp luật được tuân
thủ, thực thi có hiệu quả thì nhận thức về pháp luật phải đầy đủ; người dân
phải có tri thức pháp luật. Khi nói về vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định rõ công tác GDPL là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng
tạo, bởi lẽ công tác giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật có tốt thì việc tuẩn thủ và thực hiện
pháp luật mới đầy đủ và đúng quy định. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho
cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua
đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, Chỉ thị 32 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng về công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, khẳng định:

“Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt công
tác này để góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân”.
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật của Việt Nam về phòng,
chống xâm hại tình dục nói chung; phòng, chống xâm hại tình dục đối với
người chưa thành niên nói riêng đã từng bước hoàn thiện, đồng bộ và đi vào
1


cuộc sống; Quốc hội đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều đạo luật quan trọng,
như: Luật Trẻ em; Luật Giáo dục; Luật Phòng, chống mua bán người; Bộ
Luật Hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Lao động; Luật Hôn nhân và gia đình;
Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Quyết định 1555/QĐ0TTg ngày
17/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020; Quyết định 361/QĐ-TTg ngày
7/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ duyệt Chương trình phòng, chống mại
dâm giai đoạn 2016 – 2020; Quyết định số 1863/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn
2020-2025; theo đó, mục tiêu phấn đấu và các hoạt động được quy định: và
một số luật, pháp lệnh khác… quy định nhiều nội dung trực tiếp hoặc gián
tiếp về việc phòng, chống, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đối với người chưa
thành niên khỏi bị bạo lực, xâm hại. Có thể nói đây là những căn cứ pháp lý
quan trọng tạo thành hành lang có giá trị trong công tác phòng, chống xâm hại
tình dục đối với người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
phòng, chống bạo lực, xâm hại tình dục bước đầu phát huy hiệu quả. Các bộ,
ngành, đoàn thể trung ương và chính quyền các địa phương đã chủ động hơn
trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống
bạo lực, xâm hại tình dục. Một số bộ, ngành chức năng đã tổ chức các hoạt
động tập huấn, tư vấn cộng đồng về phòng chống bạo lực, xâm hại tình dục.

Chính quyền một số địa phương đã chủ động phối hợp với MTTQ và các
đoàn thể chính trị xã hội để gắn vào hoạt động của các tổ chức này việc động
viên nhân dân thi đua thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa khu dân cư” và cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, xây
dựng xã, phường phù hợp với trẻ em, không có tình trạng bạo lực, xâm hại
tình dục. Sự vào cuộc của các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần
2


không nhỏ trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
phòng, chống bạo lực, xâm hại tình dục, tạo hiệu ứng xã hội trong việc bảo vệ
trẻ em khỏi nguy cơ bị bạo lực, xâm hại và các nguy cơ khác.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tích đạt được thì tác động của mặt trái
của cơ chế thị trường; sự phân hóa giàu nghèo và phân tầng xã hội một cách
nhanh chóng, mạnh mẽ ở nước ta đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, trong
đó có tình trạng bạo lực, xâm hại tình dục người chưa thành niên. Do ảnh
hưởng của văn hóa không lành mạnh, trên mạng internet ngày càng xuất hiện
nhiều trang web “đen”, tung lên hàng loạt clip, bài viết khiêu dâm ... đã dẫn
đến nguy cơ cao nảy sinh bạo lực, xâm hại nói chung và bạo lực, xâm hại
người chưa thành niên nói riêng; mặt khác các Nghị quyết để thực hiện chính
sách, pháp luật về trẻ em trên địa bàn các địa phương mà hầu hết đều được
lồng ghép vào Nghị quyết về kinh tế-xã hội có liên quan, nên chưa tập trung
được nhiều nguồn lực cho công tác trẻ em nói chung, phòng chống xâm hại
trẻ em nói riêng; số lượng các văn bản chỉ đạo, điều hành còn hạn chế. Nhiều
văn bản nội dung chưa bám sát vào tình hình thực tế, do vậy chưa thật sự đáp
ứng yêu cầu phòng, chống xâm hại trẻ em tại địa phương; công tác kiểm tra,
thanh tra của cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý nhà nước về công tác bảo vệ
trẻ em, phòng chống xâm hại trẻ em là một trong những biện pháp hiệu quả
nhất để đánh giá chất lượng tổ chức triển khai thực hiện nhưng tại nhiều địa
phương lại chưa được tiến hành thường xuyên, chưa được thực hiện thực chất,

dẫn đến chưa kịp thời phát hiện những thiếu sót, vi phạm pháp luật về phòng,
chống xâm hại trẻ em. Theo đánh giá và nhận định của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội thì tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em ở nước ta trong
những năm gần đây có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, gây bức xúc,
nhức nhối trong dư luận xã hội: bạo lực, xâm hại không chỉ diễn ra trong cộng
đồng hay tại nơi làm việc mà còn diễn ra ngay tại gia đình, nhà trường và các
3


cơ sở chăm sóc trẻ em tập trung. Đối tượng có hành vi xâm hại đa dạng và
phức tạp: người thân, người quen, thầy giáo… Xâm hại tình dục đối với
người chưa thành niên đang là vấn đề “nóng” trong xã hội. Những thông tin
liên quan đến xâm hại tình dục người chưa thành niên đã thu hút nhiều sự
quan tâm và lo ngại cho xã hội, gây nhức nhối trong dư luận, vấn nạn này dấy
lên hồi chuông báo động về sự suy đồi nhân cách, đạo đức của một số đối
tượng tha hóa, biến chất, không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển
về thể chất, tâm sinh lý của người chưa thành niên mà còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình hình an ninh trật tự. Xâm hại tình dục người chưa thành niên
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển lành mạnh của họ. Nạn nhân của
xâm hại tình dục có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, một
số trường hợp mang thai ngoài ý muốn, tình trạng nạo phá thai, có thể bị mất
khả năng sinh sản. Khi bị xâm hại tình dục, có những trường hợp người bị
xâm hại tình dục rơi vào trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, xấu hổ, sống mặc cảm,
không muốn giao tiếp với mọi người, ít nói, nhút nhát, học kém, một số trường
hợp con đi học thì thường trốn học, bỏ nhà ra đi do mặc cảm. Đây cũng chính
là những nguy cơ đẩy người chưa thành niên tham gia vào tệ nạn xã hội và
hoạt động tội phạm khiến số vụ phạm tội tiếp tục gia tăng. Nghiêm trọng hơn,
ở góc độ xã hội thì tình trạng xâm hại tình dục người chưa thành niên lại là
mầm mống phát triển của nhiều loại tội phạm khác như cướp tài sản, giết
người, cố ý gây thương tích vv… Chính vì vậy việc lựa chọn đề tài “Giáo dục

pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên
từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên” làm đề tài nghiên cứu khóa luận
chương trình đào tạo thạc sĩ luật học có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu.
- Luận án tiến sĩ chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
4


“Điều tra vụ án xâm hại tình dục trẻ em” (2016), tác giả Hà Minh Tân đã trình
bày tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận về điều tra vụ án xâm hại tình
dục trẻ em. Đồng thời, tác giả của chỉ ra tình hình, đặc điểm hình sự, dự báo
và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra vụ án xâm hại
tình dục trẻ em ở Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm
“Hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự trong phòng ngừa tội phạm xâm
hại tình dục trẻ em ở các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam Bộ” (2018), tác
giả Nguyễn Ngọc Trai đã nêu rõ tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận về
hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự trong phòng ngừa tội phạm xâm hại
tình dục trẻ em ở các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam Bộ. Đồng thời, tác giả
cũng chỉ ra tình hình, đặc điểm hình sự, dự báo và đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động trên.
- Tác giả Đỗ Lan Phương trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn phòng ngừa
xâm hại tình dục trẻ em của Australia (2017) đã đưa ra một số kiến nghị đối
với công tác phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam. Tác giả nhấn
mạnh việc cần khẩn trương tiến hành rà soát và giám sát việc thực hiện các
quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ em để từ đó
có cơ sở xác định những nguyên nhân và diễn biến tội phạm xâm hại tình dục
trẻ em. Đồng thời, cần ban hành văn bản quy định về tiêu chuẩn đạo đức và
điều kiện lý lịch tư pháp đối với người làm việc trong các lĩnh vực chăm sóc

và thường xuyên tiếp xúc với trẻ em; trên cơ sở đó, cần thiết lập hệ thống
thường xuyên giám sát công tác bảo vệ trẻ em và cấp thẻ hoặc giấy chứng
nhận 12 cho người đủ điều kiện mới được làm những công việc liên quan tới
chăm sóc và giáo dục trẻ em; cần bổ sung nội dung giáo dục giới tính vào
chương trình giảng dạy tại các trường học và cung cấp kỹ năng phòng vệ
trước các hành vi xâm hại cho trẻ em từ 4 - 5 tuổi trở lên. Ngoài ra, cần đẩy
5


mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật liên quan tới phòng, chống tội phạm
xâm hại tình dục cho cha mẹ, thành viên gia đình và người giám hộ của trẻ
em. Tác giả còn chỉ ra sự cần thiết của việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về bảo vệ trẻ em và phòng, chống các tội xâm hại trẻ em
qua nhiều kênh thông tin đại chúng nhằm góp phần giáo dục cộng đồng, đảm
bảo phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Đặc biệt, cần nghiên cứu để ban
hành quy định về sự tham gia của bác sĩ tâm lý, chuyên gia trị liệu và nhân
viên công tác xã hội trong quá trình giải quyết vụ việc xâm hại tình dục trẻ em
nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và quan trọng hơn
cả là cung cấp điều trị, khắc phục kịp thời và hạn chế hậu quả lâu dài tới sức
khỏe của nạn nhân trẻ em.
- Đề tài “Phòng ngừa các tội phạm xâm hại tình dục trên địa bàn thành
phố Hà Nội" của tác giả Lưu Hải Yến, (2016): Dưới góc độ tội phạm học,
luận văn đi sâu phân tích tình hình tội phạm của nhóm tội xâm phạm tình dục,
đưa ra một số nguyên nhân và đề xuất được các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm phù hợp với đặc điểm cụ thể và yêu
cầu phòng ngừa tình hình tội phạm của các tội xâm phạm tình dục trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Các công trình khoa học cho thấy những vấn đề liên quan đến giáo
dục pháp luật đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết
dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa

có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo
dục pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành
niên nói chung và nghiên cứu tại một địa phương cụ thể nói riêng. . Vì vậy,
việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục pháp luậtvề phòng, chống xâm hại
tình dục đối với người chưa thành niên tại tỉnh Phú Yên nói chung và huyện
6


Tuy An nói riêng. Đây cũng là lý do để đề tài này được lựa chọn bởi sự
không trùng lặp của đề tài với các công trình có liên quan được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực tiễn và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục đối với người
chưa thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật nói chung và
về giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa
thành niên nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật phòng,
chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh
Phú Yên; đánh giánhững kết quả, phân tích được những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế;
- Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa
thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về công tác giáo dục

pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên và
thực trạng công tác giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với
người chưa thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật
về phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên tại huyện
7


Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục
pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên tại
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên từ năm 2015 - 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả nghiên cứu, phân tích thực trạng dựa trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên học thuyết của chủ nghĩa
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng, Nhà
nước Việt Nam về công tác giáo dục pháp luật phòng, công tác phòng chống
xâm hại tình dục đối với người chưa thành niên, bảo vệ quyền trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Một là thu thập thông tin
Nguồn dữ liệu thứ cấp: Thu thập thông tin từ nguồn đã có sẵn, đây là
những dữ liệu đã qua tổng hợp và xử lý gồm sách, báo, tạp chí chuyên ngành,
các văn bản luật, nghị định, thông tư của Quốc hội, chính phủ, các bộ ngành
về tổ chức công tác giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại đối với người
chưa thành niên.… Các dữ liệu từ nguồn này vừa là cơ sở lý luận vừa mang
tính thời sự.
Nguồn dữ liệu sơ cấp: Điều tra thu thập thông tin từ các Phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội; Phòng Tư pháp; Công an huyện Tuy An…

hoặc thông qua quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, phỏng vấn trực tiếp, điều
tra để thu nhận thông tin.
- Hai là xử lý phân tích dữ liệu: Các dữ liệu thu thập được sẽ được kiểm
tra, sàng lọc, sau đó sử dụng công cụ word, excel để tiến hành thống kê, phân
tích. Bên cạnh đó, tiến hành xử lý số liệu bằng cách sử dụng sơ đồ, bảng
biểu... để phân tích, tổng hợp và đánh giá.
8


- Ba là trình bày, diễn giải và phân tích dữ liệu: Kết quả nghiên cứu sẽ
được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ, đồ thị thống kê. Tác giả tiến hành
diễn giải và phân tích kết quả khảo sát căn cứ vào các quy định pháp lý về
thực hiện đối với người chưa thành niên.
- Bốn là thực hiện điều tra thông qua Phỏng vấn sâu: tác giả lựa chọn
cán bộ thực hiện làm công tác Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội
cấp huyện, xã của huyện Tuy An để thu thập thông tin và đánh giá quá trình
thực hiện chính sách để có đánh giá, phân tích từ phía người thực thi chính
sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn thực hiện công
tác giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người chưa
thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; từ đó chỉ ra những bất cập của quá
trình thực hiện công tác này, cũng như đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người
chưa thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục pháp luật phòng, chống xâm hại tình dục đối với người
chưa thành niên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm
hại tình dục cho người chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật Phòng, chống xâm hại tình
dục cho người chưa thành niên ở huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Các giải pháp về giáo dục pháp luật Phòng, chống xâm hại
9


tình dục cho người chưa thành niên ở huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

10


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
XÂM HẠI TÌNH DỤC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Các khái niệm cơ bản về phòng chống xâm hại tình dục cho
người chưa thành niên.
1.1.1. Người chưa thành niên.
- Khái niệm người chưa thành niên:
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đưa ra khái niệm về
người chưa thành niên: Người chưa thành niên là những người chưa hoàn
toàn phát triển đầy đủ về nhân cách và thể chất, chưa có đầy đủ quyền lợi và
nghĩa vụ của một công dân. Mỗi quốc gia căn cứ vào tình hình phát triển kinh
tế- xã hội, phúc lợi xã hội, văn hóa dân tộc… mà có những quy định khác
nhau về độ tuổi của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với

trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.Theo các văn kiện quốc tế khác
như: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với
người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the
Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng
dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên
(United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/
Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990 thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi,
người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên
(Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm
trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
11


Mỗi quốc gia căn cứ trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần
của con người, văn hóa và truyền thống dân tộc để đưa ra những quy định,
cụ thể hóa bởi các giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật.
Ở Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được xác định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự ... và một số văn bản quy phạm pháp
luật khác. Hầu hết, các văn bản đều xác định độ tuổi của ngưởi chưa thành
niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Xuất phát từ thực tiễn: Người chưa thành niên là người chưa phát triển
hoàn thiện về mặt thể chất và tinh thần, do đó, họ cần dược bảo vệ, chăm sóc
đặc biệt.
Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, khái niệm "người chưa
thành niên" được giải thích như sau: Người chưa thành niên là người chưa đủ
mười tám tuổi. Theo các quy định của Bộ luật Hình sự thì có các quy định
riêng để quy định về người chưa thành niên phạm tội, theo đó thì người chưa
thành niên phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi.
Qua các cách tiếp cận trên thì tác giả thống nhất khái niệm được sử

dụng trong luận văn là: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên”.
- Đặc điểm của người chưa thành niên:
* Về trạng thái cảm xúc: Ở độ tuổi “đang lớn”, nhận thức chưa đầy đủ
và hoàn thiện. Ở độ tuổi này, các em tò mò về tình dục và các vấn đề liên
quan. Mặt khác, tư tưởng giáo dục giới tính và tình dục vẫn được nhiều người
tranh cãi, cho rằng, dạy các em khác nào “vẽ đường cho hươu chạy”, cho nên
việc thời lượng và chất lượng giang dạy còn nhiều bàn cãi.
Bên cạnh đó, nhận thức của người chưa thành niên chưa đầy đủ do vậy
12


nhiều khi các em khó kiềm chế cảm xúc. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của
những thông tin tràn lan trên các trang mạng không lành mạnh cũng ảnh
hưởng tới tâm lý của các em.
Về nhu cầu độc lập: Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là lứa tuổi “nổi
loạn”. Các em cho rằng mình đã “trưởng thành” “đủ lớn” và tự quyết định
những vấn đề mà mình cho rằng “đúng”; hoặc làm ngược lại những ý kiến
của người khác để khẳng định mình.
- Về nhu cầu khám phá cái mới: Tìm hiểu, khám phá cái mới là một
trong những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò
mò và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân
dẫn tới hành vi phạm tội của các em , nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát của gia đình, xã hội, không tự chủ được bản thân và không phân
biệt được phải trái, đúng sai.
1.1.2. Xâm hại tình dục
- Khái niệm xâm hại tình dục: Xâm hại tình dục hiện đang trở thành
vấn đề nóng bỏng và nhức nhối hiện nay khi càng ngày càng có nhiều vụ việc
xâm hại tình dục trẻ em được phát hiện. Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn tại nhiều

quan điểm khác nhau về khái niệm xâm hại tình dục. Theo Điều 34, Công ước
về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm 1989: “Các quốc gia thành viên cam
kết bảo vệ trẻ em chống lại mọi hình thức bóc lột cũng như lạm dụng tình
dục. Vì mục đích này các quốc gia thành viên sẽ đặc biệt thực hiện mọi biện
pháp thích hợp của từng nước, của hai bên và của nhiều bên để ngăn ngừa:
+ Có hành vi (hành động hoặc không hành động) nhằm xúi giục hay ép
buộc trẻ em tham gia hành vi tình dục bất hợp pháp nào;
+ Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong hành vi mãi dâm hay
các hành vi bất hợp pháp khác;
+ Sử dụng/ bắt buộc người chưa thành niên tham gia biểu diễn hay thực
13


hiện các hành vi khêu dâm, khêu gợi.”
Dù luật pháp mỗi nơi định nghĩa mỗi khác, nhưng cụm từ “xâm hại tình
dục” có thể được hiểu là hành vi tình dục không tự nguyện, trong một số
trường hợp còn dùng đến vũ lực. Xâm hại tình dục có thể bao gồm việc lạm
dụng tình dục trẻ vị thành niên, loạn luân, cưỡng hiếp và bóc lột tình dục bởi
những người được xem là đáng tin cậy, chẳng hạn như bác sĩ, giáo viên hoặc
giới tăng lữ. Các nạn nhân bị quấy rối tình dục, dù qua lời nói hay về thể chất,
thường bị đe dọa hãm hại nếu nói ra sự việc.
Cho đến hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất hoàn toàn về
xâm hại tình dục ở người chưa thành niên. Tuy nhiên đặc trưng chính yếu của
hành vi xâm hại tình dục người chưa thành niên là quá trình trong đó một
người trưởng thành lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cưỡng ép người
chưa thành niên tham gia vào hoạt động tình dục.
Mục 8, Điều 4, Luật trẻ em 2016 đưa ra khái niệm: Xâm hại tình dục
trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em
tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng
dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm,

khiêu dâm dưới mọi hình thức.
Trong Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định các tội về xâm hại tình dục,
gồm: Tội hiếp dâm; Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Tội cưỡng dâm; Tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục
đích khiêu dâm.
Tác giả sử dụng khái niệm này để hiểu về xâm hại tình dục người chưa
thành niên được đề cập trong luận văn. Xâm hại tình dục người chưa thành
niên là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người
14


chưa thành niên tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm
hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người chưa thành niên và sử dụng
người chưa thành niên vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.
- Hậu quả của việc xâm hại tình dục:
Xâm hại tình dục để lại hậu quả nặng nề cả về thể chất và tâm lý. Nạn
nhân của xâm hại tình dục có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình
dục, một số trường hợp mang thai ngoài ý muốn, tình trạng nạo phát thai, có
thể bị mất khả năng sinh sản. Khi bị xâm hại tình dục, có những trường hợp
người bị xâm hại tình dục rơi vào trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, xấu hổ, sống
mặc cảm, không muốn giao tiếp với mọi người, ít nói, nhút nhát, học kém, một
số trường hợp thường trốn học, bỏ nhà ra đi do mặc cảm. Đây cũng chính là
những nguy cơ đẩy người chưa thành niên tham gia vào tệ nạn xã hội và hoạt
động tội phạm khiến số vụ phạm tội tiếp tục gia tăng...
1.1.3. Phòng, chống xâm hại tình dục cho người chưa thành niên
- Khái niệm phòng, chống xâm hại tình dục cho người chưa thành niên.
Phòng, chống xâm hại tình dục NCTN là quá trình huy động rộng rãi cá
nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, nhà trường, quần chúng nhân dân tham gia

phòng, ngừa tệ nạn xâm hại tình dục người chưa thành niên; tuyên truyền,
giáo dục về phòng, chống xâm hại tình dục NCTN nhằm nâng cao nhận thức,
xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho NCTN, trẻ em; giảm thiểu
nguy cơ NCTN bị xâm hại tình dục hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc biệt.
Phòng, chống xâm hại tình dục cho người chưa thành niên là hệ thống
các giải pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng xâm hại tình dục trẻ em; trong đó, có
thể kể đến các nội dung: Hoàn thiện cơ chế thực hiện chính sách và pháp luật
trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm xâm phạm tình dục; Tăng
cường công tác tuyên truyền về hậu quả của xâm hại tình dục; kỹ năng phòng,
chống các hành vi xâm hại tình dục; Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
15


phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục cho người chưa
thành niên....
1.1.4. Khái niệm giáo dục pháp luật
Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ PBGDPL thì: Giáo dục pháp luật là quá
trình truyền tải pháp luật đến đối tượng mà chủ thể truyền tải hướng tới với
nhiều hình thức, cách thức, phương pháp khác nhau (thuyết phục, nêu gương,
ám thị...) qua đó, từng bước giúp đối tượng hình thành tình cảm, niềm tin
pháp luật, giúp đối tượng nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật [7, tr7].
Hiện nay, chủ thể thực hiện giáo dục pháp luật chủ yếu là hệ thống cơ
quan trong hệ thống chính trị chính trị nhà nước từ Trung ương đến địa
phương các cấp. Ngoài ra, còn có các tổ chức xã hội với mục đích an sinh.
Bởi lẽ, pháp luật là do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực thực hiện về mục
tiếu và lý tưởng của Đảng cầm quyền; và giá trị nhân đạo được thế giới nhân
loại văn minh thừa nhận, cam kết thực hiện.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đồng ý với khái niệm
chung nhất trong đó giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục

cho người chưa thành niên là một nội dung nằm trong giáo dục pháp luật
cho người chưa thành niên: “Giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có dự định của chủ thể giáo dục
pháp luật tác động lên đối tượng giáo dục pháp luật một cách có hệ thống
và thường xuyên, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm
và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành”.
Khác với hoạt động tuyên truyền, quá trình giáo dục thì tác động
thường xuyên, lâu dài. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành hoạt động
thường xuyên trong các hoạt động của gia đình, trường học, tập thể lao
động, tổ chức Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Một vấn đề đặt ra là người
16


giáo dục phải hiểu biết được trình độ, đặc điểm của người được giáo dục,
biết cách truyền tải nó và phải là tấm gương, là hình mẫu trong việc thực
hiện pháp luật
1.1.5. Khái niệm giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình
dục.
Qua phân tích khái niệm giáo dục pháp luật tại phần 1.2.1 nêu trên,
tác giả thống nhất khái niệm giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại
tình dục như sau: “Giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có dự định của chủ thể giáo dục pháp
luật tác động lên đối tượng giáo dục pháp luật một cách có hệ thống và
thường xuyên, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý về phòng,
chống xâm hại tình dục, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của
các quy định pháp luật hiện hành về phòng, chống xâm hại tình dục”.
1.1.6. Khái niệm giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình
dục cho người chưa thành niên.
Qua phân tích khái niệm giáo dục pháp luật tại phần 1.2.1 nêu trên,
tắc giả thống nhất khái niệm giáo dục pháp luật về phòng, chống xâm hại

tình dục cho người chưa thành niên như sau: “Giáo dục pháp luật về phòng,
chống xâm hại tình dục cho người chưa thành niên là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có dự định của chủ thể giáo dục pháp luật tác động lên
đối tượng giáo dục pháp luật – người chưa thành niên - một cách có hệ
thống và thường xuyên, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý về
phòng, chống xâm hại tình dục, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của các quy định pháp luật hiện hành về phòng, chống xâm hại tình dục”.
1.2. Nội dung giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại tình dục
cho người chưa thành niên.
a. Các nội dung cơ bản.
17


Các nội dung chính mà hoạt động giáo dục pháp luật tuyên truyền, đó
là:
- Các trình tự, thủ tục pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và
thực hiện các nghĩa vụ của công dân, đặc biệt là các trình tự, thủ tục liên quan
đến giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế tiếp công dân; quy chế dân chủ cơ
sở;
- Hệ thống Luật liên quan đến phòng chống xâm hại tình dục nói
chung; phòng, chống xâm hại tình dực cho người chưa thành niên nói riêng,
cụ thể: Luật Trẻ em; Luật Giáo dục; Luật Phòng, chống mua bán người; Bộ
Luật Hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Lao động; Luật Hôn nhân và gia đình;
Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Quyết định 1555/QĐ-TTg ngày
17/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020; Quyết định 361/QĐ-TTg ngày
7/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ duyệt Chương trình phòng, chống mại
dâm giai đoạn 2016 – 2020 và một số luật, pháp lệnh khác... Cần phải lưu ý
rằng, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với người chưa thành niên không có
nghĩa là yêu cầu hay bắt buộc họ học thuộc các điều luật, mà là giúp họ hiểu

được nội dung, tinh thần của các quy phạm pháp luật, nhận thức đầy đủ về vai
trò, sự cần thiết của pháp luật trong đời sống xã hội, hiểu được lý lẽ sâu xa
của pháp luật thực định; cung cấp cho họ kỹ năng, kiến thức cần thiết, cụ thể..
Trên cơ sở đó, người chưa thành niên biết cách vận dụng linh hoạt, chủ động
để bảo vệ bản thân nhận thức và lên án các hành vi lệch chuẩn.
- Tăng cường PBGDPL; ưu tiên PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu
số; thanh thiếu niên; người khuyết tật; người lao động; nạn nhân của tội phạm
mua bán người, bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em; người mới ra tù tái hòa nhập
cộng đồng; người bị áp dụng biện pháp tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do;
ngư dân...
18


1.3. Các phương pháp giáo dục pháp luật về phòng chống xâm hại
tình dục cho người chưa thành niên
Phương pháp giáo dục pháp luật là hệ thống những cách thức tuyên
truyền, tác động của chủ thể giáo dục nhằm hình thành ở người chưa thành
niên ý thức tuân thủ pháp luật, có năng lực xử lý hiệu quả các tình huống
pháp luật nảy sinh trong cuộc sống.
Hiện nay có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau về phương pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật đối với người chưa thành niên nói chung. Theo quan
điểm tiếp cận của các nhà luật học, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
đối với người chưa thành niên bao gồm phương pháp thuyết trình, phương pháp
nêu vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận, pưqhương pháp
thông tin pháp luật Dưới góc độ khoa học giáo dục, các nhà giáo dục học cho
rằng phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm nhóm phương pháp
thuyết phục, nhóm phương pháp tổ chức hoạt động, nhóm phương pháp kích
thích và điều chỉnh hành vi... Trong những tình huống, điều kiện khác nhau, có
thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Nhưng nhìn chung, chủ thể phổ biến,
giáo dục thường sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là: phương pháp giáo dục

truyền thống và phương pháp giáo dục hiện đại.
Với đặc trưng của phổ biến, giáo dục pháp luật đối với người chưa
thành niên nên bao gồm hệ thống phương pháp như sau: phương pháp thuyết
phục, phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật, phương pháp thông tin
pháp luật thuyết phục, phương pháp nói chuyện, trao đổi về pháp luật, phương
pháp giảng dạy pháp luật trong nhà trường; hệ thống phương pháp tổ chức
hoạt động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hành vi và thói quen thực hiện
pháp luật; hệ thống phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi.
Thuyết phục là phương pháp dùng lý lẽ xác đáng, dùng dẫn chứng sinh
động, dùng các tấm gương tiêu biểu trong lịch sử và trong thực tế để phân
19


tích, chứng minh, khuyên giải...giúp người chưa thành niên nhận thấy, hiểu và
tin, từ đó tuân theo những giá trị pháp luật.
Phương giải thích pháp luật được sử dụng chủ yếu khi Nhà nước cần
phổ biến một văn bản pháp luật mới thì các chủ thể nghiên cứu có những
phân tích và bình luận để làm rõ khái niệm, nội dung,…
Phương pháp thông tin pháp luật là phương pháp sử dụng các phương
tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, truyền thanh, tạp chí chuyên
ngành pháp luật, các loại hình nghệ thuật như phim, ảnh... để chuyển tải các
nội dung, thông tin về thực hiện pháp luật...
Phương pháp giảng dạy pháp luật trong các nhà trường là cách thức
hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh, sinh viên, trong đó
chủ yếu sử dụng các phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm thoại,
phương pháp trực quan, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp dự án....
và tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ngoài giờ lên lớp.
Phương pháp tổ chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo,
hành vi và thói quen là phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật đối với

người chưa thành niên tốt nhất để tập dượt, rèn luyện các hành vi pháp luật
trong cuộc sống. Bởi vì, bản chất của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là
quá trình tổ chức cuộc sống và các hoạt động thực tiễn cho người chưa thành
niên. Phương pháp này gồm 2 phương pháp cụ thể là:
+ Luyện tập là tổ chức cho người chưa thành niên thực hiện một cách
đều đặn, có kế hoạch, có hệ thống các hành động nhất định nhằm biến chúng
thành thói quen, thành thuộc tính bền vững của nhân cách.
+ Rèn luyện là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục đưa học
sinh vào cuộc sống xã hội để tham gia vào các hoạt động khác nhau nhằm thể
nghiệm và thể hiện ý thức, thái độ, tình cảm của mình đồng thời xâm nhập
20


×