Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.62 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2011-2015
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. Phan Trung Hiền

Trình Quốc Hy
MSSV: 5115714
Lớp: Luật Hành chính – K37

Cần Thơ 12/2014


Lời cảm ơn
Có sự thành công như ngày hôm nay người viết luôn được sự hỗ trợ, giúp đỡ
Gia đình, của quý Thầy Cô, và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi
đến quý Thầy cô Khoa Luật – Trường Đại Học Cần Thơ lời cảm ơn thành kính
nhất đã truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học
tập tại trường. Em xin chân thành cảm ơn TS. Phan Trung Hiền đã tận tình hướng
dẫn để em hoàn thành được luận văn về lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính đối


với người chưa thành niên. Nếu không có thầy hướng dẫn, dạy bảo thì em nghĩ
luận văn này của em rất khó có thể hoàn thiện được.
Bài luận văn được thực hiện trong khoảng thời gian gần năm tháng, bước
đầu đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về đối tượng người chưa thành niên và quy định
xử phạt hành chính đối với họ người viết còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do
vậy, không tránh khỏi những thiếu sót, người viết rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của quý Thầy Cô và bạn đọc để kiến thức của người viết
trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.

Chúc tất cả mọi người sức khỏe – thành đạt
Sinh viên

Trình Quốc Hy


NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
---------------------………………………………………..…………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………

Cần Thơ, ngày……tháng……..năm 2014


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
---------------------………………………………………..…………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
Cần Thơ, ngày……tháng……..năm 2014


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................. 4
1.1 Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên ................................................. 4
1.1.1 Khái niệm................................................................................................................. 4
1.1.2 Đặc điểm .................................................................................................................. 6
1.1.2.1 Đặc điểm sinh lý ............................................................................................... 6
1.1.2.2 Đặc điểm tâm lý ................................................................................................ 7
1.2 Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính ............................ 8
1.3 Các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên ......................................................................................................................... 10
1.3.1 Chủ thể ................................................................................................................. 10
1.3.2 Khách quan .......................................................................................................... 10

1.3.3 Chủ quan ............................................................................................................. 12
1.3.4 Khách thể.............................................................................................................. 13
1.4 Mục đích, ý nghĩa của việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên ..................................................................................................... 13
1.5 Một số nguyên nhân ảnh hướng đến việc vi phạm hành chính của người chưa
thành niên ........................................................................................................................ 14
CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ..................................................................... 17
2.1 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về xử phạt hành chính đối với
người chưa thành niên ..................................................................................................... 17
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1997 ................................................................................... 17
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến trước khi Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu
lực .................................................................................................................................. 19
2.1.3 Giai đoạn từ khi Luật xử lý vi phạm hành chính được ban hành đến nay ...... 20
2.2 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính ............................................................ 21
2.2.1 Các hình thức xử phạt chính ................................................................................ 23
2.2.2 Các hình thức xử phạt bổ sung ............................................................................. 23
2.2.3 Các biện pháp khắc phục hậu quả ........................................................................ 23
2.3 Thẩm quyền xử phạt, nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt .. 24
2.3.1 Thẩm quyền xử phạt .............................................................................................. 24
2.3.1.1 Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ..................................... 24


2.3.1.2 Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ......................................... 25
2.3.2 Nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt ..................................... 29
2.3.2.1 Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo mức tối đa
của khung tiền phạt và phân định thẩm quyền ........................................................... 29
2.3.2.2 Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo lĩnh vực
quản lý nhà nước và phân định thẩm quyền ................................................................ 30
2.3.2.3 Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trên cơ sở thời

điểm thụ lý vi phạm và phân định thẩm quyền ............................................................ 30
2.3.2.4 Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường
hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính và phân định
thẩm quyền ................................................................................................................... 30
2.4 Quy trình xử phạt ...................................................................................................... 31
2.5 Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm
hành chính ........................................................................................................................ 32
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN............................................................................................ 33
3.1 Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật hành chính hiện nay ........ 33
3.1.1 Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật trên cả nước ................. 33
3.1.2 Thực trạng công tác xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên ở thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang trong lĩnh vực giao thông đường bộ hiện
nay...................................................................................................................................... 34
3.2 Thuận lợi và khó khăn trong việc thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật xử
phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên ............................................ 37
3.2.1 Thuận lợi .............................................................................................................. 38
3.2.2 Khó khăn .............................................................................................................. 39
3.3 Nguyên nhân dẫn đến khó khăn khó khăn bất cập trong thực tiễn áp dụng quy
định xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên .............................. 40
3.4 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính
đối với người chưa thành niên ........................................................................................ 41
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế hệ trẻ, thế hệ thanh thiếu niên hay cụ thể hơn là người chưa thành niên chính
là chủ nhân tương lai của đất nước. Họ nắm giữ vận mệnh của đất nước trong tay, hành
động của họ quyết định sự phát triển hay suy thoái của một quốc gia. Để một quốc gia
phát triển giàu mạnh với một nền văn hóa văn minh thì ngay từ đầu phải tạo cho người
chưa thành niên có những suy nghĩ, hướng đi và mục tiêu đúng đắn.
Từ khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động tham các
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em như Công ước về Quyền trẻ em 1989, Nguyên
tắc tối thiểu chuẩn về quản lý người chưa thành niên (Nguyên tắc Bắc Kinh) 1985…
Đồng thời nội luật hóa, xây dựng chính sách pháp luật phù hợp như: Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Dân
sự; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Xử lý vi phạm hành chính… với mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích của trẻ em cũng như quy định trách nhiệm của cha mẹ, gia đình và các tổ
chức xã hội.
Tuy nhiên, một hiện tượng đang xảy ra phổ biến tại các nước trên thế giới là tình
hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ngày càng tăng. Các nước đang nổ lực tìm
cách đảm bảo hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên phải tuân thủ theo đúng
pháp luật quốc tế về quyền con người. Để ngăn chặn, giáo dục và hạn chế lại chế lại mức
nghiêm trọng của hành vi vi phạm pháp luật cũng như yêu cầu bảo vệ trẻ em một cách tốt
nhất, thì vấn đề xử phạt đối với người chưa thành niên luôn là vấn đề cấp thiết đặt ra với
mỗi quốc gia. Đặc biệt vấn nạn người chưa thành niên vi phạm pháp luật ngày có xu
hướng tăng nhanh qua mỗi năm. Và Việt Nam cũng nằm trong số đó.
Thấy được điều này, các nhà làm luật từ đầu đã đề ra những quy định riêng biệt
được áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật nhằm giúp họ sửa chữa
sai lầm và có hướng đi đúng đắn không rơi vào con đường tội phạm, cụ thể là Luật Xử lý
vi phạm hành chính năm 2012 đã dành hẳn một phần (Phần năm – Những quy định đối
với người chưa thành niên vi phạm hành chính, gồm hai (02) chương), với mục đích ngăn
ngừa, ngăn chặn hạn chế lại hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên chưa đi
đến con đường tội phạm. Tuy nhiên, những chính sách pháp luật đó khi được áp dụng lại
là một vấn đề cần phải bàn cãi, do khi áp dụng các quy định đó còn nhiều hạn chế và bất

cập trong thực tế hiện nay. Chính vì vậy, người viết chọn đề tài “Pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên” nhằm mục đích tìm hiểu vấn đề trên.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 1

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Từ đó người viết đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập và hạn chế trên góp phần
hoàn thiện việc áp dụng pháp luật xử phạt hành chính đối với người chưa thành niên.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đề tài người viết sẽ tìm hiểu những kiến thức chung nhất
về người chưa thành niên và những quy định đối với người chưa thành niên vi phạm hành
chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, đặc biệt là việc áp
dụng quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với họ. Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng
những quy định này trong thực tiễn. Từ đó, người viết tìm ra các giải pháp nhằm cải thiện
trong vấn đề áp dụng hình thức xử phạt đối với người chưa thành niên vi phạm hành
chính hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, luận văn có phạm vi nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn xoay quanh việc xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên theo Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Cụ thể nội dung nghiên cứu
bao gồm: Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính, việc áp dụng những quy định
của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành đối với người chưa thành niên và phân
tích, đánh giá việc áp dụng hình thức xử phạt hành chính đối với người chưa thành niên.
Để thấy rõ được thực trạng người viết có nêu ra tình hình người chưa thành niên vi phạm
pháp luật ở nước ta và phân tích tình hình vi phạm hành chính của người chưa thành niên

trong lĩnh vực giao thông trên địa bàn Thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Từ đó đề
xuất những giải pháp thiết thực để khắc phục những bất cập trong việc áp dụng hình thức
xử phạt hành chính đối với người chưa thành niên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài người viết sử dụng kết hợp một số phương như sau:
Phương pháp phân tích luật viết: để hiểu rõ được các quy định của pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, người viết sẽ đi sâu phân tích
từng quy định của pháp luật tìm hiểu nội dụng của từng điều luật và các quy định có liên
quan do đó phương pháp phân tích luật viết được sử dụng chủ yếu.
Trong quá trình thực hiện người viết người viết có sử dụng phương pháp nghiên
cứu lý luận trên sách vở, tạp chí…
Ngoài ra, từ các số liệu tình hình vi phạm hành chính của người chưa thành niên
được thống kê, người viết sử dụng phương pháp phân tích số liệu, nhằm mục đích thấy rõ
được tình hình. Từ phân tích này và phân tích các quy định của pháp luật người viết sẽ
tổng hợp vấn đề đưa ra nhận định và kiến nghị cho vấn đề được xem xét.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 2

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của đề tài gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên.
Chương 1 người viết chủ yếu tìm hiểu tổng quát về khái niệm và đặc điểm tâm

sinh lý của người chưa thành niên. Bên cạnh còn tìm hiểu thêm khái niệm vi phạm hành
chính, xử phạt vi phạm hành chính, các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm hành chính
của người chưa thành niên. Từ đó người viết rút ra khái niệm “xử phạt vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên”, đồng thời người viết cũng nêu ra mục đích, ý
nghĩa của việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Chương 2: Quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên.
Chương 2 người viết tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành các quy định pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Tập chung nghiên cứu
các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên bao gồm: Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt,
nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt, quy trình xử phạt, các biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên và
nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm hành chính của người chưa thành niên.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên và giải pháp hoàn thiện.
Chương 3 người viết nêu ra tình hình người chưa thành niên vi pham hành chính
ở nước ta nói chung và tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông trên địa
bàn Thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang nói riêng, nhằm mục đích phân tích rõ tình
hình vi phạm hành chính đối tượng chưa thành niên. Đồng thời nêu ra một số thuận lợi và
khó khăn trong việc áp dụng các quy định pháp luật xử phạt vi phạm đối với người chưa
thành niên. Từ đó người viết phân tích nguyên nhân và kiến nghị một số giải pháp hoàn
thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định đó với người chưa thành niên.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 3

SVTH: Trình Quốc Hy



Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Chương này người viết chủ yếu tìm hiểu tổng quát về khái niệm và đặc điểm tâm
sinh lý của người chưa thành niên. Bên cạnh còn tìm hiểu thêm khái niệm vi phạm hành
chính, xử phạt vi phạm hành chính, các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm hành chính
của người chưa thành niên. Từ đó người viết rút ra khái niệm “xử phạt vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên”, đồng thời người viết cũng nêu ra mục đích, ý
nghĩa của việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Làm nền tảng để tìm hiểu sâu và nghiên cứu sâu hơn những quy định của pháp luật về xử
phạt hành chính đối với người chưa thành niên ở Chương 2.
1.1 Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên
1.1.1 Khái niệm
“Người chưa thành niên” không phải là một khái niệm mới, nó được sử dụng phổ
biến, đặc biệt là trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này chúng ta còn bắt
gặp khái niệm “vị thành niên”. Vậy các khái niệm này có gì giống và khác nhau? Những
người ở độ tuổi nào thì được gọi là người chưa thành niên?
Theo từ điển Tiếng Việt1 thì “thành niên” là đến độ tuổi được pháp luật công nhận
là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ; “vị thành niên” là chưa đến tuổi được pháp
luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ.
Từ điển luật học2 thì không đưa ra khái niệm “thành niên” trước mà chỉ đưa ra
khái niệm “vị thành niên” (với chú giải là: chưa thành niên) là người chưa đến tuổi được
pháp luật coi là có khả năng để sử dụng quyền, thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm.
Theo đó người chưa đủ 18 tuổi là “vị thành niên”.
Trong tiếng Hán “vị” được hiểu là “chưa tới”. Như vậy khái niệm “chưa thành
niên” cũng chính là khái niệm “vị thành niên”. Với định nghĩa thứ nhất thì việc được
pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ở đây là mang tính

chất tương đối. Cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định sẽ được coi là người thành niên và
nếu chưa đạt đến độ tuổi đó thì là người chưa thành niên, tuy nhiên là người thành niên
không có nghĩa là được hưởng tất cả mọi quyền và phải thực hiện mọi nghĩa vụ. Ví dụ,
Điều 27 Hiến pháp 2013 quy định Công dân đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc

1
2

Giáo sư T.s Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Viên ngôn ngữ học, năm 2010.
Từ điển luật học của Nxb Bách khoa-Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2006.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 4

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
hội, Hội đồng nhân, một người vừa đủ 20 tuổi tuy là đã thành niên nhưng không có các
quyền ứng cử trên, nhưng cũng không vì thế mà coi họ là người chưa thành niên.
Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó “người chưa thành niên”
là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên theo định nghĩa này thì khi chưa thành niên sẽ không
được pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm. Nhưng mọi ngành luật lại có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc điểm tâm
sinh lý của người chưa thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào các quan hệ xã hội bị
điều chỉnh bởi những quy phạm của ngành luật đó và được quy định cụ thể như sau:
- Trong Bộ luật Hình sự hiện hành, tại Điều 68 quy định: “Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật

không trái với những quy định của Chương này”. Tuy chưa đủ 18 tuổi (chưa coi là thành
niên) pháp luật vẫn quy định họ phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tại chương XXXII: quy định về thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội , cũng đề cập hai nhóm: Từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Trong Bộ luật Dân sự 2005, tại Điều 18 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên
là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Cũng theo quy
định của Bộ luật này người chưa thành niên vẫn tham gia vào các quan hệ dân sự, mà khi
đó họ phải được pháp luật công nhận là có khả năng “sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và
chịu trách nhiệm”.
- Theo Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Người lao động chưa
thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”, theo đó Bộ luật này cũng quy định quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động chưa thành niên.
- Tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp
thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính khi họ tự nguyện khai báo, thừa nhận và
thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính khi hành vi vi phạm hành chính quy định bị
phạt cảnh cáo và người chưa thành niên tự nguyện khai báo, thừa nhận về hành vi vi
phạm, thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các
văn bản pháp luật. Theo đó, quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa
thành niên.
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 5

SVTH: Trình Quốc Hy



Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về người chưa thành niên như sau: Người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi. Trong các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu đề cập
và điều chỉnh người chưa thành niên ở hai nhóm: Nhóm thứ nhất là người thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và nhóm thứ hai là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi.
1.1.2 Đặc điểm
Dưới gốc độ tâm lý học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lý riêng, đặc trưng cùng với
tác động bên ngoài làm hình thành những hành vi và ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa
thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt về tâm lý và sinh lý sẽ giúp chúng ta lí giải được
cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói chung và của Luật Xử lý vi phạm hành
chính nói riêng đối với đối tượng này. Sau đây là một vài đặc điểm đặc trưng về tâm sinh
lý của người chưa thành niên.
Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Nhưng tâm sinh lý có sự thay đổi rõ
nhất là giai đoạn từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cần phải nói rằng, tuổi chỉ có ý nghĩa là
yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của con người. Với người chưa thành niên, họ
cần có thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trưởng
thành (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích lũy tri thức…). Tuổi không quy
định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý
của con người, tuổi cũng có thể đi nhanh hơn hoặc chậm hơn tâm lý con người vì còn phụ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xung quanh. Tuy nhiên người chưa thành niên sống trong
hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm chung, đặc trưng cho lứa tuổi. Đó là đặc điểm
của một giai đoạn mà qua cách gọi thôi cũng thấy tính phức tạp và tầm quan trọng của
nó: “thời kỳ quá độ” (chưa là người lớn cũng không còn là trẻ con). “tuổi khủng hoảng”
(cả về tâm lý và sinh lý), “tuổi khó bảo” (các em ở độ tuổi này trở nên bướng bỉnh và khó
bảo)3.
1.1.2.1 Đặc điểm sinh lý4
Độ tuổi chưa thành niên là độ tuổi mà cơ thể phát triển mạnh mẽ nhưng không

đồng đều, biểu hiện là các em lớn lên trông thấy. Tùy thuộc vào độ tuổi ngay trong cùng
giai đoạn mà sự phát triển của nam và nữ là khác nhau. Tuy nhiên cả nam và nữ có những
đặc điểm chung về lứa tuổi.

3

Đặng Thanh Nga, Một số đặc điểm tâm lý của nguời chưa thành niên, Tạp chí Tâm lý học, số 4/2004.

4

Tham khảo: Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển (RADDA BARNEN),
“Tài liệu tham khảo về công tác với trẻ em làm trái pháp luật”, Hà Nội, 1996.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 6

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát triển của xương tay, xương
chân rất nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể phát
triển không cân đối khiến các em trở nên lóng ngóng, vụng về hay làm đỗ vỡ…
Sự phát triển hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em rơi vào tình trạng
rối loạn tạm thời với những biểu hiện như: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu. Những biểu
hiện này diễn ra không lâu nhưng lại thường xuyên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống sinh hoạt hàng ngày cũng như tâm lý của người chưa thành niên.
Tuyến nội tuyết bắt đầu hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt
động thần kinh làm cho các em dễ xúc động, hay bực tức hay nỗi nóng, do đó các em hay

có những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt với những người xung quanh về việc mà các em
cảm thấy không hài lòng.
Hệ thần kinh chưa có khả năng chịu được những kích thích mạnh kéo dài, dẫn đến
cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm khiến các em đôi khi ứng xử không đúng vởi
bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi phạm đạo đức xã hội và đặc
biệt là vi phạm pháp luật.
Chính những đặc điểm về sinh lý ảnh hưởng đến những đặc điểm tâm lý, từ đó
quyết định hành vi của người chưa thành niên.
1.1.2.2 Đặc điểm tâm lý5
Song song với sự phát triển sinh lý, ở người chưa thành niên đã bắt đầu hình
thành sự “tự ý thức” với các câu hỏi: mình như thế nào? Mình đang làm gì? Có những ai
quan tâm đến mình?... Quá trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến tâm lý phức tạp,
dễ xúc động, dễ kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hăng say, hoạt động
thần kinh không cân bằng, quá trình hưng phấn mạnh do đó các em khó kiềm chế bản
thân khi gặp tình huống bất ngờ. Điều này sẽ dẫn đến những lỗi không đáng mắc phải, kể
cả việc vi phạm pháp luật.
Do có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi về sinh
lý của mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lý khó chịu với chính những thay đổi đó.
Các em biết những việc nào được phép làm, những việc nào không nhưng vẫn làm theo
cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng vào
vấn đề để sửa chữa khắc phục thì các em lại che dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ ở bên
ngoài không tự nhiên, tỏ ra mạnh dạn, can đảm để người khác không chú ý đến mình; hay
chỉ vì một hành động chế giễu, mai mỉa về hình dáng đi lại bên ngoài cũng gây cho các
em những phản ứng mạnh mẽ…

5

Tham khảo: Phạm Minh Hạc, “Tâm lí học”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền


Trang 7

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chống muốn
trở thành người lớn và cố gắng để được đối xử như người lớn, do đó hay phóng đại năng
lực bản thân mình… nhưng thực chất kết thúc giai đoạn chưa thành niên các em chỉ mới
phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lý, còn quá trình nhận thức cũng chưa đầy đủ. Nhận
thức về xã hội, đạo đức, pháp luật… còn hạn chế, đặc biệt là nhận thức về pháp luật. Đôi
khi những nhận thức quan điểm về pháp luật không được hình thành hoặc có nhưng bị
lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của các em.
Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng các em ở độ
tuổi này vẫn cần có sự quam tâm, chăm sóc của cha mẹ bởi những khó khăn rắc rối về
mặt tâm sinh lý là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó để quan tâm
cho đúng mức, sao cho các em có thể phát huy được tính độc lập của mình nhưng không
tách rời sự quản lý chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.
Khi trở thành đối tượng áp dụng hình thức xử phạt, khắc phục hậu quả do thực
hiện hành vi vi phạm hành chính thì những đặc điểm tâm sinh lý trên phải được xem xét
để pháp luật có những quy định phù hợp, đảm bảo việc bảo vệ hiệu quả nhất những
quyền lợi “đặc biệt” của đối tượng này.
1.2 Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
Theo Khoản 1 Điều 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì Vi phạm
hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt vi phạm hành chính; Theo đó thì Vi phạm hành chính của người chưa thành
niên là hành vi có lỗi do cá nhân là người thành niên vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải xử phạt

vi phạm hành chính.
Theo Khoản 2 Điều 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì xử phạt vi
phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Bên cạnh khái niệm “vi phạm hành chính”, cần thiết phải nghiên cứu một khái
niệm khác cũng rất cơ bản và liên quan mật thiết đến vấn đề này, đó là khái niệm xử lý vi
phạm hành chính để phân biệt với khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính khác.
Bản chất của hoạt động xử lý vi phạm hành chính là áp dụng một số loại biện
pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định. Cưỡng chế hành chính được xác định
là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định áp
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 8

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
dụng theo thủ tục hành chính đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với
một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện công vụ vì
lí do an ninh, quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.
Nhìn chung, xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
khác đều thuộc phạm trù xử lý vi phạm hành chính, có thể hiểu chung là việc áp dụng các
biện pháp/chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với chủ thể có hành
vi vi phạm hành chính. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì xử lý vi phạm
hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác. Như vậy, xử lý vi phạm hành chính là khái niệm rộng, bao trùm, trong đó xử
phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp hành chính khác là hai “nhánh” chế tài

cưỡng chế hành chính trong xử lý vi phạm hành chính có sự khác biệt nhất định.
Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm các chế tài hành chính thông thường, áp
dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, bao gồm: cảnh
cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình
chỉ hoặt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được xử
dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Trong đó hình thức xử phạt cảnh cáo; phạt tiền
chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính, còn hình thức xử phạt tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoặt động có
thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính; trục xuất có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức
xử phạt chính. Ngoài ra còn các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra
nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại.
Các biện pháp xử lý hành chính khác là những biện pháp hành chính có tính đặc
thù và tính cưỡng chế cao hơn các hình thức xử phạt hành chính thông thường, chỉ áp
dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm pháp
luật của đối tượng (vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là
tội phạm). Các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Từ khái niệm xử phạt vi pham hành chính theo Khoản 2 Điều 2 của Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, thì xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả đối với cá nhân là người chưa thành niên thực hiện hành vi vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 9

SVTH: Trình Quốc Hy



Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
1.3 Các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Cũng như bất kỳ loại vi phạm nào, vi
phạm hành chính cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố bao gồm: chủ thể, khách thể, khách
quan, chủ quan. Vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên cũng vậy cần đầy đủ
bốn yếu tố trên để cấu thành hành vi vi phạm hành chính. Sau đây người viết sẽ phân tích
rõ hơn các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính của người chưa thành niên:
1.3.1 Chủ thể
Vi phạm pháp luật cho thấy chủ thể của vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hay
tổ chức; mà cá nhân hay tổ chức này thực hiện các hành vi phản ứng tiêu cực, gây hại cho
nhà nước, xã hội và nhân dân, đi ngược lại ý chí của nhà nước.
Chủ thể của vi phạm pháp luật có thể là chủ thể của các quan hệ pháp luật, đó là
những cá nhân hay tổ chức dựa trên các cơ sở của các quy phạm pháp luật mà tham gia
vào các quan hệ pháp luật, trở thành người mang quyền lực hoặc nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực chủ thể, bao gồm hai yếu tố: năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Trong hệ pháp luật Việt Nam, mỗi vi phạm pháp luật khác
nhau được quy định điều kiện của chủ thể khác nhau. Đối với pháp luật hành chính, hành
vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện, đây là dấu hiệu xác định “chủ
thể” của vi phạm. Theo đó và quy định của điểm a Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm
hành chính hiện hành thì chủ thể của vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có đủ năng lực hành vi và vi phạm hành
chính do cố ý.
- Người từ đủ 16 tuổi dưới 18 tuổi có đủ năng lực hành vi và vi phạm hành chính.
1.3.2 Mặt khách quan

Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan vi phạm hành chính là hành vi vi phạm
hành chính.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi mà cá nhân là người chưa thành niên thực
hiện hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn
cấm. Việc ngăn cấm đó được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật quy định về
xử lý hành chính, theo đó pháp luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử phạt bằng
các hình thức và các biện pháp xử lý hành chính.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 10

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Hành vi vi phạm hành chính được thể hiện dưới dạng hai dạng là: hành động và
không hành động.
- Hành động: là trường hợp cá nhân là người chưa thành niên bằng hành động của mình
thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Ví dụ như: A và B do mâu thuẫn lời nói với nhau
không kiềm chế được hành vi của mình nên đã đánh nhau, theo quy định tại điểm a
Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội:
“Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi
sau đây:
Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau”.
- Không hành động: là trường hợp cá nhân là người chưa thành niên buộc phải thực hiện
một nghĩa vụ nhất định nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ như: Cá nhân tham gia
giao thông mà không đội mũ bảo hiểm theo quy định tại điểm i Khoản 3 Điều 6 Nghị
định 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ và đường sắt:
“Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm sau đây:
Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô
tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng
quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ”.
Đối với một số loại vi phạm hành cụ thể nói chung và vi phạm hành chính của
người chưa thành niên nói riêng, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp,
không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể
với yếu tố khác: Các dấu hiệu khác như thời gian, địa điểm thực hiện hành vi, công cụ
phương tiện vi phạm, hậu quả và mối quan hệ hậu quả.
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm: trong một số vi phạm hành chính để xử phạt với
các hành vi này thì chủ thể có thẩm quyền còn phải căn cứ vào yếu tố thời gian. Ví dụ
như: cá nhân thực hiện hành vi “gây tiếng ồn lớn, làm ồn ào huyên náo trong giờ nghỉ
đêm của nhân dân” chỉ bị coi là “hành vi gây ảnh hưởng đến sự yên tĩnh chung” khi thực
hiện trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ ngày hôm sau theo quy định tại điểm a
Khoản 1 Điều 6 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội:
“Phạt tiền cảnh cáo hoặc phạt tiền 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với những
trường hợp sau đây:

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 11

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Gây tiếng động lớn, làm ồn ào, huyên náo tại khu dân cư, nơi công cộng trong

khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau”.
- Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: trong một số vi phạm hành chính để xử phạt với
các hành vi này thì chủ thể có thẩm quyền còn phải căn cứ vào yếu tố địa điểm. Ví dụ
như: hành vi thả diều, bóng bay, chơi máy bay có điều khiển từ xa được coi là hành vi vi
phạm hành chính khi hành vi này được thực hiện ở khu vực sân bay được quy định tại
điểm g Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội:
“Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi
sau đây:
Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay
khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm”.
- Công cụ phương tiện vi phạm: trong một số vi phạm hành chính để xử phạt với các
hành vi này thì chủ có thẩm quyền căn cứ vào hành vi sử dụng công cụ phương tiện để vi
phạm hành chính. Ví dụ như: hành vi tàng trữ, cất giấu trong người đồ vật dao, búa nhằm
mục đích gây rối trật tự cộng cộng được quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 5 Nghị định
167/2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
“Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành
vi sau đây:
Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa,
các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày
nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác”.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: người có thẩm quyền phải chứng minh được hành
vi vi phạm hành chính diễn ra trong đới sống thực tế do cá nhân là người chưa thành niên
thực hiện có mối quan hệ hữu cơ với nguyên nhân nào đó là yếu tố trực tiếp dẫn đến hậu
quả nào đó.
1.3.3 Chủ quan
Hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm
của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái
pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả
đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý

trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan
cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra
dù phòng ngừa được.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 12

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.
Như vậy mặt chủ quan của vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là:
- Hành vi vi phạm hành chính do lỗi cố ý của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện.
- Hành vi vi phạm hành chính của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.3.4 Khách thể
Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa
hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó được quy định trong các văn bản
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm.
Khách thể của vi phạm hành chính là quan hệ xã hội được pháp luật hành chính bảo vệ,
quan hệ về quản lý hành chính nhà nước ở nhiều lĩnh vực như: lĩnh vực giao thông đường
bộ, lĩnh vực bảo vệ môi trường, lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội…Người chưa thành niên
thực hiện hành vi xâm phạm đến những mối quan hệ xã hội về quản lý nhà nước mà pháp
luật hành chính bảo vệ thì được xem là khách thể của vi phạm hành chính.
1.4 Mục đích, ý nghĩa của việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối

với người chưa thành niên
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với “người chưa thành niên” là thế hệ
tương lai của đất nước rất rõ ràng được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và Hiến
pháp là đạo gốc, đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật đã quy định:
Điều 39 “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân”, Điều 61 “bảo đảm giáo dục tiểu
học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học;
phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học
phí hợp lý”. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để
phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.
Có thể nói chính sách của nhà nước ta đối với người “người chưa thành niên” thể
hiện tất cả các lĩnh vực quan trọng nhằm dành cho đối tượng này những vấn đề tốt đẹp,
bù đắp vào sự khiếm khuyết về mặt thể chất và tinh thần của con người chưa thành niên;
Tuy nhiên, sự quan tâm này luôn phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế-xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay, trước thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước thì nhà nước càng có
điều kiện về vật chất cũng như về tinh thần cho đối tượng này.
Do tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, điều kiện thực tiễn
của đất nước và yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 13

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
(tỉ lệ người chưa thành niên vi phạm pháp luật gia tăng; tính chất vi phạm có chiều hướng
ngày một nghiêm trọng, thậm chí đáng báo động. Khuynh hướng sử dụng bạo lực và
hung khí để vi phạm pháp luật, xu hướng trẻ hóa và tập hợp thành băng nhóm hoạt
động…).
Vì thế, nên cần có những quy định cụ thể dành cho người chưa thành niên khi họ

sai lầm dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật hành chính nói
riêng, để xác định được đúng hành vi vi phạm hành chính, tức là xác định đúng cơ sở xử
phạt, thì việc thực hiện xử phạt hành chính mới bảo đảm chính xác, bảo đảm được quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân là người chưa thành niên, phát huy được
hiệu quả và mục đích của việc xử phạt hành chính là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà
nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và răn đe, phòng ngừa vi phạm trong
tương lai, tránh được sự tuỳ tiện trong xử phạt hành chính.
Theo Điều 134 Luật Xử lý hành chính về nguyên tắc xử lý đối với “người chưa
thành niên”. Đây là nguyên tắc mà trong đó có những nội dung: Việc xử lý người chưa
thành niên vi phạm hành chính chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết; Các biện
pháp mang tính giáo dục hơn là trừng phạt, Đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người chưa
thành niên, bảo vệ tính riêng tư. Ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trong quá
trình xử lý vi phạm hành chính đối với họ.Việc quy định biện pháp xử lý chuyển hướng
được ưu tiên áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính. Ngay tại Khoản
4 Điều 2 Về giải thích từ ngữ đã quy định: “Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành
chính” là các biện pháp mang tính giáo dục, phòng ngừa được áp dụng để thay thế cho
các hình thức xử phạt hành chính hoặc các biện pháp xử lý hành chính đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính nhằm giúp họ nhận thấy được và sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh khắc phục hậu quả vi phạm trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.5 Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến việc vi phạm hành chính của người
chưa thành niên
Khi tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trẻ vị thành niên vi phạm pháp
luật hiện nay, chúng ta phải tìm hiểu hệ thống các nguyên nhân chứ không phải
nguyên nhân đơn lẻ.
- Thứ nhất là tự bản thân của nhóm xã hội đặc thù này đã không tìm thấy niềm vui
trong cuộc sống. Thêm nữa, rất có thể họ xuất thân trong gia đình mà sự gắn kết, chăm
sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình không được tốt. Về mặt tâm lý, giai đoạn
trẻ ở tuổi vị thành niên là giai đoạn có những chuyển biến lớn đòi hỏi phải có những thích
nghi đối với bên ngoài. Giai đoạn này trẻ chưa thoát khỏi gia đình để hoàn toàn độc lập
nhưng vẫn "đi đi về về", tiếp nhận những thông tin và xu hướng từ thế giới bên ngoài.

Đối với trẻ, gia đình đại diện cho thế giới rộng lớn xung quanh nó. Sự cảm nhận về thế
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 14

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
giới, về xã hội và về chính bản thân của trẻ, sẽ được ảnh hưởng trực tiếp bởi thái độ, hành
vi, niềm tin của bố mẹ chúng. Thông qua sự chăm sóc, nuôi dưỡng, qua cử chỉ, hành
động... cha mẹ đã truyền đạt lại cho con cái những giá trị, niềm tin, thái độ và cả những
tri thức về thế giới xung quanh, để trẻ phát triển mạnh khỏe, thông minh, trở thành những
công dân tốt sau này. Nhưng nếu sự chăm sóc không phù hợp (không được quan tâm,
hoặc chăm sóc quá mức cần thiết) thì sẽ gây nên những strees nặng nề làm tổn thương
sức khỏe tâm thần của trẻ. Trẻ dễ nảy sinh một số hành vi như chống đối, nói dối, thiếu tự
tin, kém giao tiếp, bị động, thiếu hòa nhập, hay sợ hãi... Chăm sóc sức khỏe tâm thần tốt,
có kế hoạch can thiệp sớm, các biểu hiện trên sẽ dần ổn định. Ngược lại, các hành vi trên
sẽ tiến triển lệch lạc, dẫn đến rối loạn hành vi chống đối như bỏ nhà, trốn học, đi lang
thang, trầm cảm... Hậu quả là một số trẻ đã tự tử hoặc có hành vi vi phạm pháp luật,
trong đó có vi phạm pháp luật hành chính.
- Vấn đề đặt ra là, tại sao hiện tượng trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ngày càng
gia tăng trong xã hội hiện đại? Rõ ràng, việc giáo dục con cái hiện nay không giống như
trong xã hội truyền thống... Về mặt tâm lý đặc trưng của trẻ bây giờ có nhiều mâu thuẫn:
trẻ em lớn về mặt thể xác nhưng về mặt định hướng tâm lý chưa trưởng thành. Trong khi
đó, gia đình lại làm cho trẻ không tự tin vào bản thân của chính mình, không biết mình
lớn hay là còn bé. Đôi khi gia đình lấy chuẩn mực trẻ con để cư xử, đôi khi lại xem trẻ
như một người lớn. Cũng có những trường hợp phụ huynh giống như tự vệ dẫn đến
những biện pháp giáo dục không phù hợp, càng làm cho trẻ trở nên xa cách. Xã hội hiện
nay không còn "đóng" như trước, mà hầu như là một thế giới phẳng, thế giới "mở", do đó

cha mẹ phải liên tục thích nghi để có phương pháp giáo dục con cái phù hợp.
- Thứ hai, trên bình diện xã hội, một bộ phận thanh thiếu niên có thể đã mất lòng tin
ở cuộc sống nói chung. Đây là một vấn đề rất nhạy cảm mà có lẽ chúng ta phải thừa nhận
để có thể sớm tìm được những con đường, những giải pháp giúp cho nhóm xã hội đặc thù
này thoát khỏi những trạng thái tinh thần, tình cảm tiêu cực đã bắt đầu xảy ra đối với họ.
Kinh tế thị trường với những mặt tiêu cực của nó hiện nay đang có những tác động mạnh
mẽ vào thế hệ trẻ. Xác định một lý tưởng cho thanh thiếu niên bây giờ khó khăn hơn
nhiều so với trước đây. Xã hội nhìn nhận đánh giá giá trị của con người cũng khác trước.
Việc thanh niên đi tìm bản thân mình và địa vị trong xã hội vừa dễ vừa rất khó. Trong
điều kiện đó, khi trẻ vị thành niên rơi vào trạng thái tinh thần, tình cảm tiêu cực nếu
không có định hướng đúng, họ sẽ rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật.
- Thứ ba, xét trên khía cạnh văn hóa tinh thần, một nhóm nhỏ thanh niên thường có
xu hướng sử dụng "tiểu văn hóa" của mình để "phản ứng" lại văn hóa chung của cộng
đồng...

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 15

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
- Đối với vấn đề trẻ hay có thái độ phản ứng với người lớn, theo chúng tôi có lẽ nên
so sánh cấu trúc xã hội - gia đình xưa và nay. Cấu trúc xã hội - gia đình ngày xưa khá
chặt chẽ, trẻ em bao giờ cũng được người lớn quyết định. Những "người bề trên" được cả
xã hội chấp nhận nên cơ cấu xã hội đó duy trì cả một thời gian dài. Hiện nay trẻ con được
chăm lo nhiều hơn. Đối thoại giữa người lớn và trẻ em có nhiều trường hợp trở nên đánh
đồng, một trong 2 phía không biết mình đang đứng ở đâu: nên đứng ở "bề trên" hay là 1
người bạn với trẻ.

- Một trong những khát khao của lứa tuổi vị thành niên là khao khát được khẳng
định sự trưởng thành. Do đó, làm ngược lại ý của người lớn thì như là một cách thức để
chứng tỏ sự độc lập của mình. Trong nhiều trường hợp, trẻ vị thành niên thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật như là để "khẳng định" mình, để "phản ứng" với người lớn.

Về bản thân các em: Gia đình, nhà trường và xã hội có những ảnh hưởng lớn
đến các hành vi của người chưa thành niên. Tuy nhiên, chính bản thân các em cũng có
vai trò quyết định trong việc lựa chọn hành vi ứng xử cho riêng mình. Do đặc điểm tâm
sinh lý của lứa tuổi này, chưa có sự phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, là lứa
tuổi đang có sự thay đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý, muốn khẳng định mình, không muốn
phụ thuộc và phần lớn các em chưa làm chủ được bản thân nên dễ bị lôi kéo, kích động
tham gia vào những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật; nhiều em bị ảnh hưởng tâm lý từ
các loại phim ảnh bạo lực, văn hoá phẩm đồi truỵ trên mạng Internet và ngoài xã hội.
Bản thân một số em lại thích đua đòi, ăn chơi, thích hưởng thụ mà gia đình lại
không có điều kiện cung cấp nên các em tự tìm cách kiểm tiền để thoả mãn các nhu cầu
cá nhân.

GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 16

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Chương này người viết tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành các quy định pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Tập chung nghiên cứu

các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên bao gồm: Các hình thức xử phạt xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử
phạt, nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt, quy trình xử phạt, các biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên và
một số nguyên nhân ảnh hướng đến việc vi phạm hành chính của người chưa thành niên.
Từ đó làm cở sở nghiên cứu và phân tích ở chương 3.
2.1 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên
Kể từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ra đời, pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính đã và đang được xây dựng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt
nội dung cũng như hình thức pháp lý.
Tuy nhiên những quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên chỉ thực sự ra đời vào năm 1977 với Điều lệ xử phạt vi cảnh được ban hành kèm
theo NĐ 143/CP ngày 27/5/1977.
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1997
Ngày 18/02/1976 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 217 TTg/NC về tổ chức
lại các trường giáo dục tiểu học hư, trường phổ thông công nghiệp là tiền thân của trường
giáo dưỡng ngày nay. Đối tượng của quyết định này có hành vi nguy hại cho xã hội và
lưu manh chuyên nghiệp. Tuy nhiên đây lại là những đối tượng phạm pháp hình sự.
Điều lệ xử phạt vi cảnh là văn bản đầu tiên quy định có hệ thống về xử phạt vi
phạm hành chính. Trong đó, Điều 6 quy định:
“Đối với người vi phạm dưới 14 tuổi thì giáo dục rồi báo cho cha mẹ hay người
có trách nhiệm nuôi dạy biết, yêu cầu họ phải thi hành trách nhiệm quản lý và giáo dục
con em họ.
Đối với người vi phạm từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì nặng nhất là phạt tiền; đối với
người vi phạm từ 16 tuổi đến 17 tuổi thì phạt như đối với người lớn. Trường hợp người vi
phạm từ 14 tuổi đến 17 tuổi không có tài sản riêng, cha mẹ hay người có trách nhiệm
nuôi dạy phải nộp tiền phạt thay”.
GVHD: TS. Phan Trung Hiền


Trang 17

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Như vậy đối tượng bị phạt vi cảnh là người từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: từ đủ
14 đến 16 tuổi thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền; từ đủ 16 đến 17 tuổi có thể bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc phạt lao động công ích, phạt giam như với người thành
niên. Cần phải chú ý rằng, Điều lệ xử phạt vi cảnh chỉ vi định về vi phạm hành chính và
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Với một phạm
vi không rộng như vậy thì những quy định đối với người chưa thành niên chưa nhiều và
chưa cụ thể.
Sau một thời gian khá dài, ngày 30/11/1989, Hôi đồng nhà nước ban hành Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực từ
ngày 01/01/1990 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện chế định pháp luật về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật
Việt Nam, việc quy định những vấn đề cơ bản mang tính chất nguyên tắc về xử phạt vi
phạm hành chính được thể hiện tập trung trong một văn bản, làm cơ sở để xây dựng
những văn bản quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Đặt biệt những quy định đối với người chưa thành
niên cũng được thừa kế và phát huy. Điều 29 của Pháp lệnh quy định về xử phạt đối với
người chưa thành niên như sau:
“Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị phạt đối với những vi phạm hành
chính thực hiện do cố ý; hình thức và mức xử phạt đối với họ là cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 10.000 đồng.
Đối với người dưới 14 tuổi thì không xử phạt mà áp dụng biện pháp giáo dục.
Trong trường hợp người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc

người giám hộ phải nộp phạt thay.
Quyết định xử phạt đối với người vi phạm khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để
xác định tái phạm”.
Sau hơn một năm thực hiện, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế
xã hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng.
Do đó, ngày 06/7/1995 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính thay thế cho Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày
01/8/1995. Ngoài việc quy định về các biện pháp xử phạt, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 còn quy định về việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Đây
là điểm mới hoàn toàn so với những quy định trước. Để thi hành Pháp lệnh này Chính
phủ đã ban hành nhiều nghị định quy định cụ thể về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 18

SVTH: Trình Quốc Hy


Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và một số nghị định ban hành các quy chế quy định
chi tiết trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Ngoài ra còn một
khối lương lớn thông tư, chi tiết hướng dẫn thi hành những quy định của Pháp lệnh
nhưng nhìn chung các quy định cụ thể về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên không nhiều. Điều 5 Pháp lệnh quy định về đối tượng bị xử lý vi
phạm hành chính, mà người chưa thành niên là một trong nhưng đối tượng đó:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính
về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”.
Quy định trên được kế thừa từ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989.
Điều 6 quy định riêng về xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, trong đó mức

phạt tiền đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã được nâng lên
mức cao hơn từ 10.000 đồng thành 50.000 đồng, mức phạt tiền đối với người chưa thành
niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi quy định là thấp hơn so với mức phạt đối với người
thành niên mặc dù không quy định là thấp hơn bao nhiêu. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 còn quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành
niên do hành vi vi phạm hành chính gây ra: “Người chưa thành niên khi vi phạm hành
chính gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Khoản 2
Điều 6). Cha mẹ và người giám hộ vẫn phải có trách nhiệm nộp phạt thay khi người chưa
thành niên không có tiền nộp phạt.Việc quy định thêm những biện pháp xử lý hành chính
khác bên cạnh các biện pháp xử phạt hành chính như trong pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính năm 1989 đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc ngăn chặn, phòng
ngừa vi phạm hành chính, đặc biệt là vi phạm hành chính do người chưa thành niên gây
ra. Có năm biện pháp xử lý hành chính khác nhưng chỉ có hai biện pháp được áp dụng
đối với người chưa thành niên là giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo
dưỡng. Còn các biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản chế
hành chính không được áp dụng đối với người chưa thành niên.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến trước khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có
hiệu lực
Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời thay thế cho pháp lệnh xử lý
vi phạm quy định riêng áp dụng với đối tượng này như Điều 7 Xử lý người chưa thành
niên vi phạm hành chính, Điều 24 Đưa vào trường giáo dưỡng. Từ khi Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 ra đời đã có rất nhiều các nghị định hướng dẫn chi tiết việc
thực hiện những quy định của Pháp lệnh, trong đó có các nghị định như Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm
GVHD: TS. Phan Trung Hiền

Trang 19

SVTH: Trình Quốc Hy



×