Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận đầu tư quốc tế chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của trung quốc, thái lan và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.01 KB, 35 trang )

1. CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1.

Khái niệm đầu tư nước ngoài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài
hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất
kinh doanh này.
1.2.

Khái niệm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài

Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài là 1 bộ phận của chính sách đầu tư nước ngoài và
nằm trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
Chính sách thu hút ĐTNN gồm một hệ thống các chính sách, công cụ và biện pháp mà
Nhà nước áp dụng tác động vào hoạt động đầu tư nhằm thu hút dòng vốn đầu tư nước
ngoài trong một thời kì nhất định.
1.3.

Chức năng:

Kích thích dòng vốn đầu tư vào trong nước
Điều chỉnh mối quan hệ giữa hình thức đầu tư, giữa các ngành, vùng trong việc thu hút
ĐTNN.
1.4.

Nội dung của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài

Để tăng hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà đã sử dụng các chính sách
khác nhau để thu hút dòng vốn này. Các chính sách cơ bản thường được nhiều nước sử


dụng là: Chính sách đảm bảo đầu tư, chính sách khuyến khích đầu tư như chính sách cơ
cấu đầu tư, chính sách hỗ trợ và ưu đãi về tài chính, và một số chính sách tác động gián
tiếp trong thu hút đầu tư.
Các chính sách cơ bản:
-

Chính sách đảm bảo đầu tư:

-

Chính sách về cơ cấu đầu tư

-

Chính sách tài chính và các công cụ khuyến khích tài chính

-

Chính sách tiền tệ và vốn liên quan đến đầu tư nước ngoài

-

Chính sách thị trường vốn và thị trường chứng khoán


-

Chính sách đất đai

-


Chính sách lao động

-

Chính sách về môi trường đầu tư

-

Các biện pháp khuyến khích đầu tư khác

Mức độ thông thoáng hợp lý và hấp dẫn của các chính sách này có ảnh hưởng trực tiếp
đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.5.

Tác động của chính sách thu hút vốn đầu tư với hoạt động đầu tư nước

ngoài
Nhận thức được tầm quan trọng cảu ĐTNN đối với sự phát triển của đất nước, nhiều
nước đã sử dụng các chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên để thu hút dòng vốn
này. Các chính sách khuyến khích đầu tư không chỉ do chính phủ trung ương quy định mà
còn do chính quyền địa phương đưa ra nhằm tạo sự hấp dẫn riêng của địa phương mình.
-

Chính sách đảm bảo vốn đầu tư tạo cho các nhà đầu tư yên tâm, tin tưởng vào sự
đảm bảo không bị quốc hữu hóa tài sản và vốn đầu tư.

-

Chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư về yếu tố lợi nhuận như các chính

sách ưu đãi thuế.

-

Các chính sách thu hút ĐTNN góp phần tối đa hóa chất luowngjcuar dòng tiền đầu
tư hướng vào việc phát triển các ngành, khu vực phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.

Như vậy, chính sách thu hút ĐTNN có tác động lớn đến sự gia tang hay giảm sút của
lượng vốn ĐTNN và quá trình phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư.

2. TẠI SAO CHỌN 2 NƯỚC TRUNG QUỐC, THÁI LAN ĐỂ PHÂN TÍCH?
2.1.

Trung Quốc

Trung Quốc là nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với Việt Nam, có nhiều
điểm tương đồng với Việt Nam về địa lý tự nhiên, về phong tục, tập quán, văn hoá, chế


độ chính trị, xã hội và đều có lý tưởng chung là xây dựng đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã
hội. Vì vậy, nghiên cứu những chính sách thu hút vốn ĐTNN mà Trung Quốc đã và đang
thực hiện, cùng những thành công và hạn chế của Trung Quốc trong lĩnh vực này có một
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng.
Với sự tương đồng về hoàn cảnh và lịch sử phát triển, hai nước Việt - Trung đều thực
hiện chính sách mở cửa với nội dung rất gần nhau, đồng thời cùng phải đứng trước những
vấn đề kinh tế tương tự nhau, Trung Quốc sẽ là tấm gương tốt cho Việt Nam với tư cách
là người đi trước. Tuy nhiên sau hơn 20 năm thực hiện cải cách mở cửa, bên cạnh những
thành tựu huy hoàng, chính sách thu hút FDI của Trung Quốc vẫn còn nhiều tồn tại, do

vậy việc phân tích một cách khái quát những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, những
thành công và thất bại của chính sách thu hút FDI ở Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam "tìm
lợi, tránh hại", có được những đối sách trong sự hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đây là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển .
2.2.

Thái Lan:

Nhờ có những chính sách hợp lý mà những thập kỷ gần đây, Thái Lan trở thành điểm đến
cho đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Theo Báo cáo thường niên Môi trường kinh doanh lần
thứ 12 ngày 29/10/2015 của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tài chính quốc tế, Cơ quan
Bảo lãnh đầu tư đa phương... công bố chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh thuận lợi
năm 2015 của Thái Lan đứng thứ 26/189, so với 78/189 của Việt Nam.
Chính sách thu hút FDI của Thái Lan nhìn chung năng động, liên tục được điều chỉnh để
thích nghi với từng thời kỳ phát triển đất nước. Đặc biệt, Thái Lan đã xác định thu hút
vốn FDI đầu tư trọng điểm, từ đó, xây dựng các bộ phận chuyên trách riêng biệt đáp ứng
nhu cầu cụ thể của các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch khác nhau.
Môi trường đầu tư thuận lợi đã giúp Thái Lan khá thành công trong việc thu hút FDI vào
KCN. Đây là yếu tố quyết định làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của nền kinh tế Thái
Lan, trở thành một quốc gia có cơ cấu công nghiệp, dịch vụ khá hiện đại trong nhiều lĩnh
vực về kỹ thuật và công nghệ cao tại khu vực Đông Nam Á.
3. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC
3.1.Thực trạng thu hút FDI tại Trung Quốc


Tháng 12 năm 1978, hội nghị Trung ương III khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
đánh dấu sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của quốc gia. Trung Quốc đã thực hiện
chính sách mở cửa giao lưu với quốc tế. Đây là quốc sách cơ bản của đất nước Trung
Quốc một thời kì dài, qua tinh thần chỉ đạo trên các hoạt động kinh tế đối ngoại được
thực hiện trên rộng khắp cả nước. Thời kì này, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách

thu hút đầu tư và đã thu được một lượng vốn FDI khá lớn, đặc biệt là từ năm 1992 sau
khi Trung Quốc vạch rõ mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Với
sự thay đổi và hoàn thiện dần, chính sách thu hút đầu tư của Trung Quốc đã phát huy tác
dụng và mang lại nhiều thành công cho Trung Quốc.
Kể từ khi mở cửa và cải cách đến nay, có 3 giai đoạn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc:
3.1.1. Giai đoạn 1979 – 1986: Giai đoạn thử nghiệm với các khoản đầu tư quy mô
nhỏ
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là những Hoa kiều từ Hongkong, Ma Cao, Đài
Loan với quy mô nhỏ. Hoạt động kinh doanh cũng chủ yêu là gia công, lắp đặt các linh
kiện và phụ tùng nhập khẩu, chế biến thương mại, chuyển giao công nghệ và kỹ năng.
Trong suốt thời kỳ này, cũng chỉ có 992 dự án đầu tư nước ngoài được phê chuẩn với
tổng giá trị hợp đồng và giá trị cam kết tương ứng là 6 tỷ và 1,166 tỷ USD. Từ năm 1979
-1990, nguồn vốn thực nhận được từ các khoản vay nước ngoài cao hơn nhiều so với đầu
tư trực tiếp. Trong giai đoạn này, Chính phủ TQ sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài để
cải thiện cơ sở hạ tầng như phát triển mạng lưới giao thông vận tải, thông tin, cấp điện,
cấp nước....


Tháng 4/1984, Trung Quốc công bố Quy định về các Xí nghiệp hợp tác Trung Quốc nước ngoài các cấp chính quyền địa phương lại đưa ra nhiều các biện pháp ưu đãi đối với
đầu tư nước ngoài. Kết quả là số các dự án FDI vào Trung Quốc tăng rất nhanh qua từng
năm. Năm 1984 số Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài mới tăng lên 1857, gấp hơn 2 lần mức
năm 1983. Năm 1985, mức tăng số Xí nghiệp mới đạt 65% (3.073). Khối lượng vốn đầu
tư cam kết trong các năm 1984 và 1985 tăng 53% và 120% so với các năm trước.
Tuy vậy, trong giai đoạn này các nhà đầu tư mang vốn vào Trung Quốc với số lượng ít và
mang tính chất chỉ là thăm dò thị trường mới, đây cũng có thể coi là giai đoạn cải thiện
môi trường đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài.
3.1.2. Giai đoạn 1986 – 1991: Giai đoạn tăng trưởng và ổn định
-

Từ năm 1986 đến năm 1988, sau khi đạt được những kết quả đáng chú ý trong thu

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các năm 1984 và 1985, đây là thời gian
Trung Quốc cần ổn định lượng FDI mới, xem xét việc sử dụng hiệu quả FDI cũ và
cũng để đánh giá tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện hơn nữa môi trường đầu tư.

-

Ngày 12/4/1986, Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật các công trình dùng vốn
nước ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đồng thời Chính phủ Trung Quốc
đã đưa ra các quy định tạm thời của Hội đồng Nhà nước về khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào tháng 10 năm 1986.

-

Tháng 4/1990, sau khi tổng kết kinh nghiệm 10 năm thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Trung Quốc đã sửa đổi luật Liên doanh
Trung Quốc - nước ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố năm 1979,
đồng thời cụ thể Luật thành cá điều khoản như: không thực hiện quốc hữu hoá các
Xí nghiệp có vốn nước ngoài, giới hạn thời gian thực hiện hợp đồng, bổ nhiệm chủ
tịch Hội đồng quản trị, miễn giảm thuế....

-

Tháng 5/1990, Chính phủ Trung Quốc lại công bố quy định về khuyến khích đầu
tư của người Hoa và Hoa kiều yêu nước ở Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan và
đến tháng 9 năm đã phê chuẩn quy định về khuyến khích đầu tư nước ngoài và
miễn thuế thu nhập và thuế kinh doanh cho các xí nghiệp dùng vốn nước ngoài ở
Khu mới Phố Đông Thượng Hải. Tất cả các biện pháp này đã cho thế giới thấy lập


trường của Trung Quốc rất kiên định trong thực hiện các chính sách mở cửa kinh

tế và bảo vệ quyền lợi pháp lý cũng như lợi ích của các nhà ĐTNN, đặc biệt đối
với người Hoa và Hoa Kiều.
Nhờ đó, lượng vốn FDI và Trung Quốc thực sự nhận được đã nhảy vọt, với 12.000 dự án
đầu tư mới phê chuẩn, tăng 65% so với năm 1990, các mức đầu tư cam kết và thực tế
tương ứng đạt 12 tỷ USD (tăng 82%) và 4,37% tỷ USD (tăng 25%).
3.1.3. Giai đoạn 1992 – nay: Giai đoạn điều chỉnh tiến tới phù hợp, hiệu quả
Bước vào thập kỷ 90, đặc biệt là từ năm 1992, vốn ĐTNN vào Trung Quốc tăng rất
nhanh. Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và
trong top đầu thế giới về thu hút FDI, năm 2002 còn vượt qua cả Mỹ với 52, 7 tỷ USD.
Hiện nay Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về thu hút FDI trên thế giới.
Năm 2002, là năm đầu tiên Trung Quốc gia nhập WTO, sự kiện này đã tác động mạnh
đến luồng vốn FDI vào Trung Quốc, các hướng dẫm mới tập trung thu hút đầu tư vào các
lĩnh vực công nghệ cao phục vụ nông nghiệp, vận tải, năng lượng, vật liệu mới, bảo vệ
môi trường. Từ năm 2002 – 2010, các nhà đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến khích
sẽ được hưởng mức thu thuế doanh nghiệp là 15%. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn thiết
lập thị trường, hạ thấp thuế quan – đây là những nhân tố khiến đầu tư nước ngoài vào
Trung Quốc tăng mạnh. Hầu hết các quốc gia đầu tư nước ngoài đã chuyển vốn và cơ sở
sản xuất sang Trung Quốc. Tính đến tháng 09/2002, Trung Quốc đã phê chuẩn hơn
414000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn theo hợp đồng là 813,66
tỷ USD vượt qua Mỹ và trở thành nước đứng đầu thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong năm 2002.
Lượng vốn FDI chảy vào Trung Quốc vẫn duy trì tốc độ phát triển ổn định, theo Bộ
Thương mại Trung Quốc thông báo trong năm 2018 có 54.700 công ty do nước ngoài đầu
tư mới được thành lập ở Trung Quốc, tăng 77.5% so với năm 2017. Lượng vốn đầu tư đặc
biệt tăng mạnh trong các lĩnh vực sản xuất thiết bị y tế và dụng cụ chính xác (tăng hơn
132%), máy tính và thiết bị văn phòng (tăng gần 113%), điện tử và viễn thông (tăng trên
36)%.Các nhà đầu tư chính vào Trung Quốc trong thời gian qua là Hàn Quốc (tăng


gần 39%), Nhật Bản (hơn 20%), Đức (trên 30%) và Singapore (hơn 7%). Trong khi đó,

vốn đầu tư từ Anh và Trung Quốc là tăng mạnh nhất, tới gần 199%.Ngoài ra, dòng vốn
đầu tư từ các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tăng xấp xỉ
15%, từ Liên minh châu Âu (EU) tăng trên 16%.
Có thể thấy Trung Quốc sẽ ngày càng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh hơn trong
tương lai và “nhăm nhe” vị trí đứng đầu thế giới về thu hút FDI.
3.2.

Sức hấp dẫn của thị trường Trung Quốc

3.2.1. Nguồn lực phong phú
Trung quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới, với hơn 1.3 tỷ người. Chính vì vậy, Trung
Quốc cũng là quốc gia có tiềm năng về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của Trung Quốc
rất đông đảo, đáp ứng nhu cầu về nhân công và chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của quốc gia này.
Hơn nữa, đây là một quốc gia khổng lồ, có diện tích lãnh thổ lớn thứ 3 thế giới, có nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng vào bậc nhất thế giới. Chủng loại và số
lượng cơ bản của nó có thể đáp ứng được nhu cầu xây dựng và phát triển của đất nước
rộng lớn này. Chẳng hạn, Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới về sản lượng khai thác than,
xi măng, bông, vải bông… Cùng với đó, đất đai rộng lớn với giá thành rẻ cũng tạo nên
sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư tấn công vào thị trường này.
3.2.2. Thị trường tiêu thụ tiềm năng
Trung Quốc là quốc gia đông dân, vì thế mà nhu cầu về sản phẩm hàng hóa tiêu dùng là
rất cao, đó chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm vô cùng tiềm năng, thu hút sự quan tâm
của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư vào thị trường này có thể yên tâm về đầu ra của sản
phẩm, một quá trình quan trọng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất.
3.2.3. Trung Quốc gia nhập WTO
Với việc gia nhập WTO, Trung Quốc đã tự mình mở ra cánh cửa tới nhiều khu vực thị
trường trên thế giới, mở ra “con đường bằng phẳng” hơn cho hàng hóa Trung Quốc xâm
nhập vào thị trường của hơn 140 nước thành viên . Đặc biệt quan trọng là thông qua đàm
11



phán song phương, Trung Quốc đã ký kết được Hiệp định thương mại Trung- Mỹ và hiệp
định thương mại Trung-EU. Hai hiệp định này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó mở ra
2 thị trường lớn nhất, tiềm năng nhất với hàng hóa Trung Quốc vì Mỹ và EU là 2 trong ba
trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới mà Trung Quốc vẫn gọi là “tam cường”( Nhật Bản
là 1 trong 3 thị trường). Trung Quốc hướng tới thị trường ASEAN với triển vọng về Khu
vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc. Về đầu tư FDI, sau khi gia nhập WTO,
Trung Quốc đã mở rộng cánh cửa để thu hút vốn FDI vào ngày càng nhiều hơn nữa. Đến
nay, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thứ 2 thu hút nhiều FDI nhất.
3.2.4. Cơ sở hạ tầng thuận lợi
Từ đầu những năm 80, Chính phủ Trung Quốc đã rất coi trọng vấn đề xây dựng cơ sở hạ
tầng, tranh thủ rất nhiều khoản vay nước ngoài để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Cho
đến nay, hệ thống cơ sở hạ tầng đã có những cải thiện rõ rệt.
Theo thống kê, từ khi cải cách mở cửa đến nay, trong lĩnh vực giao thông ngành đường
sắt TQ đã 3 lần vay quỹ hiệp lực hải quan Nhật Bản với số tiền là 2.06 tỷ USD, xây dựng
mới 5700km, cải tạo 6500 km đường sắt cũ, xây dựng hơn 3000km đường bộ trong các
vùng nông thôn.
Không chỉ mở rộng nguồn vốn trong nước mà còn kết hợp nguồn vốn nước ngoài để xây
dựng mạnh mẽ cơ sở hạ tầng, góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước và thu
được hiệu quả cao hơn trong việc thu hút vốn FDI.
3.3.

Nội dung chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc

3.3.1. Cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, hoản thiện các quy định pháp luật đối
với các nhà đầu tư nước ngoài
Cùng với việc nâng cao trình độ phát triển kinh tế và xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, các biện pháp thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc chuyển dần từ dựa vào
chính sách ưu đãi thuế sang dựa vào môi trường đầu tư và thị trường mở cửa. Trung Quốc

đề ra một số quy định pháp luật khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài: bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của các DN có thương nhân nước ngoài đầu tư, nghiêm khắc xử lý việc kiểm
tra lung tung, thu phí bừa bãi, bảo vệ tính nghiêm túc của pháp luật, tăng cường
12


lòng tin của các thương nhân nước ngoài đến Trung Quốc đầu tư. Sau khi gia nhập WTO,
ngoài việc sửa đổi các luật kinh tế liên quan đến bên ngoài, Trung Quốc đã tiến hành bổ
sung và hoàn thiện Luật chống lũng đoạn, Luật chống cạnh tranh không chính đáng, tạo
ra môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nước ngoài.
3.3.2. Các chính sách ưu đãi thuế
-

Ưu đãi với kỳ hạn doanh nghiệp: Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới thành
lập với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng chế độ miễn thuế thu nhập
trong một năm đầu làm lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo.
Về sau, thời gian miễn thuế và giảm thuế tăng lên tương ứng là 2 và 3 năm.

-

Ưu đãi đối với khu vực tư nhân: Khi thực hiện chiến lược mở cửa khu vực, Trung
Quốc đã đưa ra những ưu đãi nhằm thu hút FDI vào các khu vực. Theo đó, các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xây dựng ở đặc khu kinh tế và các doanh nghiệp
nước ngoài mang tính chất sản xuất xây dựng ở khu khai thác phát triển kỹ thuật
tại 14 thành phố ven biển do Quốc vụ viện phê chuẩn được giảm thuế thu nhập
15% theo tỷ lệ thuê. Ưu đãi còn dành cho đầu tư ở khu phố cũ thuộc các thành phố
ven biển, đặc khu kinh tế, khu khai phát, theo đó, những doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài mang tính sản xuất có thể được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tới 24%.
Ngoài ra, các xí nghiệp sản xuất phục vụ xuất khẩu ở các đặc khu kinh tế, khi nhập
khẩu vật tư được miễn thuế hải quan từ 5-25%.


-

Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư:



Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: Người đầu tư nước ngoài dùng
số lợi nhuận thu được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho xí nghiệp đó, hoặc
đầu tư xây dựng cho doanh nghiệp khác, nếu lù hạn kinh doanh không dưới 5 năm
thì được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp đối với phần tái đầu tư.



Đãi ngộ danh cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: Các nhà đầu tư tái đầu tư xây dựng ở
một số lĩnh vực đặc biệt như mở rộng xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, mở rộng xí
nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc đẩu tư cho các hạng mục xây dựng cơ bản và mở
mang nông nghiệp trong đặc khu kinh tế Hải Nam thì được trả lại toàn bộ thuế thu
nhập đối với phần tái đầu tư.
13


3.3.3. Đa dạng hóa các hình thức đầu tư
Cho đến nay ở Trung Quốc vẫn có 3 hình thức chính: Xí nghiệp chung vốn kinh doanh, xí
nghiệp hợp tác kinh doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đã có một thời gian
Trung Quốc hạn chế hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vì sợ tỉ lệ các xí nghiệp này
quá lớn sẽ ảnh hưởng đến các ngành sản xuất trong nước hay chủ quyền lãnh thổ... Tuy
nhiên, hiện nay Trung Quốc đang tháo gỡ dần những hạn chế đối với hình thức 100% vốn
nước ngoài.
Để tăng cường thu hút FDI hơn nữa, năm 1996 Trung Quốc đã thực hiện điều chỉnh về

hình thức đầu tư, chuyển từ thu hút FDI vào ngành nghề là chính sang thu hút FDI vào cả
lĩnh vực lưu thông tiền vốn quốc tế. Theo đó, cùng với các chủ đầu tư đến từ các nước Âu,
Mỹ, từ các công ty xuyên quốc gia, từ các nhà tư bản lớn Hoa kiều, bên cạnh tiền vốn
ngành nghề còn có tiền vốn lưu thông quốc tế thâm nhập vào Trung Quốc, dưới các phương thức mua bán chứng khoán, lưu thông tiền vốn cổ phần, xây dựng quỹ tham gia cổ
phần ... Những hình thức này đã gián tiếp làm tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Trung Quốc.
Trong những hình thức trên, Trung Quốc đặc biệt chú ý tới hình thức góp vốn cổ phần.
Các nhà đầu tư tham gia cổ phần trực tiếp trong các xí nghiệp ở Trung Quốc, hình thành
nên "Xí nghiệp cổ phần chung vốn Trung Quốc với nước ngoài". Đây là hình thức thu hút
đầu tư có hiệu quả và nhanh chóng. Nó được áp dụng thử nghiệm từ trước ở Thượng Hải
và Thâm Quyến và cũng có sự đột phá ở các tỉnh và thành phố này.
3.3.4. Đa dạng hoá chủ đầu tư:
Để khuyến khích các thương gia nước ngoài đến Trung Quốc đầu tư nhiều hơn nữa, nhất
là các thương gia người Hoa, Hoa kiều và TNCs, Trung Quốc đã áp dụng chính sách đa
dạng hoá chủ đầu tư, theo đó Trung Quốc sẽ thực hiện nhiều chính sách khuyến khích
như:
3.3.4.1.

Chính sách khuyến khích đối với Hoa kiều và người Hoa:

Hiện nay trên thế giới có khoảng 60 triệu người Trung Quốc sống ở nước ngoài, phân bố
ở trên 160 nước và khu vực, trong đó khoảng 90% số người Hoa và Hoa Kiều đã nhập
14


quốc tịch ở nước sở tại. Cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài, nhất là ở Đông
Nam Á, phần lớn họ làm nghề buôn bán. Đại đa số các triệu phú, tỷ phú người Hoa đều
xuất thân từ nghề buôn bán nhỏ rồi dần dần mở rộng kinh doanh. Hiện nay trên thế giới
có 49 người Hoa ở nước ngoài là tỷ phú. Lực lượng người Hoa ở Đông Nam Á có thực
lực kinh tế hùng hậu nhất, với khoảng 30 triệu người nhưng họ chi phối tới 60% các nền

kinh tế trong vùng, số người Hoa giàu có ở Đông Nam á chiếm một nửa trong số khoảng
500 thương gia giàu có nhất thế giới. Hiện nay vốn của người Hoa và Hoa kiều trên thế
giới có khoảng 3.000 tỷ USD, doanh thu về hàng hoá và dịch vụ chừng 450 tỷ USD hàng
năm. Theo đánh giá của Giáo sư Gordon Reding trường Tổng hợp Hồng Kông: cộng
đồng Hoa kiều chỉ chiếm 5% dân số Trung Quốc nhưng có tổng thu nhập tương đương
với 2/3 tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc. Hoa kiều không chỉ giỏi kinh doanh mà
còn rất thành đạt về khoa học kỹ thuật. Ở Mỹ, nơi có trình độ khoa học kỹ thuật cao nhất
thế giới, trong số 13 vạn nhà khoa học và chuyên gia kỹ thuật hàng đầu, người Hoa và
Hoa kiều chiếm hơn 3 vạn người. Những chuyên gia kỹ thuật cao trong số họ đều có mặt
trên mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó, người Hoa và Hoa kiều trên thế giới còn xây dựng được
vị thế thuận lợi về chính trị - xã hội ở nhiều nước.
Với sức mạnh kinh tế ngày càng được tăng cường, với lực lượng nhân tài hùng hậu, người
Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài được Trung Quốc quan tâm khuyến khích đầu tư về quê
hương. Bên cạnh đó, đã từ lâu Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan và Ma Cao rất muốn đầu tư
vào Trung Quốc, một thị trường với những tiềm năng khổng lồ về tại nguyên, sức mua và
nguồn lao động rẻ. Đồng thời khi đầu tư vào Trung Quốc, Hoa kiều có nhiều thuận lợi về văn
hoá, ngôn ngữ, quan hệ gia đình, dòng tộc, ... Chính vì những lý do này mà Trung Quốc liên
tục đưa ra những quy định khuyến khích, mời gọi đầu tư của các chủ đầu tư có gốc gác quê
hương ở Trung Hoa. Chẳng hạn năm 1989, Trung Quốc công bố "quy định về việc khuyến
khích đồng bào Đài Loan đầu tư"; năm 1990 công bố "quy định về việc khuyến khích Hoa
kiều và đồng bào Hồng Kông, Ma Cao đầu tư" ...

15


3.3.4.2. Khuyến khích đầu tư của các công tư xuyên quốc gia và các nhà tư bản
lớn

Trong thập kỷ 90, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, Trung Quốc không những cần
nhiều vốn mà quan trọng hơn là cần kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại. Chính vì vậy, các

chủ đầu tư là các công ty xuyên quốc gia, các nhà tư bản lớn, đặc biệt là các công ty Mỹ,
Đức, Nhật Bản, Anh, Pháp, ý ... được khuyến khích đầu tư vào Trung Quốc. Hiện nay,
trong số 500 TNCs đứng đầu thế giới đã có khoảng 300 TNCs đầu tư vào Trung Quốc.
Các công ty này mang tới Trung Quốc những hạng mục thuộc loại hình lớn, kỹ thuật cao,
cách quản lý khoa học, hiệu quả kinh doanh tốt... Nó có tác dụng rất lớn đối với việc
nâng cao trìng độ kỹ thuật của Trung Quốc, nâng cấp đối với thế hệ sản phẩm, cải thiện
kết cấu ngành nghề chặt chẽ của Trung Quốc ...
Để có được kết quả đó, Trung Quốc đã áp dụng nhiều chính sách thu hút FDI tương đối
tự do đối với họ, tạo điều kiện cho họ thu được nhiều lợi nhuận như:
Thực hiện giảm dần các chế độ ưu đãi, cung cấp đãi ngộ quốc dân cho các nhà đầu tư
nước ngoài để họ tiến hành cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình
đẳng và công bằng. Điều này rất quan trọng bởi vì đối với các nhà tư bản lớn Âu - Mỹ và
TNCs, chính sách ưu đãi không có nhiều sức hút với họ. Dù cho Trung Quốc có ưu đãi về
thuế thu nhập cho họ, thì họ vẫn phải nộp phần tiền thuế họ được thêm này theo luật thuế
nước họ quy định.
-

Các nhà đầu tư được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản.

-

Các quyền hợp pháp của các nhà đầu tư phải được bảo vệ. Lợi nhuận của họ được
chuyển ra nước ngoài.

-

Các doanh nghiệp chung vốn với TNCs được giao quyền độc lập và tự chủ trong
các hoạt động sản xuất kinh doanh.

-


Các tranh chấp kinh tế được giải quyết theo luật định.

-

Đơn giản các thủ tục đầu tư.

-

Các nhà đầu tư được tiêu thụ một phần sản phẩm của mình trên thị trường Trung
Quốc .
16


Ngoài ra, đầu tư của các TNCs nhằm khai thác thị trường đã có ảnh hưởng lớn đến việc
phát triển hệ thống thị trường trong nước. Do vậy, Trung Quốc đã chú ý tăng cường vai
trò của Chính phủ trong cơ chế thị trường. Nhà nước Trung Quốc đã thiết lập và phát
triển hệ thống thị trường đặt ra các qui tắc cạnh tranh công bằng và hợp lý làm giảm đi sự
biến động của các loại thị trường. Trung Quốc đã chú ý tới mục tiêu đầu tư của các TNCs
là muốn chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc và thông qua Trung Quốc tiến thêm một bước
là chiếm lĩnh thị trường Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương. Trung Quốc đã xác
định nhường lại một phần thị trường cho các nhà đầu tư để đổi lấy sự đầu tư lớn hơn nữa,
nhiều hơn nữa với phương châm "Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật", "Lấy thị trường đổi
lấy vốn", "Lấy thị trường để phát triển". Với chính sách này Trung Quốc đã thực hiện sự
điều chỉnh về qui mô đầu tư, chuyển từ thu hút những hạng mục vừa và nhỏ sang thu hút
những hạng mục lớn và vừa.
Với việc gia nhập WTO vào tháng 11/ 2001 đã mở ra cho Trung Quốc những cơ hội và
thách thức mới. Chính phủ Trung Quốc đã có sự điều chỉnh lại: Chuyển thu hút FDI chủ
yếu từ các công ty, xí nghiệp lớn của nước ngoài sang thu hút cả của xí nghiệp, công ty
vừa và nhỏ. Các công ty lớn, xuyên quốc gia đương nhiên có ưu thế lớn về kỹ thuật và tài

chính hùng hậu, nhưng hiện nay trên thế giới có rất nhiều công ty vừa và nhỏ có kỹ thuật
rất hiện đại. Bởi vậy, Trung Quốc vừa coi trọng thu hút đầu tư của các TNCs vừa coi
trọng thu hút đầu tư của các công ty vừa và nhỏ trên thế giới.
3.4.

Tác động của FDI đối với Trung Quốc

3.4.1. FDI tác động đến nền kinh tế
3.4.1.1.

Tích lũy vốn

Đối với các quốc gia, đặc biệt là quốc gia có xuất phát điểm kém phát triển, vốn đầu tư có
vai trò quyết định đến việc hiện thực hóa các mục tiêu kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt trên toàn cầu, Trung Quốc hiện đang hướng đến việc phát triển một nền kinh tế
công nghiệp hóa - hiện đại hóa với trình độ ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, do năng
lực tích lũy vốn từ bên trong khá thấp nên khả năng cung ứng vốn luôn không đủ, dẫn

17


đến nhu cầu bổ sung bằng vốn nước ngoài ngày càng tăng. Trong tình huống này, FDI
đóng vai trò quan trọng trong nhu cầu tích lũy vốn của nền kinh tế.
Từ 2004 đến 2010, lượng vốn đầu tư FDI vào Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng từ
hơn 60 tỷ USD đến xấp xỉ 105,7 tỷ USD, dẫn đến vốn tích lũy cho đến năm 2010 là 579
tỷ USD (theo OECD).
3.4.1.2.

Ngân sách


Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng vào ngân sách Nhà nước.
FDI góp vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng cũng tăng mạnh trong suốt những năm
1990. Thuế thu từ khu vực kinh tế có vốn FDI ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng
góp phần giảm bớt thâm hụt cán cân ngân sách. Nguồn thu này được đầu tư vào những
công trình dịch vụ và kinh tế công cộng, đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, tác động đến sự
phát triển dài hạn của nền kinh tế.
3.4.1.3.

Cơ cấu kinh tế

FDI có mặt ở nhiều ngành công nghiệp Trung Quốc, đóng góp vào việc chuyển đổi cơ
cấu công nghiệp. Tỷ trọng trong giá trị sản lượng công nghiệp đã tăng từ khoảng 7%
(1990) lên 28% (2000). Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao
nhất (gấp đôi so với doanh nghiệp nhà nước).
3.4.1.4.

Thể hiện sức mạnh kinh tế

FDI vào Trung Quốc còn có vai trò tích cực khác. Trong đó, chứng tỏ Trung Quốc là một
nền kinh tế hấp dẫn nên thu hút được nhiều FDI hơn Argentina, Brasil... và khiến các
nước Đông Nam Á lo ngại về khả năng cạnh tranh thu hút FDI.
3.4.2. FDI thúc đẩy đổi mới công nghệ
Một trong những mục tiêu cơ bản được đề ra trong chính sách thu hút FDI của Trung
Quốc, đó là “đổi thị trường lấy kỹ thuật”.
Ban đầu, vốn đầu tư nước ngoài tập trung nhiều trong các ngành công nghiệp thâm dụng
lao động và định hướng xuất khẩu nhằm vào các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp
tương đối, chẳng hạn như may mặc. Ở giai đoạn này, Trung Quốc là nơi tiếp nhận các
18



công nghệ lạc hậu của các doanh nghiệp đa quốc gia. Do đó, hiệu quả của chuyển giao
công nghệ bị giới hạn. Nhưng cạnh tranh trong cơ chế thị trường ở Trung Quốc đã thúc
đẩy nhiều công ty nước ngoài áp dụng công nghệ mới để phát triển thị phần của họ.
Theo Niên Giám đầu tư Trung Quốc, năm 1997 chỉ có 13% doanh nghiệp FDI đưa công
nghệ tiên tiến vào Trung Quốc. Đến năm 2002, không còn doanh nghiệp FDI nào áp dụng
công nghệ lạc hậu, đặc biệt có 60% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến.
Gần đây, doanh nghiệp đa quốc gia từ các nước phát triển bắt đầu chú trọng hơn vào quá
trình nội địa hóa các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Theo UNCTAD (2004), vào
cuối năm 2002, các doanh nghiệp đa quốc gia như Microsoft, Motorola, Intel, Honda... đã
thành lập hơn 400 trung tâm R&D ở Trung Quốc.
Ngành công nghiệp điện và viễn thông là những minh chứng điển hình cho sự tiến bộ
công nghệ trong nước sau chuyển giao công nghệ. Rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong
nước hiện đã bắt kịp các doanh nghiệp FDI.
3.4.3. FDI giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nhân lực
Dân số Trung Quốc lớn nhất thế giới, do đó một trong những nhiệm vụ cấp bách là tạo
công ăn việc làm. Hoạt động FDI tạo thêm việc làm cho người lao động đồng thời góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Trung Quốc.
Về vấn đề giải quyết việc làm, trước hết, khu vực có vốn FDI thu nhận số lượng lao động
đáng kể. Năm 2001, các doanh nghiệp FDI thu hút khoảng 23 triệu lao động và đến cuối
năm 2013 con số này là 23,5 triệu chiếm 11% tổng số lao động khu vực thành thị. Quy
mô nguồn nhân lực lớn và chi phí lao động thấp ở Trung Quốc được các nhà đầu tư nước
ngoài coi là lợi thế khi đầu tư nhằm khai thác lợi thế cạnh tranh về chi phí, đặc biệt trong
các ngành có hàm lượng lao động cao.
FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp. Một mặt, người lao động
được tiếp cận với phương thức kinh doanh tiên tiến, công nghệ kỹ thuật hiện đại. Hơn
nữa, họ được đào tạo theo các chương trình phù hợp với yêu cầu của chính TNC hoặc
theo chương trình của các trường đại học trong và ngoài nước. Khảo sát 442 doanh
nghiệp FDI năm 2005, có 85,4% doanh nghiệp tiến hành các chương trình đào tạo nhân
19



viên Trung Quốc, 21,3% doanh nghiệp cử nhân viên đi tu nghiệp ở nước ngoài và chỉ có
8,9% không có chương trình đào tạo nhân viên.
Mặt khác, FDI còn gián tiếp phát triển nguồn nhân lực, thể hiện các khía cạnh sau:
-

Thứ nhất, khu vực kinh tế FDI thúc đẩy hình thành mạng lưới các ngành công
nghiệp phụ trợ, tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho đội ngũ lao động.

-

Thứ hai, để đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế các doanh nghiệp có vốn FDI,
doanh nghiệp trong nước với tư cách là nhà cung cấp buộc phải cải cách phương
thức quản lý, thêm vào đó lại được tiếp cận với công nghệ theo đơn đặt hàng của
các doanh nghiệp nước ngoài, nhờ đó trình độ và kỹ năng của đội ngũ lao động
ngày càng được nâng cao.

-

Thứ ba, do sự chuyển dịch của một phần lao động có vốn FDI sang các khu vực
kinh tế khác sẽ là cách thức quan trọng ảnh hưởng tốt đến chất lượng trung bình
của đội ngũ lao động trong xã hội.

-

Thứ tư, sự biến động của cung cầu trên thị trường việc làm đã thúc đẩy cá nhân
người lao động luôn cầu tiến để đáp ứng nhu cầu về lao động có kĩ năng cao trên
thị trường.

Cuối cùng, do nhận thức được những yếu kém về trình độ kỹ thuật cũng như năng lực

quản lý, Chính phủ Trung Quốc một mặt đã dành lượng ngân sách lớn cho giáo dục và
hoạt động nghiên cứu, mặt khác thực thi chính sách xã hội hoá giáo dục và chính sách
phát triển giáo dục nghiên cứu dựa trên nhu cầu của quá trình hội nhập. Việc thị trường
hoá các sản phẩm nghiên cứu khoa học đã thúc đẩy nhanh quá trình nghiên cứu gắn với
ứng dụng thực tế.
3.4.4. FDI đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển thương mại quốc tế
Chính sách mở cửa của Trung Quốc có mục đích tăng cường sự tham gia vào sản xuất
quốc tế và thúc đẩy tăng trưởng thông qua xuất khẩu. Trung Quốc lựa chọn FDI theo định
hướng tăng cường xuất khẩu: miễn thuế cho các nguyên liệu đầu vào và các thành phần
cần thiết cho sản phẩm xuất khẩu, đồng thời hạn chế can thiệp về mặt quản lý.

20


Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong sự mở rộng thương mại của Trung Quốc.
Sự đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động ngoại thương
đã tăng nhanh chóng. Các doanh nghiệp FDI tham gia vào hoạt động ngoại thương với
động cơ tiết kiệm chi phí sản xuất, gia công ở Trung Quốc rồi xuất khẩu trở lại các thị
trường khác trên toàn cầu. Năm 2006 là năm giá trị thương mại của Trung Quốc đạt mức
kỉ lục (1760,4 tỷ USD) so với 38 tỷ USD vào năm 1980. Riêng giá trị xuất khẩu của các
doanh nghiệp FDI đạt 563,78 tỷ USD, chiếm 81,68 % tổng giá trị ngoại thương.
Vai trò của FDI không lớn nếu xét về mặt đóng góp tài chính vào cán cân thanh toán,
nhưng giúp cán cân thanh toán mạnh lên trong những năm qua và sau đó làm tăng mạnh
dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời đóng góp vào tăng
năng suất của toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó đóng góp vào sự
tăng trưởng kinh tế.
4. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA THÁI LAN.
4.1.Giới thiệu chính sách
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Thái Lan từ lâu đã là điểm đến đầu tư hấp dẫn nhờ
nguồn cung cấp năng lượng ổn định và chính sách kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp. Thái Lan cũng có lực lượng lao động được đào tạo tốt hơn so với các nước
láng giềng như Myanmar, Lào và Campuchia, trong khi quy mô của nền kinh tế Thái Lan
lớn gấp 5 lần so với ba nền kinh tế này cộng lại. Ngân hàng Thế giới (WB) xếp Thái Lan
ở vị trí thứ 18 trong tổng số 189 nước xét về môi trường kinh doanh thuận lợi, trên cả các
nước công nghiệp phát triển như Đức và Nhật Bản. Thu hút FDI luôn được coi là một
trong những nhân tố kích thích quan trọng đối với nền kinh tế Thái Lan. Chính phủ Thái
Lan đã xây dựng một chính sách ưu đãi để cho dòng vốn này phát huy được lợi thế.
4.1.1. Giai đoạn
-

1959-1971, Thái Lan đã thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế thay thế hàng nhập
khẩu. Quốc gia này đã có chủ trương giảm dần đầu tư từ Chính phủ, khuyến khích
đầu tư tư nhân. Theo đó, năm 1959, Thái Lan đã thành lập Bộ Đầu tư và đến năm
1960 đã ban hành Luật Đầu tư.
21


-

1972-1996, Bộ Đầu tư Thái Lan đã ban hành chính sách thu hút các chuyên gia,
lao động chất lượng cao từ bên ngoài với những ưu đãi về đất, việc làm để thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu.

-

Từ năm 2005, chính sách thu hút FDI của Thái Lan có sự biến chuyển theo hướng
đầu tư chọn lọc với chính sách ưu tiên nhà đầu tư trong nước, hỗ trợ phát triển các
loại hình dịch vụ phi sản xuất và các loại hình dịch vụ tài chính. Thống kê cho
thấy, FDI vào Thái Lan đầu tư nhiều nhất là lĩnh vực công nghiệp, sau đó là
thương mại, bất động sản, xây dựng…


-

Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1996-1997, Thái Lan chỉ thu hút
được nguồn vốn FDI tương đương với 11% GDP của nước này. Tuy nhiên, đến
cuối năm 2013, con số này đã tăng lên 48%. Trong khi đó, dòng vốn đầu tư ra
nước ngoài của Thái Lan cũng tăng mạnh, từ mức tương đương 1% GDP năm
1995 lên 15% vào năm 2013.

-

Để thu hút thêm vốn FDI, trong chiến lược mới được Thái Lan thông qua đầu
tháng 9/2014, nước này sẽ tiếp tục ưu tiên thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,
chế biến và phân phối hàng nông sản, khai khoáng, công nghiệp nhẹ, chế tạo máy
và thiết bị vận tải, thiết bị điện và điện tử, hóa chất, sản xuất nhựa, giấy, dịch vụ và
cơ sở hạ tầng…

Về thủ tục đầu tư, có khoảng trên 20 cơ quan của Chính phủ Thái Lan tham gia vào quy
trình thẩm định, thành lập DN để đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện đầu tư dự án
của nhà đầu tư nước ngoài tại Thái Lan.
Quá trình thành lập DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Thái Lan trải qua 2 bước: Đăng ký
Giấy phép kinh doanh nước ngoài và đăng ký kinh doanh thành lập DN theo cơ chế “một
cửa tại chỗ”. Cơ quan quản lý đầu tư tại quốc gia này là Ủy ban Đầu tư Thái Lan (BOI),
trước đây cơ quan này được giao làm đầu mối thực hiện để hỗ trợ các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, hiện nay, BOI chỉ đóng vai trò là đầu mối cung cấp các thông tin liên quan và
cấp Giấy chứng nhận ưu đãi cho nhà đầu tư. Việc xin cấp các loại giấy phép khác do nhà
đầu tư tự thực hiện tại các bộ, cơ quan chuyên ngành như: Bộ Thương mại cấp Giấy đăng
ký kinh doanh để thành lập DN; Bộ Công nghiệp cấp Giấy phép kinh doanh.
22



Chính phủ nước này cũng từng bước chuyển từ ưu đãi thuế đơn thuần sang ưu đãi trọn
gói, bao gồm cả thuế, lao động, thủ tục cấp phép trong thời gian nhanh nhất, cung ứng lao
động và cơ sở hạ tầng cho nhà đầu tư và quan trọng nhất là đơn giản hóa thủ tục hành
chính.
Trong báo cáo đánh giá về môi trường đầu tư của các nước trên toàn cầu công bố cuối
tháng 8 vừa qua, WB đánh giá cao những nỗ lực của Thái Lan trong việc cung cấp điện
và bảo vệ các nhà đầu tư, xử lý các giấy phép xây dựng và thực hiện các hợp đồng. Các
chính sách của chính phủ quân sự có thể tiếp tục duy trì những ưu thế này để hỗ trợ các
nhà đầu tư.
4.2.

Nội dung của chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được coi là những nhân tố chủ chốt trong quá
trình hồi phục hậu khủng hoảng 1997 của Thái Lan. Vì vậy, chính sách về DNNVV trở
thành một trong những tiêu điểm của hệ thống chính sách cải cách kinh tế của Thái Lan.
Trọng tâm của các chính sách trợ giúp DNNVV của Thái Lan là phát triển các mạng lưới
trợ giúp công nghiệp phục vụ xuất khẩu với mục tiêu chính là phục vụ cho chiến lược
phục hồi sau khủng hoảng của Thái Lan dựa trên phát triển xuất khẩu và thu hút đầu tư
nước ngoài. Một số chính sách có thể kể đến như:
4.2.1. Củng cố mạng lưới thể chế chuyên trách về DNNVV:
Thái Lan thành lập Uỷ ban khuyến khích DNNVV, là cơ quan độc lập trực thuộc Thủ
tướng Chính phủ. Nhiệm vụ của Uỷ ban là soát xét định nghĩa cả về DNNVV, đề xuất các
chính sách và biện pháp khuyến khích DNNVV và quản lý Quỹ phát triển DNNVV. Uỷ
ban này có trách nhiệm chuẩn bị Sách trắng hàng năm về DNNVV Thái Lan đệ trình Thủ
tướng. Quỹ phát triển DNNVV trực thuộc Ủy ban cũng được thành lập. Quỹ này được
Chính phủ cấp vốn hàng năm, được trợ giúp bởi khu vực tư nhân, các chính phủ nước
ngoài và các tổ chức quốc tế. Thái Lan cũng thành lập Viện Nghiên cứu phát triển
DNNVV, củng cố các tổ chức như Tập đoàn bảo lãnh tín dụng kinh doanh nhỏ, Tập đoàn

tài chính kinh doanh nhỏ, Hiệp hội công nghiệp.

23


4.2.2. Hoạch định kế hoạch lớn phát triển DNNVV:
Kế hoạch lớn phát triển DNNVV bao gồm 7 chiến lược cơ bản để trợ giúp các DNNVV.
Mỗi chiến lược cơ bản này lại bao gồm nhiều biện pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu
chung của chiến lược. Các chiến lược đó là nâng cấp năng lực kỹ thuật và quản lý của các
DNNVV; phát triển doanh nhân và nguồn lực con người của các DNNVV; nâng cao khả
năng tiếp cận thị trường của các DNNVV; tăng cường hệ thống trợ giúp các DNNVV;
cung cấp môi trường kinh doanh thuận lợi hơn; phát triển các doanh nghiệp cực nhỏ và
các doanh nghiệp cộng đồng; và phát triển các mạng lưới và các cụm DNNVV.
4.2.3. Xác định các ngành phát triển mạng lưới DNNVV:
Chính phủ Thái Lan đã đưa ra 10 ngành cần phải tập trung phát triển mạng lưới các
DNNVV, được chia là 2 nhóm: Nhóm 1 gồm 5 ngành mà sự phát triển của các DNNVV
là cực kỳ quan trọng và cấp bách, đó là lương thực và thức ăn gia súc; dệt may; sản phẩm
nhựa; thiết bị điện và điện tử; và ô tô và bộ phận ô tô. Nhóm 2 gồm 5 ngành mà sự phát
triển của các DNNVV là quan trọng vừa phải, bao gồm các ngành như da và giầy dép;
sản phẩm gỗ; cao su và sản phẩm cao su; gốm và kính; và đá quý và đồ trang sức. Tất cả
10 ngành này là những ngành công nghiệp có định hướng xuất khẩu, có kết cấu hạ tầng
tương đối tốt và có giá trị gia tăng cao.
4.2.4. Hoạch định chương trình hành động nhằm phát triển các DNNVV:
Chương trình này đề ra 18 biện pháp cần phải thực hiện để phát triển các DNNVV. Một
số biện pháp quan trọng gồm trợ giúp tài chính cho các DNNVV; thành lập và phát triển
thị trường vốn cho các DNNVV; đào tạo doanh nhân và người lao động; hỗ trợ phát triển
công nghệ mới; hỗ trợ nghiên cứu và tìm kiếm thị trường; phát triển các liên kết giữa các
DNNVV và các DN lớn; phát triển các hiệp hội DNNVV; phát triển các DNNVV ở nông
thôn; sửa đổi các quy định luật pháp gây trở ngại cho các DNNVV.
4.3.


Thực trạng chính sách

Thời gian qua, tình hình chính trị trong nước đã ảnh hưởng lớn đến triển vọng thu hút
FDI của Thái Lan. Chính quyền Thái Lan hiện nay nhận thức rất rõ về nguy cơ trì trệ
kinh tế của nước này. Nhiều người cho rằng sự tồn tại của chính phủ phụ thuộc vào quá
24


trình phục hồi của nền kinh tế và các nhà lãnh đạo Thái Lan đang nỗ lực thuyết phục các
nhà đầu tư rằng họ sẽ mang lại sự ổn định chính trị và tiếp tục thực hiện các chính sách
trước đây.
Thái Lan có một thời gian chứng kiến dòng vốn nước ngoài suy giảm do bất ổn chính trị,
thế nhưng, họ đã ngăn được đà suy giảm nhờ biết cách tập trung vào những lĩnh vực quan
trọng, đồng thời đơn giản hóa thủ tục hành chính. Vì vậy, mặc dù chính trị vẫn còn chưa
thật ổn định nhưng Thái Lan vẫn được xem là một điểm đến đầu tư hấp dẫn. Theo báo
cáo của Tổ chức Thương mại và Phát triển của LHQ (UNCTAD), tổng dòng vốn FDI đổ
vào khu vực châu Á (trừ Tây Á) trong năm 2013 lên tới 382 tỷ USD, tăng 4% so với năm
2012. Trong đó, Thái Lan là một trong những nền kinh tế đứng đầu châu Á về thu hút vốn
FDI sau Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Ấn Độ, Indonesia.
4.3.1. Những điểm nhấn thu hút FDI vào các khu công nghiệp
Điểm nhấn nổi bật trong chính sách thu hút FDI vào các KCN của Thái Lan là có sự đa
dạng và linh hoạt các chính sách và cấp độ ưu đãi nhằm thu hút đầu tư FDI vào các KCN,
cụ thể:
-

Các khuyến khích bằng thuế: Miễn, giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị; giảm
thuế nhập khẩu nguyên liệu; miễn, giảm thuế thu nhập DN; Giảm 50% thuế thu
nhập DN; khấu trừ hai lần chi phí vận chuyển, điện và nước; bổ sung 25% khấu trừ
chi phí xây dựng và lắp đặt cơ sở hạ tầng của DN; miễn thuế nhập khẩu đối với

nguyên liệu và nguyên liệu thiết yếu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay,
thuế suất phổ thông thuế thu nhập DN của Thái Lan là 20%.

-

Các khuyến khích phi thuế: Cho phép công dân nước ngoài vào Thái Lan để
nghiên cứu cơ hội đầu tư; cho phép đưa vào Thái Lan những lao động kỹ năng cao
và chuyên gia để thực hiện việc xúc tiến đầu tư; cho phép sở hữu đất đai; cho phép
mang lợi nhuận ra nước ngoài bằng ngoại tệ.

Về loại hình DN: Thái Lan cho phép có 3 loại hình DN được áp dụng đối với đầu tư nước
ngoài: DN tư nhân đơn nhất, công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
tư nhân. Hình thức phổ biến nhất đối với đầu tư nước ngoài là công ty TNHH tư nhân.
25


Đặc biệt, môi trường đầu tư Thái Lan phân biệt ưu tiên, ưu đãi đối với từng nhóm dự án
đầu tư cụ thể được phân loại theo tác động của dự án đó đến nền kinh tế cả nước; theo
hàm lượng khoa học công nghệ tiên tiến và mức chuyển giao công nghệ, mức đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển (R&D) và cho đào tạo lao động, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, tỷ lệ
nợ trên vốn và theo vị trí địa lý dự án trong khu công nghiệp.

Thuế nhập khẩu

Bên ngoài KCN

Bên trong KCN

Vùng 1


Giảm 50%

Giảm 50%

Vùng 2

Giảm 50%

Miễn thuế nhập khẩu

Vùng 3

Miễn thuế nhập khẩu

Miễn thuế nhập khẩu

Thuế thu nhập DN

Bên ngoài KCN

Bên trong KCN

Vùng 1

Không được ưu đãi

Miễn thuế 3 năm

Vùng 2


Miễn thuế 3 năm

Miễn thuế 7 năm

Vùng 3

Miễn thuế 8 năm

Miễn thuế 8 năm

Thái Lan ưu đãi cho FDI đầu tư vào các KCN theo quy hoạch _ Nguồn: Thu hút FDI tại
Thái Lan đầu tư theo hướng chọn lọc và có những ưu tiên riêng khi các DN đầu tư vào
các KCN – Tạp chí Kinh tế và Dự báo.
Các dự án ưu đãi đầu tư trong công nghiệp và nhất là KCN thường được phân thành 2
nhóm: nhóm A với các lĩnh vực được hưởng ưu đãi thuế; nhóm B với các lĩnh vực không
được hưởng ưu đãi thuế, nhưng có thể được hưởng các ưu đãi khác.
Nhóm A được chia thành 4 nhóm thành phần là: Nhóm A1, bao gồm các dự án có tầm
quan trọng lớn đối với quốc gia, trung tâm R&D, thúc đẩy khả năng cạnh tranh quốc gia;
Nhóm A2, gồm các dự án sử dụng công nghệ cao, vốn lớn, bảo vệ môi trường, song phải
là các dự án chưa từng được đầu tư ở Thái Lan; Nhóm A3, gồm các dự án giống A2
26


nhưng đã từng đầu tư tại Thái Lan và cần thiết phải kêu gọi thêm vốn đầu tư; Nhóm A4,
gồm các dự án không áp dụng công nghệ cao, nhưng có tầm quan trọng trong việc nâng
cao khả năng cạnh tranh của Thái Lan trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các dự án thuộc các nhóm khác nhau sẽ nhận được các ưu đãi thuế cụ thể khác nhau về
mức độ và thời gian (ví dụ: Dự án thuộc nhóm A1 và A2 được miễn thuế thu nhập DN
trong 8 năm, dự án nhóm A3 được miễn thuế 5 năm và A4 được miễn thuế 3 năm). Các
dự án nhóm A còn được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị hay nguyên vật liệu nhập

khẩu để sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Nhóm B bao gồm các lĩnh vực đầu tư được địa phương ưu đãi, nhưng chỉ được hưởng
các ưu đãi ngoài thuế như: Quyền được sở hữu đất hay được hỗ trợ cấp visa hay giấy
phép lao động cho lao động nước ngoài (mà không bị hạn chế như các dự án thông
thường). Trong một số trường hợp, những dự án quan trọng còn có thể được miễn thuế
xuất, nhập khẩu.
Vị trí địa lý dự án và các KCN thuộc đối tượng được nhận ưu đãi chia thành 03 vùng:
Vùng 1, vùng 2, vùng 3; trong đó, vùng 3 được hưởng ưu đãi đầu tư cao nhất, vì càng xa
Thủ đô Bangkok thì mức độ ưu đãi càng lớn.
Diện hưởng ưu đãi đầu tư thu hẹp dần từ 240 ngành, lĩnh vực xuống còn 100 ngành, lĩnh
vực, hiện tập trung hơn vào các lĩnh vực: Phát triển công nghệ cao; R&D, đẩy mạnh hoạt
động đào tạo công nghệ tiên tiến; Phát triển DN nhỏ và vừa; Tận dung ưu thế về vị trí địa
lý cũng như khắc phục sự thiếu hụt về tài nguyên thiên nhiên, tạo ra một hệ thống các
ngành dịch vụ thúc đẩy đầu tư quốc tế.
Thái Lan đặc biệt ưu đãi cho FDI đầu tư vào các KCN theo quy hoạch phát triển kinh tế
của đất nước, để tạo nên sức hút lớn cho các KCN.
Chính sách thu hút FDI của Thái Lan nhìn chung năng động, liên tục được điều chỉnh để
thích nghi với từng thời kỳ phát triển đất nước. Đặc biệt, Thái Lan đã xác định thu hút
vốn FDI đầu tư trọng điểm, từ đó, xây dựng các bộ phận chuyên trách riêng biệt đáp ứng
nhu cầu cụ thể của các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch khác nhau.
27


Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan đã có những chính sách nhằm giảm thiểu chi phí đầu
vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất chi phí lưu
thông hàng hoá, nới lỏng chính sách thuế thu nhập cho người nước ngoài.
Chính phủ rất chú ý phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, thành lập ủy ban hỗ trợ về
vấn đề này và cùng với các tổ chức chuyên môn lo phát triển, xây dựng, hình thành
những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Theo đó, Chính phủ Thái Lan đề ra
sáng kiến thành lập KCN hỗ trợ nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ trên toàn quốc.

Hiện Thái Lan có tới 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở 3 cấp: Lắp ráp, cung cấp thiết bị –
phụ tùng – linh kiện và dịch vụ. Điển hình về sự phát triển của các ngành công nghiệp
phụ trợ ở Thái Lan, đó là trong lĩnh vực sản xuất ôtô.
Từ chỗ từng bước nội địa hóa phụ tùng, đến nay Thái Lan đã xuất khẩu cả ôtô với linh
kiện – phụ tùng được sản xuất tại chỗ. Mặc dù chỉ có 15 nhà máy lắp ráp, nhưng Thái
Lan có đến 1.800 nhà cung ứng. Chính phủ Thái Lan từ chỗ quyết định về tỷ lệ nội địa
hóa (năm 1996): 40% đối với xe tải nhỏ, 54% đối với xe tải khác, đã tiến đến yêu cầu
động cơ diesel phải được sản xuất trong nước.
Khi năng lực của ngành công nghiệp phụ trợ đã phát triển đáp ứng yêu cầu, Thái Lan có
chính sách buộc các nhà đầu tư nước ngoài đã ổn định sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ
tỷ lệ nội địa hóa nói trên. Điều này đã kéo theo những dự án đầu tư mở rộng nhà xưởng
sản xuất ngay tại chỗ, mà còn kéo theo các công ty, tập đoàn lớn từ chính các nước đầu tư
sang mở thêm các cơ sở công nghiệp phụ trợ tại Thái Lan.
Trong quá trình triển khai dự án đầu tư, nhà đầu tư tại Thái Lan phải tuân thủ các tiêu
chuẩn về xây dựng, bảo vệ môi trường... Cụ thể, tại Thái Lan, nhà đầu tư phải có giấy
phép xây dựng trước khi xây dựng nhà máy.
Nhờ có những chính sách hợp lý mà những thập kỷ gần đây, Thái Lan trở thành điểm đến
cho đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Theo Báo cáo thường niên Môi trường kinh doanh lần
thứ 12 ngày 29/10/2015 của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Tài chính quốc tế, Cơ quan
Bảo lãnh đầu tư đa phương... công bố chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh thuận lợi
năm 2015 của Thái Lan đứng thứ 26/189, so với 78/189 của Việt Nam.
28


Tóm lại, môi trường đầu tư thuận lợi đã giúp Thái Lan khá thành công trong việc thu hút
FDI vào KCN. Đây là yếu tố quyết định làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của nền kinh tế
Thái Lan, trở thành một quốc gia có cơ cấu công nghiệp, dịch vụ khá hiện đại trong nhiều
lĩnh vực về kỹ thuật và công nghệ cao tại khu vực Đông Nam Á.
Nắm giữ vai trò là quốc gia chủ lực trong khối ASEAN về công nghiệp xe hơi, lọc hóa
dầu, xi măng, hóa chất, nông nghiệp kỹ thuật cao... Những tác động từ FDI là cơ sở vững

chắc cho sự tăng trưởng ổn định và là tiền đề cho sự thay đổi vượt trội về năng lực cạnh
tranh và hấp dẫn thu hút đầu tư của Thái Lan trong khu vực châu Á.
Chính phủ Thái Lan mới đây đã ra lệnh cho Ủy ban Đầu tư (BoI) tích cực thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài có ý định rời khỏi Trung Quốc, nhất là những nhà đầu tư từ Nhật Bản
bị thiệt hại bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Tờ Bangkok Post ngày 3/6 dẫn lời Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid Jatusripitak nhận
định, các ngành kỹ thuật cao như công nghệ thông tin và điện tử có thể sẽ chuyển khỏi
Trung Quốc trong lúc cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung được đẩy cao.
Theo báo cáo mới nhất của BoI, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Thái Lan đạt
104,88 tỷ Baht (3,328 tỷ USD) trong 4 tháng đầu năm 2019, tăng mạnh so với mức 36,5
tỷ Baht cùng kỳ năm ngoái.
4.3.2. Điểm mới trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
Theo BOI, hiện nay, Thái Lan đang thực hiện 03 thay đổi trong chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài, cụ thể là:
Trước đây, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài được dựa trên chiến lược phát triển sản
xuất thay thế nhập khẩu. Do đó, Thái Lan phải nhập khẩu nhiều máy móc, nguyên vật
liệu, dẫn đến thâm hụt thương mại. Đến nay, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của
Thái Lan là hướng vào phát triển sản xuất phục vụ cho xuất khẩu;
Thu hẹp diện hưởng ưu đãi đầu tư từ 240 ngành, lĩnh vực như trước đây xuống còn 100
ngành, lĩnh vực. Đồng thời, ưu đãi đầu tư tập trung hơn vào 03 lĩnh vực, bao gồm: phát

29


×