Lời mở đầu
Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì nguồn vốn
đầu tư có ý nghĩa rất lớn cho sự phát triển kinh tế. Có thể nói,đó là nhân tố
quan trọng bậc nhất,là cơ sở để các nước dựa vào đó để đưa ra các định
hướng,các chính sách kinh tế cho phù hợp với đất nước cũng như với sự
biến động của nền kinh tế thị trường.
Đối với Việt Nam, nguồn vốn FDI mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để
thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Việt Nam cần một
lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để
xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội.
Năm 2007 là năm đánh dấu kỷ lục dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam. Nếu tính
20 năm thu hút vốn FDI (từ năm 1988 đến 2006) VN đạt được 78,248 tỷ
USD (là vốn đăng ký, vốn thực hiện chỉ đạt 37,271 tỷ USD), chỉ riêng năm
2007 vốn FDI đăng ký đã vọt lên 21,3 tỷ USD (vốn thực hiện đạt hơn 8 tỷ
USD – tất cả số liệu trên của Bộ KH - ĐT).
Để làm rõ hơn vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “ Chính sách
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Ấn Độ, Trung Quốc,Ma-Lai-xia,
Thái Lan và bài học cho Việt Nam”..
Đây có thể không phải là vấn đề mới nhưng nó khá là sâu rộng nên có thể
trong bài viết chủ yếu đề cập đến các chính sách chủ yếu của các nước và
một số bài học điển hình được nhóm cho là quan trọng với Việt Nam.
1
Chương 1. Những lý luận chung
1.1 Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình
thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh.Cá nhân hay công ty nước ngoài đó
sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu
tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty
mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Tuy có các khái niệm khác nhau nhưng đều thống nhất ở điểm sau:
- FDI- là hình thức đầu tư quốc tế
- Cho phép các nhà đầu tư tham gia điều hành hoạt động đầu tư ở nước
tiếp nhận đầu tư tuỳ theo tỷ lệ góp vốn.
- Quyền sở hữu gắn liền với quyền sử dụng tài sản đầu tư,nhà đầu tư có thể
có lợi hơn nếu kinh doanh hiệu quả và ngược lại phải chịu rủi ro nếu kinh
doanh thua lỗ.
1.2 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ năm 1966, hai nhà kinh tế học là H.Chane và A.M.Strout đã viết rằng,
các nước đang phát triển vừa thiếu vốn, vừa nhập siêu trong thương mại
quốc tế nên FDI sẽ giúp họ khắc phục hai khó khăn trên. Và vai trò của FDI
sẽ là rất lớn.
Tuy nhiên, cũng vào năm ấy, nhà kinh tế học Ba Lan Kalecki đã đưa ra ý
kiến cho rằng, trong quá trình tăng thêm đầu tư và sử dụng một phần lợi
nhuận để tái đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ thu được lợi nhuận lớn, số
tiền lợi nhuận đó ngày càng nhiều, cộng với tiền bán licence sẽ được liên tục
2
chuyển ra khỏi nước chủ nhà, khiến cho mức bội thu trong tài khoản vãng lai
của nước chủ nhà bị thu hẹp, thậm chí chuyển thành bội chi, do đó làm cho
cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà xấu đi, dẫn đến khủng hoảng
tài chính. Ý kiến này đã được một số học giải tán thành. Thí dụ, năm 1994,
Dooley đã cho rằng, khi khủng hoảng tài chính xảy ra, nước nào có tỷ trọng
FDI trong GDP càng cao thì biến động càng lớn.
Lập luận của các học giả nói trên là, mặc dù nước tiếp nhận đầu tư không
phải trả lãi cho nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải cho nhà đầu tư chuyển lợi
nhuận về nước họ nên về thực chất, FDI cũng là một khoản nợ lãi suất cao
với thời hạn rất dài. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao hơn tỷ suất lợi nhuận đầu
tư ở các nước đang phát triển là 16%-18%, ở các nước nghèo của châu Phi là
24%-30%. Khi số lợi nhuận này được chuyển ra khỏi nước chủ nhà đến một
mức độ nào đó sẽ mang lại rủi ro cho cán cân tài khoản vãng lai, thậm chí là
cho cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ nhà. Cũng cần biết rằng cán
cân thương mại (xuất – nhập khẩu) có ảnh hưởng rất lớn trong tài khoản
vãng lai của một quốc gia.
Đó chỉ là một phần tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư.
3
Chương 2
Chính sách thu hút FDI của Ấn Độ, Trung Quốc,Thái
Lan và Ma-lai-xia
I - Ấn Độ.
1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Ấn Độ
1.1.1 Tổng quan về FDI vào Ấn Độ từ 1997-2005
Với ưu thế là những thị trường lớn, lại đang nổi lên, Ấn Độ rất hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Và chính nhờ thu hút được khối lượng
vốn đầu tư nước ngoài lớn đã góp phần tạo nên sức sống mới, làm nên
những thành công của Ấn Độ.
Trong thời kỳ 1997-2005, tổng FDI thực tế vào Ấn Độ là khoảng 34 tỷ
USD. FDI đã đem lại sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là các
ngành công nghiệp chế tạo ở Ấn Độ và các ngành như: nhiên liệu, thông tin
viễn thông, công nghiệp vận tải, dịch vụ...
Trong vòng 7 năm trở lại đây (từ 1998), Ấn Độ được liệt vào danh sách
các thị trường thu hút FDI hấp dẫn nhất thế giới. Từ năm 2002 đến năm
2004, các nhà đầu tư thế giới liên tục coi Ấn Độ là địa điểm đầu tư của họ;
xét về tiêu chí thị trường hấp dẫn nhất. Trong đó, vị trí của Ấn Độ được
nâng lên từ số 15 năm 2002 lên thứ 6 năm 2003 và thứ 3 năm 2004.
Bảng 1: FDI thực tế vào Ấn Độ, 1997-2001, tỷ USD
Năm 1997 98 99 2000 2001 2002 2003 200
4
2005
Ấn Độ 3,619 2,633 2,16
8
2,319 3,403 3,7 4,3 5,3 6,0
Nguồn: Economic Survey 2004-2005; UNCTAD, Investment Brief, No.
1/2006; UNCTAD 2002, Aaditya Mattoo, India and the WTO, WB and
Oxford University Prees 2003, tr. 150.
4
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục đi liền với mức tăng tiêu dùng
nội địa mạnh - làm tăng tổng dung lượng thị trường. Điều này đi liền với các
yếu tố khác như: tỷ lệ lao động có kỹ năng gia tăng, giá lao động rẻ hơn, các
quy định về đầu tư được nới lỏng, trong khi mức độ hội nhập vào kinh tế và
mạng thông tin toàn cầu gia tăng… đã tạo ra sự hấp dẫn đối với đầu tư và
thu hút được sự quan tâm của nhiều công ty lớn cũng như các nhà quản trị
hàng đầu thế giới.
Phần lớn ĐTNN vào Ấn Độ đến từ các nước phát triển. Theo số liệu điều
tra các năm 1986-87 và 1996-97, thì có đến 68,47% FDI vào Ấn Độ là đến từ
các nước phát triển. Điều này theo chúng tôi, chẳng những có liên quan rất
nhiều đến chất lượng công nghệ được chuyển giao thông qua FDI mà còn liên
quan đến sự thay đổi trong cơ cấu ngành của nền kinh tế . Một số nghiên cứu
khác cũng chỉ ra rằng, trong giai đoạn 1991-2000, trong số 10 nhóm các nhà
đầu tư nước ngoài có mức đầu tư lớn nhất vào Ấn Độ (theo thứ tự từ nước có
tỷ trọng lớn nhất: Mỹ, Maritus, Anh, Hàn Quốc, Nhật, Ấn Kiều, Đức, Úc,
Malaysia, Pháp) thì chỉ có 2 trong số đó nằm ngoài nhóm các nước tư bản
phát triển (Malaysia, Ấn Kiều) . Còn trong giai đoạn 1991-2004, trong số 5
nhà đầu tư lớn nhất vào Ấn Độ thì không có nhà đầu tư nào đến từ các nước
đang phát triển (xem bảng 2).
Bảng 2: Phần của 5 nhà cung cấp FDI lớn nhất ở Ấn Độ, 1991-2004
Xếp
hạng
Nước Dòng FDI vào Ấn
Độ (Tỷ USD)
Tỷ lệ/tổng số
(%)
1 Mauritius 8,898 34.49%
2 Mỹ 4,389 17.08%
3 Nhật Bản 1,891 7.33%
4 Hà Lan 1,847 7.16%
5 Anh 1,692 6.56%
5
Nguồn: www. non-resident Indians
Đa số ĐTTNN ở Ấn Độ là các ngành công nghệ thông tin và dịch vụ.
Theo đánh giá, có đến 39% trong đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ có khả năng
hướng tới ngành kỹ thuật tin học. Đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ vào ngành
chế tạo chỉ có 3%. Đây cũng là một nhân tố dẫn đến sự khác nhau lớn về cơ
cấu kinh tế. Trong đó dịch vụ lại chiếm vai trò chính. Trong xu thế vận động
của thế giới hiện nay (chủ nghĩa khủng bố, xung đột khu vực, đặc biệt những
diễn biến liên quan đến tình hình bất ổn ở một số nước xuất khẩu dầu mỏ lớn
như Iran, Irắc, Nigiêria, Veleduêla…) - khi mà giá nhiều loại nguyên vật liệu,
năng lượng có chiều hướng gia tăng nhanh thì cơ cấu kinh tế dựa nhiều vào
dịch vụ như của Ấn Độ tỏ ra có ưu thế .
Trong những năm gần đây, khi mà các hoạt động kinh doanh nguồn
ngoài (BPO) đang trở nên sôi động, với nhiều ưu thế như: sự phát triển và
ứng dụng rộng rãi của công nghệ thông tin, sự phát triển mạnh của ngành
chế tạo, nhiều trung tâm nghiên cứu và phát triển được thành lập, các hoạt
động phân phối, mạng lưới văn phòng hỗ trợ kinh doanh, quản lý tri thức…
các nhà đầu tư đều coi Ấn Độ là một trong những thị trường nguồn ngoài
hàng đầu thế giới. Hai thị trường này theo ước tính sẽ nắm giữ khoảng hơn
1/2 tổng các hoạt động kinh doanh nguồn ngoài toàn cầu giai đoạn
2005-2007.
Bảng 3: Tổng FDI vào 10 nước nhận lớn nhất thế giới, 1997-2001,
tỷ USD
Xếp hạng Nước Khối lượng thu hút
FDI
1 Mỹ 986,555
2 Anh 365,877
3 Trung Quốc 215,925
4 Brazin 131,663
6
5 Mehico 77,948
6 Nhật 33,628
7 Hàn Quốc 30,04
8 Thái Lan 18,902
9 Malaysia 17,275
10 Ấn Độ 14,142
Nguồn: UNCTAD 2002, Aaditya Mattoo, India and the WTO, WB and
Oxford University Prees 2003, tr. 149.
Ở Ấn Độ các trung tâm kinh doanh nguồn ngoài như: New Dêli,
Bombay, Bangalore… đang đứng trước nhiều như cầu lớn, đang gia tăng về
IT, BPO khiến cho mức lương nhân công ở đây bị lâm vào tình trạng "lạm
phát" với mức tăng hàng năm lên tới 10-20%.
Một điểm đáng chú ý trong hoạt động của FDI vào Ấn Độ là xu hướng
gia tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Có hơn 30% trong số 885 dự
án R&D công bố ở Châu Á trong giai đoạn 2002-2004 được tập trung ở Ấn
Độ. Chính vì vậy, trong khi phần lớn các hoạt động R&D trên thế giới vẫn
tập trung ở các nước phát triển thì chỉ trong một thời gian ngắn Ấn Độ đã
nổi nên như một điểm tựa quan trọng về R&D cho các công ty có phạm vi
kinh doanh trên toàn cầu. Ở Ấn Độ, với hơn 2400 nhân viên, hãng General
Electric đã thực hiện các hoạt động R&D trên nhiều lĩnh vực như: hàng liêu
dùng lâu bên, thiết bị y tế, động cơ máy bay… Bên cạnh đó, nhiều hãng
dược phẩm lớn như Eli Lily, Astra- Zeneca, Novartis, Pfizer & Sanofi-
Aventis… đều đã và đang thực hiện nhiều nghiên cứu y học ở Ấn Độ vì nơi
đây, việc thực hiện với chi phí thấp hơn nhiều, chỉ bằng 1/2 mức ở Mỹ.
Với xu thế này, Ấn Độ đang tiến vào một thời kỳ mà FDI hoạt động có
hiệu quả hơn, lành mạnh hơn, do hội nhập sâu hơn và có nhiều tiến bộ hơn
7
về công nghệ. Tại Ấn Độ, các công ty nước ngoài đang gia tăng các hoạt
động đào tạo, tư vấn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, có rất nhiều nhân viên
được các doanh nghiệp nước ngoài đào tạo chuyển sang làm việc cho các
doanh nghiệp địa phương (khác với dòng lao động chảy ngược lại ở nhiều
nước đang phát triển khác). Chính vì điều này mà nhiều khu vực ở Ấn Độ
đang có ưu thế lớn tiến tới đạt đẳng cấp thế giới. Các thành phố Bangalore,
Bombay của Ấn Độ là trụ cột của công nghệ phần mềm đang được quốc tế
hoá.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư toàn cầu vẫn có thiên hướng không coi Ấn
Độ là công xưởng của thế giới - là thị trường tiêu thụ đang gia tăng thuộc
loại nhanh nhất. Ấn Độ được coi là nhà cung cấp các hàng gia công và dịch
vụ IT của thế giới. Chính vì vậy, các dự án đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ lại
hướng vào hoạt động gia công và IT và Ấn Độ cũng thu được lợi nhiều từ
các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính và dịch vụ.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao lực lượng lao động được đào
tạo tốt của Ấn Độ, cũng như khả năng quản lý, tính minh bạch và môi
trường luật pháp thuận lợi .
Sự gia tăng FDI có liên quan đến tiếp nhận công nghệ và làm tăng khả
năng xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao ở Ấn Độ. Từ năm
1992 đến nay, tổng mức xuất khẩu sản phẩm dịch vụ thông tin và phầm
mềm của Ấn Độ tăng từ mức 500 triệu USD lên 17,2 tỷ USD. Bên cạnh mức
tăng trưởng kinh tế cao, chuyển giao công nghệ theo chiều sâu được đẩy
nhanh cũng đã và đang giúp Ấn Độ đang trên đường trở thành những cường
quốc thương mại.
1.1.2 Tình hình thu hút FDI của Ấn Độ năm 2008- 2009.
Theo nguồn tin của Bộ công thương, tình hình khủng hoảng tài chính
thế giới tiếp tục tác động đối với dòng vốn FDI vào Ấn Độ do lượng vốn
FDI đã giảm trong tháng 2 năm 2009. Lượng FDI đã giảm mạnh trong tháng
2/2009 tới 73%, chỉ còn 1,49 tỷ USD so với 5,67 tỷ USD cùng kỳ năm
8
trước. Tổng FDI tài khoá 2008-2009 có thể chỉ đạt 25,38 tỷ USD. Tức là, Ấn
Độ sẽ không đạt mục tiêu 35 tỷ USD đã đề ra trước đây cho tài khóa
2008-2009 cũng như ngay cả mục tiêu FDI đã điều chỉnh là 30 tỷ USD. Tuy
nhiên, tổng FDI từ tháng 4/2008 đến tháng 2/2009 đã vượt mức 24,57 tỷ
USD, mức mà Ấn Độ đã nhận được tài khoá trước. Tài khoá 06-07, lượng
FDI Ấn Độ chỉ nhận được là 15,5 tỷ USD. Mặc dù FDI đã tăng mạnh trong
nửa đầu tài khoá 2008-2009 nhưng khi khủng hoảng tài chính thế giới bắt
đầu lan rộng, FDI vào Ấn Độ đã giảm. Sau khi duy trì liên tục mức nhận
FDI bình quân hang tháng là 2,8 tỷ USD cho đến tháng 9/2008 tài khoá
08-09, FDI vào Ấn Độ đã giảm tới 26% vào tháng 10/2008, chỉ đạt 1,49 tỷ.
Sau khi giảm với tỷ lệ tương tự vào tháng 11/2008 đạt 1 tỷ USD, FDI một
lần nữa giảm còn 1,36 tỷ USD vào tháng 12/2008 so với 1,56 tỷ USD cùng
kỳ năm trước, giảm 13%. Tuy nhiên, FDI đã tăng trở lại trong tháng 1/2009
tới 55%, đạt 2,74 tỷ USD so với 1,77 tỷ USD tháng 1/2008. Trong khi, từ
tháng 4/2007 đến tháng 4/2008, lượng FDI đã tăng 137%, đạt 17,2 tỷ USD
so với cùng kỳ năm trước nhưng từ tháng 4/2008 đến tháng 1/2009, tỷ lệ
tăng FDI giảm tới 66% đạt 23,94 tỷ USD. Ấn Độ đã thu hút được khoảng 88
tỷ USD từ tháng 4/2000 đến tháng 2/2009.
Tuy nhiên, nền kinh tế lớn thứ ba châu Á đang có mức phục hồi tăng
trưởng ấn tượng trong bối cảnh các nền kinh tế lớn khác vẫn lao đao sau
khủng hoảng: Tăng trưởng kinh tế quý II đạt 6,1% so với mức tăng trưởng
quý I là 5,8%. ADB dự báo kinh tế Ấn Độ sẽ đạt mức tăng trưởng 6% trong
năm nay và 7% trong năm 2010. Lần đầu tiên GDP của Ấn Độ tăng tốc kể từ
năm 2007. Thật vậy, nền kinh tế trị giá 1.200 tỷ USD này đã trỗi dậy sau suy
thoái mạnh mẽ hơn nhiều nước. Kết thúc năm tài khoá năm 2008 (vào ngày
31/3/2009), kinh tế nước này đạt mức tăng trưởng 6,7% - mức thấp nhất kể
từ năm 2003 nhưng lại đứng nhất nhì thế giới về tốc độ tăng trưởng. Đặc
biệt khi Chính phủ Ấn Độ thông qua chương trình kích thích kinh tế, cắt lãi
suất và giảm thuế để khuyến khích chi tiêu đã giúp thị trường tiêu thụ trong
nước tăng mạnh và nhờ thế hoạt động công nghiệp khởi sắc.
9
Số liệu công bố ngày 12/10 của Văn phòng thống kê nước này cho
thấy, sản xuất công nghiệp tăng 10,4% trong tháng 8 so với cùng kỳ năm
ngoái, mức cao nhất trong vòng 22 tháng qua. Các lĩnh vực khác cũng tăng
trưởng trở lại như hầm mỏ, mặt hàng điện tử. Chính phủ nước này khẳng
định nền kinh tế đang tiến bước còn giới doanh nghiệp cũng vững tin hơn.
Tuy nhiên, những mối lo vẫn còn. Các doanh nghiệp lo ngại rằng
Chính phủ có thể tăng lãi suất để chặn đà lạm phát và kiểm soát giá lương
thực. Nạn hạn hán tại phần lớn đất nước và nạn lụt tại những nơi khác trong
nước đã gây tác hại cho mức tăng trưởng nông nghiệp và gây tai hại cho nền
kinh tế nông thôn. Chưa kể đến sự phục hồi kinh tế diễn ra chậm chạp tại
nhiều nước phương Tây có thể ngăn cản đà tiến tại Ấn Độ. Các chuyên gia
kinh tế còn cảnh báo, kinh tế Ấn Độ có cải thiện đi nữa cũng khó đạt tới
mức tăng trưởng như trước cuộc khủng hoảng.
Nền kinh tế Ấn Độ đang phục hồi nhanh, dẫn đến việc thu hút nguồn
vốn FID tăng trở lại sau khung khoảng kinh tế chung toàn cầu.
Thứ nhất, Ấn Độ vẫn là một nước có nền kinh tế hướng nội với gần
1,2 tỷ dân. Tỷ lệ xuất khẩu hiện chỉ chiếm 15% GDP của Ấn Độ. Cả xuất
khẩu và nhập khẩu (kể cả nguồn thu từ khách du lịch, tiền gửi của lao động
ở nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ) chiếm xấp xỉ một nửa GDP của Ấn Độ.
Thứ hai, những tài năng công nghệ gốc Ấn đã rời Thung lũng Silicon
của Mỹ về nước tiếp thêm sức mạnh cho cuộc cách mạng công nghệ cao của
nước này. Theo chân họ là nguồn vốn. Số liệu của WB cho thấy, cả thập
niên qua, lượng kiều hối của Ấn Độ là 154 tỷ USD. Hiện có khoảng 20 triệu
Ấn kiều sinh sống ngoài Ấn Độ, trong đó có 200.000 triệu phú ở Mỹ. Ngân
hàng JP Morgan cho rằng cộng đồng Ấn kiều là đòn bẩy hùng mạnh giúp Ấn
Độ thậm chí vượt qua mức tăng trưởng dự báo là 10%/năm.
Ấn Độ "có vẻ sẵn sàng đón nhận nhiều FDI hơn trong những năm tới
so với hiện tại", một phần nhờ chính sách thân thiện với Ấn kiều. Giờ đây,
với thảm đỏ trải ra để chào đón vốn đầu tư của kiều dân, New Dehli sẽ
10
chứng kiến dòng chảy vào không chỉ bằng tiền, mà cả chất xám quý giá của
những người trí thức gốc Ấn.
Ngoài ra, Ấn Độ còn có nền khoa học công nghệ phát triển sớm với
các lĩnh vực có thế mạnh như hạt nhân, nghiên cứu vũ trụ, công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, hóa chất, dược phẩm… Đặc biệt ngành công nghệ
thông tin tiếp tục giữ kỷ lục tăng trưởng 2 con số, trong đó xuất khẩu phần
mềm và dịch vụ liên tục đạt doanh số trên 40 tỷ USD/năm.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, Ấn Độ nỗ lực vun trồng
một số công ty mạnh, có thể cạnh tranh ngang ngửa với những hãng lớn của
Mỹ hay châu Âu. Những công ty Ấn này sử dụng công nghệ mới, thuộc các
ngành dùng nhiều chất xám, như hãng phần mềm lừng danh Infosys, Wipro,
các hãng dược phẩm nổi tiếng Ranbaxy, Dr Reddy"s Labs. Trong thống kê
của tạp chí Forbes năm ngoái về 200 công ty lớn nhất thế giới, có 13 đại
diện của Ấn.
1.3 Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Ấn Độ.
Để thu hút được lượng vốn FDI lớn từ các nước phát triển, Ấn độ đã có
một quá trình hoạch định chính sách theo mốt quy trình thống nhất, đứng
đầu alf Chính phủ, sau đó đến Bộ Công thương, tiếp theo là Uỷ ban thúc
đẩy ĐTNN. Ngoài ra còn có Uỷ ban chuyên trách về phát triển công gnhiệp
thực hiện. Cơ chế này được thực hiện thông suốt, một cửa, không chồng
chéo, tạo nhiều thuận lợi cho việc phê chuẩn, cấp giấy phép, giám sát.việc
thực hiện. Mặt khác, các chính sách thu hút ĐTNN được điều chỉnh hàng
năm cho phù họp voíư tình hình thực tiễn.
1.3.1 Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài
1.3.1.1 Điều chỉnh cơ cấu sở hữu vốn đầu tư theo ngành
Thời kỳ đầu mới giành được độc lập (1948), nền kinh tế của Ấn độ còn
đóng cửa với thế giới bên ngoài. Vì vậy một phần ảnh hưởng đến các chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài của Ấn độ. Từ năm 1973, Luật điều tiết
ngoại hối( FERA) đã áp dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần của người nước ngoài ở
11
mức tối đa là 26% đến 40% tuỳ từng lĩnh vực. Vào năm 1980 Ấn độ bắt đầu
nới lỏng những hạnh chế đối với đầu tư nước ngoài và tuyên bố bước đầu tự
do hoá nền kinh tế. Tuy nhiên phải đến năm 1991, các biện pháp tự do hoá
nền kinh tế mới chính thức được áp dụng thông qua NIP. Cũng trong năm
này Chính phủ đã chấp thuận Ngân hàng dự trữ Ấn Độ (RBI) chính thức
được quyền phê chuẩn tự động Đầu tư nước ngoài trong các ngành công
nghiệp. Sau năm 1991, tỷ lệ cổ phần của người nước ngoài được nâng lên
51% trong 34 ngành thuộc lĩnh vực ưu tiên cao, các ngành tập trung nhiều
vốn và các ngành tập trung công nghệ cao. Đến tháng 12 năm 1996 tỷ lệ này
được Chính phủ tăng lên 74% trong một số ngành công nghiệp được ưu tiên
trong lĩnh vực xây dựng đường sá, cầu cống, hải cảng, năng lượng, sản xuất
ga, dịch vụ khai thác than; Năm 1997 các doanh nghiệp nước ngoài được sở
hữu 100% vốn trong các dự án hướng vào xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
phục vụ xuất khẩu, y tế, cơ sở hạ tầng. Nhưng các nhà Đầu tư nước ngoài,
muốn đầu tư vào Ấn Độ với tỷ lệ sở hữu từ 51% đến 100% phải qua nhiều
thủ rục hành chính rườm rà từ phía Chính phủ.
Đến năm 1999 đạo luật ngoại hối (FEMA) đã ra đời thay thế luật điều
tiết ngoại hối (FERA), huỷ bỏ những hạn chế đối với các công ty nước
ngoài.Thủ tục cấp giấy phép cũng được tự do hơn. Sau nhiều lần sửa đổi,
đến năm 2007, Chính phủ Ấn Độ quy định về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu
tư nước ngoài trong các ngành như sau:
- Sở hưũ 0% ( ngăn cấm đầu tư): Ngành Thương mại bán lẻ, năng
lượng nguyên tử, cờ bạc và cá cược, kinh doanh nhà ở và bất động sản và
một số lĩnh vực nông nghiệp.
- Sở hữu tối đa 26%: Ngành Nông nghiệp, công nghiệp quốc phòng,
in ấn, bảo hiểm.
- Sở hữu tối đa 49%: Ngành Phát thanh, hàng không nội địa, cơ sở hạ
tầng và dịch vụ, khai thác khoáng sản (trừ vàng bạc, đá quý), sản xuất dây
dẫn.
12
- Sở hữu tối đa 74%: Ngành Xây dựng và vận hành các vệ tinh nhân
tạo, các nguyên liệu nguyên tử, khai thác than, ngân hàng và một số lĩnh vực
trong ngành công nghiệp viễn thông.
- Sở hữu 100%: Ngành hàng không, lọcdầu, hoá dầu, năng lượng phi
hạt nhân, đường sá, đường cao tốc, du lịc, quỹ đầu tư mạo hiểm, công
nghiệp quảng cáo, sản xuất phần mềm ti vi, một số lĩnh vực trong ngành
công nghiệp viễn thông.
Năm 2007, Chính phủ cũng áp dụng thêm những điều kiện an ninh đặc
biệt cho ngành công nghiệp viễn thông, theo đó các đại diện hiệp hội kinh
doanh phải quan tâm đến vấn đề an ninh và tăng tỷ lệ sở hữu của nhà Đầu tư
nước ngoài trong ngành này.
Chính phủ Ấn độ xem xét lại chính sách Đầu tư nước ngoài thường
xuyên. Mỗi năm, chính sách đầu tư nước ngoài theo ngành sẽ được xem xét
thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Tháng 1 năm 2008, Chính phủ đã phê chuẩn một số thay đổi liên quan
đến chính sách thu hút FDI. Ví dụ, trong ngành hàng không dân sự tăng tỷ
lệ sở hữu của người nước ngoài tăng từ 49% lên 74%; Các biện pháp tự do
hoá thủ tục đầu tư đã được phê chuẩn cho các ngành xây dựng, thông tin,
các công viên công nghiệp, khai thác titan.
1.3.1.2 Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài:
- Cải thiện các thủ tục đầu tư:
Năm 1991, Chính phủ đã chính thức huỷ bỏ sự kiểm soát hành chính
đối với các ngành công nghiệp. Việc cấp giấy phép cho các ngành công
nghiệp năm 1951 đã được huỷ bỏ hoàn toàn trừ một số ngành như năng
lượng nguyên tử, đường sắt, sản xuất rượu, hoá chất độc hại, thiết bị cháy
nổ, thuốc lá, thiết bị quốc phòng
13
Năm 1994 Chính phủ tiến hành tự do kiểm soát ngoại hối, thời hạn phê
chuẩn ĐTNN giảm từ 90 ngày xuống chỉ còn 4 đên 6 tuần .
Năm 1998, RBI thông báo đơn giản hoá hoá các thủ rục phê chuẩn tự
động các dự án FDI, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
trong các hoạt động giao dịch ngoại hối.
- Tạo điều kiện thuận lợi về thuế:
Năm 1993, FERA được tự do hoá, thuế nhập khẩu giảm từ 150%
xuống 100%. Năm 1994-1995, thuế nhập khẩu được giảm hơn nữa để thấp
hơn chi phí vốn và khuyến khích đầu tư. Đến năm 1993, thuế nhập khẩu
hàng hoá, vốn trong các dự án FDI hầu như được miến hoàn toàn, đồng thời
danh mục các hàng hoá được miễn thuế nhập khẩu đã tăng lên 78 hạng mục
và tiếp tục tăng ở những năm sau đó. Những thay đổi vể thuế nhập khẩu
được thực hiện thông qua chương trình như Giấy phép Nhập khẩu đặc biệt
(SIL) và Giấy phép Nhập khẩu chung mở (OGL), áp dụng miễn thuế cho cả
nhập khẩu hàng hoá sản xuất và tiêu dùng.
Bên cạnh đó, thuế công ty áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
cũng được giảm mạnh, từ 65% năm 1991 xuống 55% năm 1995. Chính phủ
áp dụng chế độ miễn giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp ĐTNN trong
thời hạn 3-5 năm tuỳ từng ngành ưu tiên.
- Điều chỉnh chính sách liên quan đến chuyển giao công nghệ:
Chính sách viễn thông quốc gia năm 1994 đã cho phép khu vực tư nhân
được tham gian phát triển công nghệ viễn thông của đất nước. Tỷ lệ sở hữu
của nhà ĐTNN được nâng lên tối đa 51% vào năm 1994 và ở một số lĩnh
vực viễn thông công nghệ thấp, tỷ lệ này duy trì ở mức 49%. Năm 1995,
Chính phủ sửa đổi Cơ chế Công viên công nghệ phần mềm (STP) và Cơ chế
Công viên công nghệ phần cứng điện tử (EHTP), trong đó có những khuyến
khích về thuế VAT và thuế doanh thu, thuế nhập khẩu. Những hàng hoá
nhập khẩu liên quan đến sản xuất hàng điện tử và phần mềm trong thời gian
này được miễn thuế hoàn toàn. Tháng 7 năm 1998, Nhóm Đặc nhiệm quốc
14
gia về công nghệ thông tin và phần mềm đã đề xuất một kế hoạch hành động
108 điểm, trong đó có những biện pháp ưu đãi hơn cho ĐTNN vào lĩnh vực
này. Trong những năm 2000-2007, những khuyến khích đặc biệt của Chính
phủ đều thuộc về các ngành năng lượng, viễn thông, phần mềm,
hydrocacbon, R&D và xuất khẩu.
- Điều chỉnh vùng đầu tư:
Năm 1991, Chính phủ quy định ĐTNN được ưu tiên phân bổ ở những
thành phố, thị trấn có trên 1 triệu dân trở lên, trong đó những ngành công
nghiệp gây ô nhiễm sẽ cách thành phố khoảng 25 km; ưu tiên thành lập các
khu công nghiệp; những ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp phần mềm,
công nghiệp in ấn không hạn chế và phân bổ địa bàn đầu tư. Chính phủ đã
thống kê 23 địa điểm có môi trường thuận lợi thu hút ĐTNN, trong đó có
New Delhi, Greater Mumbai, Kolkata, Chennai…Năm 1991, Chính phủ
cũng đưa các vùng lãnh thổ Gujarat, Kerala, Maharashtra, Uttar Pradesh
Andhra Pradesh… vào danh sách những vùng thực hiện chính sách cải cách,
mở cửa, thu hút các ngành công nghệ cao, không độc hại, không gây ô
nhiễm. Năm 1993, Chính phủ tiến hành thành lập các khu thúc đẩy xuất
khẩu (EPZs) với chức năng xuất khẩu 100% sản phẩm. Các khu này được
miễn thuế nhập khẩu hoàn toàn và được hưởng những ưu đãi đặc biệt khác.
Từ năm 2000, các EPZs được Chính phủ chuyển đổi thành các khu kinh tế
(SEZs) chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và được hưởng các ưu đãi đặc biệt,
trong đó có việc cho phép sở hữu của người nước ngoài lên 100%. Đến năm
2000, ở Ấn Độ có 14 SEZs và từ năm 2005, khi luật SEZs được ban hành thì
số lượng SEZs được mở rộng hơn rất nhiều.
- Phát triển cơ sở hạ tầng:
Chính sách công nghiệp mới năm 1991, một phần cũng hướng đến việc
cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng để thu hút ĐTNN thông qua việc đưa
một số bang vào danh sách trọng điểm phát triển cơ sở hạ tầng. Năm 1994,
Chính phủ đã đưa ra một biện pháp trọn gói để cải tạo cơ sở hạ tầng điện
nước, cầu cảng, viễn thông. Điển hình là Chính sách Ngành mỏ quốc gia đã
15
được sửa đổi và Đạo luật Phát triển ngành mỏ và khai khoáng được ban
hành đã khuyến khích tư nhân và các nhà ĐTNN tập trung phát triển cơ sở
hạ tầng ngành mỏ; Chính sách Năng lượng mới đã thu hút 138 công ty tư
nhân và công ty có vốn ĐTNN xây dựng các trạm năng lượng mới cho đất
nước; Chính sách Viễn thông quốc gia năm 1994 cho phép các nhà ĐTNN
được xây dựng các dịch vụ viễn thông cơ bản; Đạo luật Đường cao tốc quốc
gia cho phép nhà ĐTNN được đầu tư dưới hình thức BOT. Việc nới lỏng sở
hữu cổ phần của các nhà ĐTNN trong ngành viễn thông, đường xá, cầu
cống, sân bay…trong những năm sau đó đã khiến cơ sở hạ tầng quốc gia
được nâng cấp và hiện đại hoá. Năm 2004, Dự án Golden Quadrilateral trị
giá 5,5 tỷ USD đã liên kết bốn tuyến tàu ngầm giữa Delhi, Mumbai. Chennai
và Kolkata với các tuyến đường sắt hiện đại, dài 5.850 km, đã được hoàn
thành. Các tuyến đường sắt Bắc – Nam, Đông – Tây dài 7.000 km cũng
được hoàn thành trong năm 2004. Ngoài ra, các dự án cơ sỏ hạ tầng khác nối
liền các thành phố chủ yếu với chiều dài 10.000 km cũng bắt đầu được tiến
hành từ năm 2004.
Đầu năm nay, để thúc đẩy thu hút FDI, ngày 30.1, chính phủ Ấn Độ
công bố nới lỏng luật lệ đối với các tiêu chuẩn về thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Việc nới lỏng chủ yếu thuộc về các lĩnh vực thông tin
tài chính, chứng khoán, hàng không dân dụng và tăng mức trần đầu tư cho
lĩnh vực dầu khí.
Theo quyết định mới, vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 49% lên 100%
đối với những hoạt động về hàng không như bảo trì, sửa chữa, sản xuất các
thiết bị cũng như đào tạo trong ngành hàng không. Khai thác quặng và
khoáng sản titan cũng được phép đầu tư tối đa 100%. Tuy nhiên, vốn đầu tư
trong các công ty thông tin tín dụng được phép lên đến 49% dưới sự cho
phép của ngân hàng dự trữ Ấn Độ. Mức trần của đầu tư nước ngoài trong
những công ty lọc dầu cũng được điều chỉnh. Uỷ ban chính phủ về hoạt
động kinh tế (CCEA) nhấn mạnh: “Ấn cho phép các công ty nước ngoài sở
16
hữu tối đa 49% trong các liên doanh lọc dầu và những công ty dầu cổ phần
so với mức trước đây là 26%”.
Cho đến nay, Ấn Độ là nước duy nhất tiến hành các thủ tục phê chuẩn
vốn đầu tư tự động không thông qua giấy phép do Chính phủ trực tiếp phê
chuẩn, ngoại trừ một số dự án đặc biệt. Đơn xin đầu tư được gửi lên Ban thư
ký hỗ trợ Công nghiệp (SIA) hoặc thông qua các cơ sở ngoại giáo Ấn Độ.
Chính phủ Ấn Độ cũng đạt hộp thư để tiếp nhận đơn xin đầu tư thông qua
mạng Internet, đồng thời qua mạng Internet cung cấp cho các nàh ĐTNN
những hiểu biết về chính sách và thủ tục đầu tư tại Ấn Độ. Ban thư ký Hỗ
trợ công nghiệp(FIPB) sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Hình thức phê chuẩn
tự động này được đánh giá là mang tính chất tự do nhất trên thế giới
Mục đích của việc nới lỏng vì Ấn Độ muốn thu hút nhiều hơn nữa từ
nguồn vốn này để đáp ứng tốc độ phát triển của nền kinh tế. Ấn Độ dự tính
sẽ thu hút 30 tỉ USD từ FDI trong năm tài chính 2008.
1.3.2 Hiệu quả của các chính sách ĐTNN ở Ấn Độ
- Động thái vốn ĐTNN thay đổi theo các lần điều chỉnh
Tác động của những lần điều chỉnh chính sách ĐTNN ở Ấn Độ thể
hiện cụ thể ở sự tăng giảm dòng vốn ĐTNN đổ vào nước này. Sau năm
1991, vốn ĐTNN vào Ấn Độ tăng rất nhanh. Nếu như trong năm 1991, FDI
vào Ấn Độ là 203 dự án, với tổng số vốn được phê chuẩn là 325 triệu USD,
thì ngay trong năm 1992, sau một năm thực hiện chính sách đầu tư mới, số
dự án đã lên tới 693 dự án, tổng số vốn là 1,781 tỷ USD. Những lần sửa đổi
tỷ lệ đóng góp cổ phần của nhà ĐTNN và điều chỉnh cơ cấu ngành đầu tư
vào các năm 1995-1996 đã đưa số vốn FDI vào Ấn Độ tăng vọt, đạt 11,245
tỷ USD vảo năm 1995, so với 4,332 tỷ USD năm 1994. Từ những năm cuối
thập kỉ 1990 đến nay, những khuyến khích đầu tư trong các ngành công
nghiệp ưu tiên (đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử) và
những khuyến khích hơn nữa về hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đã
đưa Ấn Độ trở thành địa điểm hấp dẫn ĐTNN ở khu vực Châu Á. Nếu như
17
trong giai đoạn 1991-2000, FDI đạt 15,438 tỷ USD, đầu tư gián tiếp đạt
18,492 tỷ USD, thì trong giai đoạn 2000-2005, FDI vào Ấn Độ đạt 34,207 tỷ
USD. Tính cho cả giai đoạn 1991-2005, FDI vào Ấn Độ đạt 45,604 tỷ USD
và đầu tư gián tiếp đạt 52,699 tỷ USD. Năm 2006, FDI vào Ấn Độ đạt 50,7
tỷ USD. Sự thay đổi chính sách theo hướng tự do hoá hơn nữa đã khiến
dòng vống FDI thực hiện tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1992, tỷ lệ
vốn FDI thực hiện chỉ chiếm 18,1% tổng vốn FDI được phê chuẩn, những
năm sau đó cũng chiếm tỷ lệ rất thấp do chính sách thu hút ĐTNN còn nhiều
hạn chế (đạt tỷ lệ từ 21-48% trong giai đoạn 1994-1999), thì trong những
năm 2000, tỷ lệ vốn thực hiện đã tăng rất nhanh, đạt 80,1% vào năm 2001,
164,55% vào năm 2002, 214,47% vào năm 2003, 197,47% vào năm 2004.
Rõ ràng, những thay đổi chính sách và môi trường đầu tư đã khiến hiệu quả
của dòng vốn ĐTNN vào Ấn Độ tăng lên rõ rệt. Do khối lượng vốn ĐTNN
tăng lên nhanh chóng, những năm gần đây tỷ lệ vốn FDI vào Ấn Độ trong
tổng FDI toàn cầu đã tăng từ 0,5% trong năm 2002 lên 0,8% năm 2004.
-Cơ cấu ngành đầu tư thay đổi theo hướng điều chỉnh chính sách
Chính sách công nghiệp mới năm 1991 và những điều chỉnh chính sách
thu hút ĐTNN thời gian qua của Ấn Độ đều tập trung hướng chủ yếu vào
các ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghệ cao như viễn thông, bảo
hiểm, hàng không, đóng tàu, chế tạo máy bay, năng lượng nguyên tử, nghiên
cứu vũ trụ, phát triển đại dương…Điều này khiến Ấn Độ trở thành “văn
phòng của thế giới”. Xẻt trong giai đoạn 1991-2005, cơ cấu FDI theo ngành
ở Ấn Độ là như sau: thiết bị điện tử bao gồm cả phần mềm máy tính và hàng
điện tử chiếm 16,5%; công nghiệp vận tải 10,34%; ngành dich vụ 9,64%;
viễn thông 9,58%; nhiên liệu 8,41%; hoá chất 5,86%; chế biến thực phẩm
3,67%; dược phẩm và chất gây nghiện 3,18%; những lĩnh vực khác như dệt
may, công nghiệp giấy và in, khách sạn và du lịch…mỗi ngành chiếm từ
1-1,5% tổng FDI; các ngành chế biến cao su, máy móc thiết bị, phân bón,
chế biến sản phẩm thuộc da… mỗi ngành chiếm từ 0,2-0,8 % tổng FDI.
Nhờ những chính sách thu hút ĐTNN hướng về công nghệ cao, Ấn Độ hiện
18
nay là điểm đến của các công ty xuyên quốc gia nổi tiếng như GE, Dupont,
Eli Lily, Monsanto, Caterpillar, GM, Hewlett Packard, Motorola, Bell Labs,
Daimler Chrysler, Intel, Texas Instruments, Cummins, Microsoft, IBM,
Toyata, Misubishi, Samsung, LG, Novartis, Bayer, Nestle, Coca Cola,
McDonalds. Nhứng đối tác ĐTNN chủ yếu ở Ấn Độ là: Môrixơ (chiếm
37,25% tổng số vốn FDI giai đoạn 1991-2005), Mỹ (chiếm 15,8%), Nhật
Bản (6,79%), Hà Lan (6,65%), Anh (6,26%), Đức (4,27%), Singapore
(3,14%), Pháp (2,55%), Hàn Quốc (2,28%), Thụy Điển (1,98%).
Chính sách hướng trọng tâm vào phát triển ngành công nghiệp chế tạo
đã khiến tốc độ tăng trưởng của ngành này tăng từ 7,16% trong giai đoạn
1973-1990 lên 8,29% trong giai đoạn 1991-2000. Những chính sách khuyến
khích phát triển công nghiệp chế tạo đã đưa Ấn Độ trở thành một trong ít
nhứng nước đang tạo dựng được nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn vững
chắc như công nghệ thông tin, đóng tàu, chế tạo máy bay, ô tô, máy công cụ,
hoá chất, lọc dầu, dệt may. Hơn 70% các mặt hàng xuất khẩu của Ấn Độ là
những sản phẩm chế tạo, trong đó khoảng 50% được xuất sang các nước
Mỹ, EU, Nhật Bản. Ấn Độ còn là một nước mạnh trong một số lĩnh vực như
năng lượng nguyên tử, nghiên cứu vữ trụ, phát triển đại dương và là một
trong những nước xuất khẩu phần mềm máy tính lớn nhất thế giới. Trong
những năm 2003-2004, xuất khẩu phần mềm ước tính đạt kim ngạch 12,5 tỷ
USD, năm 2005 đạt 35 tỷ USD, và ngành công nghiệp phần mềm và dịch vụ
của Ấn Độ lọt vào danh sách 10 ngành công nghiệp hàng đầu của Ấn Độ.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp phần mềm trong giai đoạn 2005-2010
ước tình là 50%/năm và sẽ đóng góp từ 5-7% GDP của đất nước. Bên cạnh
ngành công nghiệp phần mềm, Ấn Độ cũng nổi tiếng là nước có thế mạnh về
các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
hậu cần…
-Cơ cấu vùng đầu tư chịu tác động của những lần điều chỉnh
Chính sách phân bổ vốn đầu tư theo vùng từ năm 1991, khiến FDI chủ
yếu đổ vào các vùng thành phố/đô thị có trên một triệu dân trở lên, kể cả các
19
dự án gây ô nhiễm môi trường và các dự án phát triển công nghệ cao. Theo
đánh giá của Chính phủ Ấn Độ, Thủ đô Delhi và các vùng cận chiếm tới trên
50% vốn ĐTNN vào Ấn Độ trong giai đoạn 1991-2004, trong đó
Maharashtra là điểm đến hấp dẫn nhất (chiếm 17,4% tổng vốn ĐTNN vào
Ấn Độ), tiếp theo là Delhi (12%), Tamilnadu (8,6%), Karnataka (8,2%),
Gujarat (6,5%), Andhra Pradesh (4,6%). Sáu bang này cũng là nơi có mức
độ tập trung vốn ĐTNN ở một số ít bang trong tổng số 28 bang ở Ấn Độ
phản ánh ảnh hưởng của chính sách phân bổ vùng thu hút ĐTNN của đất
nước này và hàm ý trong tương lai Chính phủ cẩn phải có sự phân bổ cân
đối hơn nữa.
II – Thái Lan
2.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua
nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo phát
triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% từ năm 1985 đến
năm 1996. Có được những thành tựu đó là nhờ Thái Lan đã tận dụng được
nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, thực hiện chính sách
mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo hướng phục vụ xuất khẩu.
Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ lực cải thiện cán cân thương mại như:
cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện cơ cấu chính sách thương mại và phá
giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của Thái
Lan. Để tập trung, bài viết sẽ phân tích chủ yếu vào công cụ phá giá mạnh
đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế. Do khó khăn về tài
chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên trong giai đoạn trước khủng hoảng,
các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, việc thi
hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD đồng nghĩa với
việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với
JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht
với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng
Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít
20
(khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả
lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều nguyên
nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm: tăng
trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước
Đông Á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là
hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm
1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng
vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các
khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào
Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào
Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài
chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá
được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với
thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng
tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài,
mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối,
nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan
đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng
với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau
khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục
giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá
này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung,
nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập
siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng
dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
21
Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ
lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc
phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản
ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có
những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc.
Từ cuối năm 1998 – 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ
nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên
41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn
chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ
tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm
2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh
tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn
2.2 Các đặc điểm chính trong chính sách của Thái lan
Là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, nhưng Thái
Lan đã sớm có những nhận thức đúng đắn về nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài và đã tận dụng nó để phát triển đất nước. Trong giai đoạn 1997 -
1998, nền kinh tế Thái Lan ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khung hoảng tài
chính châu Á. Sau đó, nền kinh tế Thái Lan đi vào giai đoạn hồi phục.
Xoá bỏ những nghi ngại về tình hình chính trị - kinh tế bất ổn vừa qua
trước con mắt các nhà đầu tư nước ngoài, Thủ tướng Thái Lan Surayud
Chulanont cho biết, Thái Lan không có bất kỳ thay đổi gì trong chính sách
đầu tư
Ông nói rằng, để tăng cường thu hút FDI, Chính phủ Thái Lan đặt ra các ưu
tiên để thực hiện trong vòng một năm tới: thúc đẩy cải cách chính trị, tăng
cường đoàn kết quốc gia, thu hẹp khoảng cách về thu nhập và củng cố pháp
quyền nhằm hạn chế tham nhũng. Để cải thiện tính hấp dẫn của môi trường
đầu tư, Thái Lan sẽ tăng cường tính minh bạch hóa, phát triển cơ sở hạ tầng
với những dự án khổng lồ, tìm nguồn tài chính từ lĩnh vực tư, cải thiện giáo
dục nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào toàn cầu hóa...
Ngoài ra, Thủ tướng Surayud Chulanont nhấn mạnh, Thái Lan chào đón các
22
nhà đầu tư nước ngoài chính là vì họ đã giúp Bangkok phát triển một xã hội
tri thức.
2.2.1. Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư
Môi trường pháp lý có vai trò quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài. Thể chế chính trị ổn định, hệ thống pháp luật đồng bộ, thủ tục
đầu tư đơn giản và nhiều chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho
các nhà đầu tư là những bí quyết của các nước châu Á thành công nhất. Đơn
giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư, Công khai các kế hoạch phát triển kinh tế,
Thủ tục đầu tư ở các nước này đều là thủ tục một cửa đơn giản, với những
hướng dẫn cụ thể tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ở Thái Lan có Luật xúc
tiến thương mại quy định rõ ràng cơ quan nào, ngành nào có nhiệm vụ gì
trong việc xúc tiến đầu tư. Thái Lan thực hiện tốt công tác quy hoạch và
công khai các kế hoạch phát triển đất nước từng giai đoạn, ngắn và trung
hạn.
2.2.2 Giảm thuế, ưu đãi tài chính tiền tệ:
Thu nhiều nhất lợi nhuận từ dự án luôn là mục đích hàng đầu của các nhà
đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhiều nước châu Á đã có những chính sách tài
chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư như giảm thuế, ưu đãi tiền tệ, cho vay
ngoại tệ...nhằm thu hút nhiều nhất nguồn vốn FDI vào các nước này. Hầu
hết các nước châu Á đều đưa ra những chính sách cắt giảm thuế hấp dẫn đối
với các dự án đầu tư nước ngoài. Thái Lan miễn thuế thu nhập doanh nghiệp
từ 3 đến 8 năm, miễn thuế nhập khẩu 90% đối với nguyên liệu, 50% đối với
máy móc mà Thái Lan chưa sản xuất được...Ngoài ra Thái Lan còn có các
chính sách ưu đãi về dịch vụ như: giảm giá thuê nhà đất, văn phòng, cước
viễn thông, vận tải...Giá dịch vụ ở Thái Lan thuộc loại hấp dẫn nhất với việc
thu hút FDI.
2.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận tiện cho việc buôn bán và giao lưu quốc tế
luôn là yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư. Cũng như các nước Châu
Á như Thái Lan đã thấy được tiềm năng thu hút nguồn vốn FDI từ yếu tố
23
này. Chính vì vậy, họ đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà xưởng,
đường giao thông, viễn thông, dịch vụ...nhằm tạo môi trường hấp dẫn và dễ
dàng cho các nhà đầu tư khi hoạt động trên đất nước mình.
Thái Lan chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng: hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ
thống sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, kho bãi hiện đại, thuận lợi cho
phát triển kinh tế và du lịch. Nước này cũng xây dựng thành công hệ thống
viễn thông, bưu điện, mạng internet thông suốt cả nước phục vụ cho hoạt
động kinh doanh quốc tế.
2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao
Một trong những tiêu chí để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là thị
trường lao động ở nước sở tại. Thị trường lao động của Châu Á đặc biệt hấp
dẫn bởi tỷ lệ lao động trẻ, giá thấp. Tuy nhiên, phát triển nguồn lao động có
trình độ cao mới chính là bí quyết thu hút đầu tư của các nước châu Á thành
công nhất. Thái Lan rat coi trọng đầu tư cho giáo dục, có tới 21% sinh viên
tốt nghiệp đại học các ngành toán, máy tính.
2.2.5. Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế
nhập khẩu đối với các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
nông nghiệp.
Các dự án FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu
đối với các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan quản lý
đầu tư công nhận là thuộc loại thiết bị được khuyến khích đầu tư. Riêng đối với
các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất khẩu,
được miến hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm.
Đối với các dự án đầu tư và các lĩnh vực như trồng lúa, trồng trọt, làm
vườn, chăn nuôi gia súc, các dự án về khai thác lâm sản, hải sản, khai thác
muối… trong lãnh thổ Thái Lan thì có biện pháp hạn chế chặt chẽ, chỉ cho
phép đầu tư đối với những dự án được hội đồng đầu tư cho phép, trong
những dự án này cũng chỉ cho phép với hình thức liên doanh và các nhà đầu
tư nước ngoài không được nắm phần sở hữu đa số.
24
Thái Lan cũng hạn chế đầu tư nước ngoài trong những ngành nghề nhất định
mà chưa thực sự sẵn sàng hợp tác với nước ngoài như: sản xuất bột mỳ,
đánh bắt thủy sản, khai thác lâm sản…
Là một quốc gia có nền nông nghiệp tương đồng với Việt Nam,thậm chí
có những điều kiện còn hạn chế hơn so với Việt Nam, tuy nhiên, Thái Lan
đã vươn lên trở thành một nước đứng đầu về xuất khẩu nông sản và với giá
trị nông sản xuất khẩu cao hơn hẳn so với Việt Nam. Nguyên nhân có được
điều đó là do Thái Lan đã biết định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
việc khai thác đặc sản của từng vùng thậm chí cả những vùng khó khăn nhất.
Chính chính sách này đã làm cho nền nông nghiệp Thái Lan có được những
lợi thế về chất lượng và giá cả trên thị trường nông sản thế giới và hơn nữa,
nông sản Thái Lan đã tạo được một thương hiệu tốt trên thị trường, điều mà
nông sản Việt Nam vẫn đang tìm kiếm.
2.3 Phát triển công nghiệp nhằm thu hút FDI
Công nghiệp vẫn luôn là lĩnh vực truyền thống thu hút nhiều FDI. Mặc dù
hiện nay có những thay đổi trong xu thế đầu tư FDI, đó là đầu tư vào lĩnh
vực dịch vụ đang tăng lên, nhưng tỷ trọng FDI vào lĩnh vực công nghiệp
trong tổng FDI của toàn thế giới vẫn rất lớn do đầu tư vào lĩnh vực công
nghiệp mang tính bền vững cao. Đặc biệt, ở các nước đang phát triển mà đa
số đều đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá thì lĩnh vực công
nghiệp còn rất nhiều tiềm năng phát triển, đồng thời luôn cần một lượng vốn
đầu tư rất lớn. Bên cạnh đó, xu thế FDI dần chuyển sang các ngành công
nghệ cao hiện nay cho thấy nếu không phát triển công nghiệp, các nền kinh
tế khó có thể thu hút FDI trong dài hạn. Chính vì vậy, chính sách phát triển
công nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là công cụ thu hút FDI của các nền kinh tế,
đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển.
Tại Thái Lan, Chính phủ đã có sự kết hợp khéo léo giữa mục tiêu công
nghiệp hoá và thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách thu hút FDI của Thái
Lan rất năng động, liên tục được điều chỉnh để thích nghi với từng thời kỳ
phát triển đất nước. Thái Lan luôn xác định nước thu hút đầu tư trọng điểm,
25