Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy tiết 24cs531, 27, 28 môn lịch sử lớp 9 trường THCS tân lập, huyện bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.74 KB, 18 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Theo điều 28.2 Luật giáo dục (14/6/2005) đã nêu: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[1]
Cũng chính lí do đó mà trong quá trình giảng dạy hiện nay, việc sử dụng
các phương pháp dạy học đòi hỏi người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp
HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo
thái độ và động cơ học tập đúng đắn. Để từ đó học sinh có khả năng tiếp cận và
chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết
phù hợp các vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp dạy học
tích cực vào giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư nghiên cứu kĩ
các phương pháp đó, vận dụng phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng lớp.
Như chúng ta đã biết môn lịch sử cũng như các môn học khác có một vai
trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Thông qua môn học
các em được bồi dưỡng, giáo dục về tư tưởng, tình cảm. Qua môn Lịch sử các
em thấy được quá trình phát triển của một dân tộc, một đất nước, rộng hơn là cả
xã hội loài người.
Trong thực tế môn lịch sử là môn học khô khan, phải ghi nhớ nhiều sự kiện
lịch sử. Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Yêu cầu của môn học đòi hỏi
học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách sống động như
đang diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó khả năng tư duy của học sinh trung
học cơ sở còn nhiều hạn chế. Vì thế việc sử dụng đồ dùng trực quan để giúp học
sinh tái hiện kiến thức là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Hơn nữa việc sử
dụng phương tiện đồ dùng trực quan phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy
học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất. Trong phương pháp
dạy học mới thì đồ dùng dạy học nói chung và hệ thống kênh hình trong SGK
nói riêng, không chỉ dừng lại ở giá trị minh hoạ cho hệ thống kênh chữ, mà
chính các thiết bị, đồ dùng dạy học này còn là công cụ, là phương tiện cung cấp


kiến thức, bởi chính nó cũng là nguồn kiến thức cần phải khai thác. Nhưng trong
thực tế hiện nay, việc dạy và học môn Lịch sử ở trường THCS chưa hoàn thành
tốt vai trò của mình, nhiều giáo viên vẫn dạy học hoàn toàn bằng phương pháp
truyền thống, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động học tập của học sinh,
nhiều em vẫn cho rằng môn lịch sử thật khô khan, nhàm chán với những sự kiện
đã diễn ra trong quá khứ. Muốn khắc phục được vấn đề này thì việc kết hợp
nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học
1


tích cực với việc sử dụng thường xuyên các thiết bị đồ dùng dạy học trực quan
như bản đồ, lược đồ, tranh ảnh… vào giảng dạy là vô cùng cần thiết, để tạo ra
những hình ảnh cụ thể sinh động, chính xác, giúp học sinh dễ hình thành khái
niệm lịch sử, hứng thú học tập, nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung bài học.
Vậy phải làm thế nào để khai thác tốt các đồ dùng trực quan phục vụ cho
việc hình thành khái niệm, hình thành biểu tượng lịch sử, khắc sâu kiến thức lịch
sử cho học sinh? Phải làm thế nào để học sinh có hứng thú học tập trong giờ học
lịch sử? Đó là câu hỏi mà mỗi người làm công tác giảng dạy môn Lịch sử cần
phải trăn trở. Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tâpp̣môn Lịch sử tôi chọn
đề tài: “Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan nhằm nâng cao tính tích
cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập các tiết 24, 25, 27, 28 môn
Lịch sử lớp 9 ở Trường THCS Tân Lập, huyện Bá Thước ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong thực tế giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Tân Lập, nhất là
giảng dạy môn lịch sử ở lớp 9 năm học 2015- 2016, 2016- 2017, bản thân tôi đã
vận dụng nhiều phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học, trong đó có
sử dụng đồ dùng trực quan nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên
và hứng thú học tập của học sinh. Qua tiết học các em có hứng thú học môn lịch
sử hơn và hiệu quả học tập của học sinh cũng được nâng lên rõ rệt. Vì thế tôi đề
xuất môṭsố kinh nghiêṃ trong viêcp̣sử dụng đồ dùng trực quan nhằm nâng cao

tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập các tiết 24, 25, 27, 28
trong môn lịch sử lớp 9.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu và đưa ra một số kinh nghiệm trong tổ chức dạy học tiết dạy
24, 25, 27, 28 nhằm tái hiện sự kiện, cung cấp kiến thức, tạo hứng thú học tập
bộ môn Lịch sử cho học sinh lớp 9 trường THCS Tân Lập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thâpp̣thông tin: nghiên cứu bài dạy, tìm hiểu thêm các tài liêụliên
quan đến bài dạy.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên
cứu tài liệu hướng dẫn về tổ chức tiết dạy sử dụng đồ dùng trực quan (modul
THCS 20). Tham khảo SGK, SGV Lịch sử 9.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học
tập của học sinh.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy
trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý.
2


- Phương pháp thực nghiệm, so sánh đối chứng: Lựa chọn lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng; áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp.
- Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ tích
cực, yêu thích của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo nghị quyết 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW tại
hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
có ghi: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập

trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ
yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”. [2]
Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế
các hoạt động sao cho học sinh có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức
mới dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt
động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học
không chủ động, tích cực, tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực
của người thầy chỉ đem lại những kết quả hạn chế.
Ở môn học Lịch sử trong nhà trường THCS cũng như tất cả các môn học
khác, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy đã và đang diễn ra. Để việc đánh
giá học sinh đạt hiệu quả cao, phát huy được tính thông minh, sáng tạo, khả
năng tư duy của học sinh, việc hướng dẫn học sinh học tập môn học qua việc sử
dụng đồ dùng trực quan là hết sức cần thiết. Đồ dùng trực quan vừa là nguồn
kiến thức, vừa là phương tiện minh họa. Thông qua đó các em được tiếp cận
kiến thức lịch sử một cách sống động, gần với quá khứ hơn. Khi giảng dạy đòi
hỏi mỗi giáo viên phải sử dụng đồ dùng trực quan để truyền thụ kiến thức, khắc
sâu bài học, kích thích tư duy của học sinh. Từ đó nội dung bài học sẽ được khắc
sâu hơn, các em sẽ yêu thích học môn Lịch sử hơn. Sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học môn Lịch sử được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu
quả tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
Thực tế hiện nay ở các trường phổ thông việc dạy học lịch sử đang là một
vấn đề cần phải có sự nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá lại. Học sinh hầu như
quay lưng lại với môn học này. Các năm học gần đây tình trạng học sinh không
biết “sử ta” khá phổ biến. Tỉ lê hp̣ ọc sinh THPT đăng kí các môn thi tốt nghiệp tự
3



chọn là môn Lịch sử khá thấp.
Hiện nay việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường
THCS trên địa bàn huyện Bá Thước đang còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Đa
số giáo viên khi giảng dạy đã lựa chọn, sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp với
bài dạy. Vì thế đã nâng cao được hiệu quả giờ dạy và chất lượng học tập của học
sinh. Bên cạnh đó vẫn còn một số ít giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan trong
giờ dạy chưa đạt được hiệu quả. Chúng ta vẫn sử dụng các đồ dùng có ở sách
giáo khoa hoặc các đồ dùng có ở thư viện nhưng chỉ là sử dụng chiếu lệ hoặc sử
dụng đồ dùng chưa đúng với nội dung của bài học. Giáo viên chưa chú trọng
việc khai thác, củng cố kiến thức thông qua việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Mặt khác giáo viên còn ngại ứng dụng công nghệ thông tin vì thế việc khai thác
triệt để đồ dùng có trong bài học còn nhiều hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân
khiến cho giờ dạy không đạt được hiệu quả, học sinh không có hứng thú học tập
bộ môn này.
2.2.2. Thực trạng riêng của nhà trường
Xã Tân Lập, huyện Bá Thước thuộc vùng khó khăn, 100% dân cư sống
bằng nghề nông, đất đai khô cằn lại hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên nên đời
sống nhân dân còn nghèo nàn, lạc hậu. Vì vậy đa số các em phải lao động hàng
ngày ở ngoài ruộng nương nên điều kiện cũng như thời gian học còn thiếu thốn.
Xa trung tâm, nhà trường lại chưa đủ cơ sở vật chất để phục vụ việc dạy
học. Vì vậy việc áp dụng công nghệ thông tin cũng như một số phương pháp
day-học còn gặp nhiều khó khăn.
Học sinh đa số chưa yêu thích học tập môn Lịch sử. Các em còn thụ động
trong việc tiếp thu kiến thức, học đối phó. Thời gian các em chủ yếu đầu tư cho
các môn thuộc khoa học tự nhiên. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã
hội, thì một phần cũng do môn lịch sử là môn học khô khan, phải ghi nhớ nhiều
sự kiện lịch sử. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn, tôi luôn trăn trở
phải làm thế nào để học sinh có hứng thú trong giờ học lịch sử từ đó nâng cao

chất lượng dạy và học.
Từ kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, tôi xác đinh trong giảng dạy môn
Lịch sử mục tiêu quan trọng nhất là các em nắm được các kiến thức lịch sử đã học
qua các thời kì. Hiện nay ngoài kênh chữ trong sách giáo khoa, giáo viên còn phải
kết hợp các kênh hình trong tiết dạy. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch
sử là một yêu cầu rất quan trọng, không thể thiếu. Bởi vì qua sử dụng các đồ dùng
trực quan sẽ giúp kích thích được tư duy cho học sinh. Các em được tưởng tượng,
suy luận, hình dung được các sự kiện lịch sử đang diễn ra. Sử dụng đồ dùng trực
quan trong giảng dạy môn lịch sử cũng giúp cho giáo viên chủ động trong việc khai
thác, truyền thụ kiến thức lịch sử đến với học sinh.

Qua quá trình dạy học, tôi luôn luôn tìm tòi, học hỏi các bạn đồng nghiệp

4


để làm sao cho bài giảng có sử dụng đồ dùng trực quan đạt được hiệu quả cao
nhất từng bước nâng cao chất lượng bộ môn
* Những nguyên nhân của thực trạng
Có nhiều nguyên nhân gây ra thực trạng trên, nhưng không thể phủ nhận
một điều: học sinh không thích học môn Lịch sử và xem đây chỉ là môn học phụ.
Vì thế các em chưa chú tâm học tập. Việc này có rất nhiều nguyên nhân, song
nguyên nhân cơ bản làm cho các em nhàm chán đó là vì yêu cầu của GV bắt các
em nhớ quá nhiều sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách máy móc khô khan,
mà trong giờ học lịch sử nào thầy cô cũng bắt học thuộc lòng. Việc HS chưa
tích cực học môn lịch sử nói trên là đúng nhưng không phải do bản thân môn
lịch sử gây ra mà chính là do quan niệm và phương pháp dạy học của chúng
ta chưa đáp ứng được nhu cầu của người học hay nói cách khác là người thầy
chưa gây hứng thú học tập trong giờ học môn lịch sử. Nguyên nhân khác
chúng ta cũng phải đề cập tới đó là điều kiện cơ sở vật chất của các trường trên

địa bàn huyện Bá Thước nói chung và trường THCS Tân Lập nói riêng còn thiếu
thốn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc dạy và học.
2.2.3. Điều tra thực trạng
Với SKKN này tôi áp dụng dạy ở lớp 9A các năm học 2015-2016 và 20162017, còn lớp 9B tôi vẫn thực hiện như các năm học trước.
Kết quả khảo sát về mức độ yêu thích giờ học môn lịch sử ở lớp 9A sau khi
học xong các tiết 24, 25, 27, 28 khi chưa áp dụng SKKN là như sau:

Lớp

Tổng
số HS

9A
9B
Tổng

27
24
51

Đầu năm học 2015-2016:
Mức độ
Không yêu Bình thường Yêu thích
thích
SL
22
18
40

TL

81,5 %
75 %
78,4 %

SL
4
5
9

TL
14,8 %
20,8 %
17,7 %

Bảng 1
Rất yêu
thích

SL TL SL
1 3,7 % 0
1 4,2 % 0
2 3,9 % 0

Đầu năm học 2016-2017:
Lớp

9A
9B
Tổng


Tổng
số HS
31
29
60

Không yêu
thích
SL
23
21
44

Bảng 2

Mức độ
Bình
Yêu thích
thường

TL
SL
74,2% 6
72,4 % 6
73, 3% 12

TL
SL
19,3 % 2
20,7 % 2

20 % 4

TL
0
0
0

TL
6,5 %
6,9 %
6,7 %

Rất yêu
thích
SL
0
0
0

TL
0
0
0

Qua bảng thống kê trên cho ta thấy được một thực tế rằng phần lớn học
sinh không yêu thích môn học lịch sử tổng số học sinh yêu thích giờ học chỉ
chiếm một tỉ lệ thấp (2/51 học sinh = 3,9%/100%; 4/60 học sinh = 6,7%/
5



100%). Tại sao vậy ? Có lẽ đó cũng là lí do tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm
nhỏ này giúp các em yêu thích môn học đồng thời khơi gợi ở em niềm say mê,
sự hứng thú trong tiết học lịch sử. Từ đó để nâng cao chất lượng của giờ dạy-học
môn lịch sử ở trường THCS Tân Lập.
Từ thực trạng và nguyên nhân trên, tôi đã trăn trở tìm tòi để tìm ra giải
pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập các tiết 24, 25, 27, 28 môn Lịch
sử 9 Trường THCS Tân Lập.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để thực hiện tiết dạy lịch sử có hiệu quả nhất, tôi đã lựa chọn các hình ảnh
minh họa, lược đồ, biểu đồ, bản đồ phù hợp với nội dung bài dạy. Sau đây là
một số giải pháp tôi đã thực hiện khi sử dụng đồ dùng trực quan để giảng dạy
môn Lịch sử ở lớp 9 (tiết 24, 25, 27, 28).
2.3.1. Nghiên cứu kĩ nội dung bài giảng.
Giáo viên phải xác định mục tiêu cần đạt của bài học, các đơn vị kiến thức
học sinh cần nắm trong bài học. Kiến thức lịch sử đó thuộc phạm vi nội dung
kiến thức lịch sử giai đoạn nào để từ đó lựa chọn kiến thức, lựa chọn các đồ
dùng giảng dạy và các dạng bài tập phù hợp. Giáo viên cũng cần lựa chọn
phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung của từng bài học, nghiên cứu kĩ
các kênh hình liên quan đến nội dung bài học.
2.3.2. Giáo viên soạn bài.
Đây là một khâu khá quan trọng đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư thời
gian, công sức để chuẩn bị cho bài giảng. Khi soạn bài giáo viên phải lưu ý :
- Câu hỏi, bài tập sử dụng trong tiết dạy phải phù hợp với nội dung cơ bản
của chương, phần vừa học.
- Lựa chọn câu hỏi sao cho phù hợp với mục đích sử dụng đồ dùng trong
tiết học.
- Câu hỏi đưa ra khi khai thác đồ dùng trực quan phải phù hợp với trình độ
học sinh, phát huy được tính tích cực của học sinh và nhiều học sinh cùng lúc
được làm việc.
- Khi đưa câu hỏi cần dự kiến câu trả lời, mức độ trả lời của học sinh để từ

đó định ra tiêu chuẩn đánh giá bằng thang điểm và phải có đáp án chính xác.
Khâu soạn bài của giáo viên phải được chuẩn bị kĩ mới quyết định đến
sự thành công của giờ học.
2.3.3. Chọn các đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong tiết dạy.
+ Giáo viên phải lựa chọn các đồ dùng trực quan phù hợp với từng bài dạy
cụ thể. Thông thường ta có thể lựa chọn các đồ dùng trực quan để sử dụng như
sau:
- Đồ dùng trực quan để minh hoạ cho kiến thức vừa học.
- Đồ dùng trực quan để cung cấp kiến thức.
6


- Đồ dùng trực quan để tường thuật diễn biến các trận đánh.
- Đồ dùng trực quan để hình thành biểu tượng lịch sử.
- Đồ dùng trực quan để nhận diện nhân vật, sự kiện, công trình kiến trúc
lịch sử.
- Đồ dùng trực quan để củng cố nội dung bài học, khắc sâu kiến thức.
+ Thông thường trong một tiết dạy tôi lựa chọn các đồ dùng trực quan minh
hoạ trong sách giáo khoa, các đồ dùng có trong thư viện, đồ dùng tự làm hoặc
trình chiếu bằng máy vi tính.
+ Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải lưu ý: đồ dùng trực quan
phải sinh động. Các hình ảnh, lược đồ đưa lên máy chiếu phải tạo được các hiệu
ứng sinh động để gây được sự chú ý, tạo được hứng thú trong học tập của học
sinh.
2.3.4. Dự giờ, học hỏi, rút kinh nghiệm đồng nghiệp.
- Giáo viên dự giờ của đồng nghiệp để học tập cách sử dụng đồ dùng trực
quan khi giảng dạy .
- Thông qua dự giờ giáo viên cũng rút được kinh nghiệm khi sử dụng đồ
dùng trực quan: sử dụng khi nào cho có hiệu quả, các câu hỏi khai thác đồ dùng
trực quan có hợp lí không, việc sử dụng đồ dùng có tạo được hứng thú học tập

cho học sinh không?
2.3.5. Thực hiện giảng dạy ở trên lớp.
Khi thực hiện giảng dạy trên lớp giáo viên phải chuẩn bị các đồ dùng trực
quan phù hợp với nội dung bài dạy.
a. Đồ dùng trực quan để minh hoạ cho kiến thức vừa học: Sau khi trình bày
xong nội dung kiến thức của từng mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình ảnh
minh họa cho nội dung bài học. Học sinh quan sát tranh, dùng miêu tả để nêu
hiểu biết của mình về nội dung của tranh. Giáo viên bổ xung, chốt nội dung.
b. Đồ dùng trực quan để cung cấp kiến thức: giáo viên dùng đồ dùng để
khai thác các kiến thức trong bài học thông qua hệ thống câu hỏi. Học sinh quan
sát, thảo luận các câu hỏi và rút ra nội dung kiến thức của bài học
c. Đồ dùng trực quan để trình bày diễn biến trận đánh trên lược đồ: Giáo
viên có thể sử dụng lược đồ có ở thư viện nhà trường hoặc tạo lược đồ trên máy
tính. Thông thường ta sử dụng lược đồ có sẵn ở thư viện nhà trường hoặc ở
trong sách giáo khoa (phóng to). Vì làm như thế sẽ rèn cho học sinh kĩ năng
dùng lược đồ tốt hơn. Giáo viên lưu ý học sinh các địa danh, các kí hiệu trên
lược đồ. Học sinh dựa vào thông tin sách giáo khoa để trình bày diễn biến trận
đánh thông qua lược đồ. Các em vừa kết hợp trình bày diễn biến với kĩ năng chỉ
lược đồ. Giáo viên lưu ý học sinh khi sử dụng lược đồ phải chỉ chính xác các địa
danh, gianh giới các vùng miền, các mũi tiến quân .
7


d. Đồ dùng trực quan để hình thành biểu tượng lịch sử: Thông qua các
tranh ảnh giáo viên có thể kết hợp dùng lời nói của mình, minh họa qua đồ dùng
để khắc sâu biểu tượng lịch sử cho học sinh.
e. Đồ dùng trực quan để nhận diện nhân vật, công trình kiến trúc lịch sử,
minh họa cho sự kiện lịch sử: Giáo viên chọn các nhân vật lịch sử hoặc các địa
danh, tranh ảnh tiêu biểu thông qua hệ thống câu hỏi để các em nhận diện được
các nhân vật lịch sử hoặc các công trình kiến trúc lịch sử, các sự kiện lịch sử. Từ

đó tạo dấu ấn về các nhân vật, sự kiện, kiến trúc trong lịch sử dân tộc và trên thế
giới.
g. Đồ dùng trực quan để củng cố nội dung bài học, khắc sâu kiến thức:
Giáo viên đưa hình ảnh, hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh hoặc sơ đồ tư
duy. Từ đó rút ra kiến thức, khắc sâu kiến thức trọng tâm.
2.3.6. Giao nhiệm vụ cho học sinh.
- Giáo viên yêu cầu học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà: xem lại toàn bộ kiến
thức trong chương, phần vừa học, sưu tầm thêm tài liệu có liên quan.
- Tích cực tham gia hoạt động học: phát biểu ý kiến, làm bài tập, nhận xét
bổ xung ý kiến của bạn.
2.3.7. Khen thưởng để khuyến khích học sinh.
- Trong khi thực hiện tiết dạy việc khen thưởng kịp thời của giáo viên khi
học sinh làm đúng cũng hết sức quan trọng. Phần thưởng cho các em có thể là
điểm số hoặc là một tràng pháo tay. Điều đó giúp kích thích sự hứng thú trong
học tập và giúp học sinh nhớ lâu hơn các kiến thức lịch sử được học.
- Khi học sinh trả lời câu hỏi hoặc miêu tả nội dung của tranh minh họa có
ý đúng đặc biệt là đối với học sinh có lực học yếu hoặc học sinh nhút nhát, giáo
viên có thể gợi ý thêm để các em hoàn thiện câu trả lời hoặc công nhận luôn kết
quả ấy để khuyến khích các em trong học tập.
- Khi học sinh trả lời chưa đúng hoặc lúng túng trong cách diễn đạt khi miêu
tả các sự kiện, diễn biến trận đánh, giáo viên nên động viên các em, gợi sự tìm
tòi suy nghĩ của các em, tránh những lời nói làm các em cụt hứng.
2.3.8. Công tác kiểm tra, đánh giá.
Trong khi sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình giảng dạy giáo viên
vẫn có thể cho điểm khi học sinh có cách khai thác nội dung kiến thức bài học
đúng hoặc có cách mô tả độc đáo, sáng tạo. Điểm số này có thể lấy vào sổ (hệ số
1- điểm miệng) hoặc cho để động viên khuyến khích các em. Sau khi thực hiện
xong tiết dạy ta cũng có thể cho học sinh làm bài kiểm tra 15 phút để đánh giá
mức độ tiếp nhận kiến thức của các em. Giáo viên kiểm tra việc tiếp thu kiến
thức của các em qua giờ học để có những điều chỉnh phù hợp.

2.3.9. Đánh giá rút kinh nghiệm sau giờ dạy.
Đây cũng là một khâu rất quan trọng khi thực hiện tiết dạy này. Sau tiết dạy
giáo viên đánh giá mức độ thực hiện tiến trình bài dạy theo dự kiến, có cần thiết
phải điều chỉnh việc sử dụng đồ dùng (thêm hoặc bớt) để giờ dạy đạt hiệu quả,
8


mức độ tiếp thu bài của học sinh như thế nào, cách sử dụng các phương pháp
dạy học như thế có hợp lí không?
Ví dụ minh họa:
a) Đồ dùng trực quan để minh hoạ cho kiến thức vừa học: Sau khi trình
bày xong nội dung kiến thức của từng mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình
ảnh minh họa cho nội dung bài học. Học sinh quan sát tranh, dùng miêu tả để
nêu hiểu biết của mình về nội dung của tranh. Giáo viên bổ xung, chốt nội dung.
Ví dụ: Lịch sử lớp 9- Tiết 25- Bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi
nghĩa tháng Tám 1945.

Hình 37. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát hình 37- sách giáo khoa (đã được
phóng to trên máy chiếu).
- Học sinh quan sát bức ảnh và nêu hiểu biết của mình về đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân.
- Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh (người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo Đội
là ai? Lực lượng của đội gồm những thành phần nào? Trang phục của các đội
viên ra sao?...)
- Sau khi học sinh trả lời, giáo viên miêu tả, phân tích bổ xung thông tin:
“Bức ảnh này được rút ra từ tập ảnh tư liệu trưng bày ở bảo tàng cách mạng Việt
Nam và bảo tàng Lịch sử Quân sự. Trong ảnh là hình ảnh lễ tuyên thệ của các
chiến sĩ trong buổi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào
ngay 22-12-1944, tại một khu rừng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần

Hưng Đạo ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Trong ảnh, người đứng trước
hàng quân, đội mũ phớt, vai khoác túi, đeo súng ngang hông là Võ Nguyên
Giáp, người được Nguyễn Ái Quốc giao trọng trách đứng ra thành lập Đội. Toàn
Đội gồm 34 đội viên, trong đó có 31 nam, 3 nữ, đứng theo hàng ngang. Lá cờ đỏ
sao vàng giương cao trước hàng quân. Các chiến sĩ ăn mặc giản dị nhiều người
còn đi chân đất, thể hiện trang bị của quân đội cách mạng ban đầu còn rất thô sơ.
Song nó cũng thể hiện đó là đạo quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu.” [3]
- Kết hợp với việc đọc kênh chữ sách giáo khoa, giáo viên yêu cầu học sinh
nhận xét: Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta.
- Học sinh nêu vai trò của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và
vai trò của đại tướng Võ Nguyên Giáp đối với việc chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa
tháng Tám 1945.
Kết thúc, giáo viên có thể dẫn ra lời nhận định của Hồ Chí Minh “… Trong
lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi

9


điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp nước Việt
Nam” [4]
b) Đồ dùng trực quan để cung cấp kiến thức: Sử dụng âm thanh kết hợp
với hình ảnh minh họa, rút ra nội dung bài học.
Ví dụ: Lịch sử lớp 9- Tiết 27- Bài 23: : Tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Mục III. Giành chính quyền trong cả nước
Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên cho học sinh xem
bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 kết hợp
cả hình ảnh cùng với âm thanh:
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tranh và nghe Bản Tuyên ngôn độc

lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 qua băng ghi âm. Tiếp đó giáo
viên có thể hỏi: Em hãy nêu nội dung bản tuyên ngôn độc lập? Học sinh có thể rút
ra được ngay nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, đó là sự
kế thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của nước Pháp, bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết nên một bản Tuyên ngôn hùng hào cho dân tộc Việt Nam, khẳng định với
thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam. Hơn nữa các em được nghe
thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ phấn khởi hứng thú hơn khi
học những phần sau và dễ khắc sâu kiến thức của bài.

c) Đồ dùng trực quan để trình bày diễn biến trận đánh trên lược đồ:
Giáo viên có thể sử dụng lược đồ có ở thư viện nhà trường hoặc tạo lược đồ trên
máy tính. Thông thường ta sử dụng lược đồ có sẵn ở thư viện nhà trường hoặc ở
trong sách giáo khoa (phóng to). Vì làm như thế sẽ rèn cho học sinh kĩ năng
dùng lược đồ tốt hơn. Giáo viên lưu ý học sinh các địa danh, các kí hiệu trên
lược đồ. Học sinh dựa vào thông tin sách giáo khoa để trình bày diễn biến trận
đánh thông qua lược đồ. Các em vừa kết hợp trình bày diễn biến với kĩ năng chỉ
lược đồ. Giáo viên lưu ý học sinh khi sử dụng lược đồ phải chỉ chính xác các địa
danh, gianh giới các vùng miền, các mũi tiến quân…
Ví dụ: Lịch sử lớp 9-Tiết 24- Bài 21: Việt Nam trong những năm 1939-1945
Mục 1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940)
Hình 34. Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thông tin SGK trang 82.
- Học sinh quan sát lược đồ hình 34, sách giáo khoa (trên máy chiếu)
10


- Giáo viên lưu ý học sinh các chú giải của lược đồ. Gợi mở từng ý để học
sinh tìm hiểu. Sau đó học sinh trao đổi và phát biểu ý kiến.
- Giáo viên trình bày diến biến trận đánh trên lược đồ. Nếu sử dụng lược đồ

trên máy chiếu giáo viên phải tạo hiệu ứng ở các mũi tên chỉ hướng tiến đánh
của quân Nhật, quân Pháp phản công, quân Pháp tháo chạy, nơi quần chúng và
binh lính ngụy quyền nổi dậy khởi nghĩa. Thông qua ngôn ngữ và các hiệu ứng
trên lược đồ giáo viên tái hiện để học sinh hình dung được trận đánh diễn ra như
thế nào.
Ngày 22-9-1940, Pháp buộc phải kí với Nhật Bản hiệp định mở cửa Đông
Dương cho Nhật tràn vào. Ngay đêm đó Nhật tấn công Lạng Sơn. Quân Pháp ở
đây tuy đông nhưng chỉ sau vài ngày chiến đấu đã tan rã, số lớn đầu hàng, số
còn lại tháo chạy về Thái Nguyên qua đường Bắc Sơn. Chính quyền thực dân ở
những vùng này lung lay, tan rã. Nhân cơ hội đó, ngày 27-9-1940 Đảng bộ Bắc
Sơn lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Họ chiếm đồn Mỏ Nhài. Viên Tri châu Bắc Sơn
chạy trốn. Chính quyền cách mạng được thành lập. Nhưng mấy hôm sau Nhật
đã thoả hiệp với Pháp. Được Nhật trao trả tù binh, Pháp quay lại chiến đóng
Lạng Sơn và thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa.
- Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày diễn biến trận đánh trên lược đồ treo
tường hoặc trên máy chiếu.
- Học sinh khác nhận xét, bổ xung kiến thức và kĩ năng sử dụng lược đồ.
- Giáo viên lưu ý học sinh kĩ năng sử dụng lược đồ: cách chỉ phải chính xác
các địa danh, kết hợp giữa trình bày diến biến trận đánh với với kĩ năng dùng
lược đồ. Khi sử dụng lược đồ, người dùng phải đứng bên phải, dùng que chỉ các
địa điểm cho thật chính xác. Khi xác định một vị trí, không nên nói một cách mơ
hồ mà phải chỉ hướng của vị trí (“phía Tây” hay “phía Bắc”….). Nếu là khu vực,
căn cứ quân sự… thì giáo viên phải dùng kí hiệu trên lược đồ; nếu là con sông
thì phải chỉ từ thượng lưu xuống hạ lưu.
d) Đồ dùng trực quan để hình thành biểu tượng lịch sử:
Thông qua các tranh ảnh giáo viên có thể kết hợp dùng lời nói của mình,
minh họa qua đồ dùng để khắc sâu biểu tượng lịch sử cho học sinh.
Ví dụ: Lịch sử lớp 9- Tiết 28- Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chính quyền dân chủ nhân dân ( 1945- 1946).
(Hình 42- sách giáo khoa dùng để hình thành biểu tượng lịch sử)

Mục: Diệt giặc đói.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát hình 42- sách giáo khoa ( hoặc
giáo viên đưa bức ảnh lên máy chiếu cho học sinh dễ quan sát)
11


- Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh thảo luận câu hỏi: Cuộc vận động
tiết kiệm nhường cơm sẻ áo diễn ra như thế nào? Ý nghĩa của cuộc vận động đó?

- Học sinh thảo luận, trao đổi và trả lời, các nhóm bổ sung nhận xét cho
nhóm bạn.
- Giáo viên nhận xét, kết luận nội dung tranh minh hoạ: Đây bức ảnh được
rút ra từ tập ảnh tư liệu của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Sau khi chính quyền cách mạng ra đời chưa được bao lâu, đất nước ta đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài, nền kinh tế, tài
chính kiệt quệ, xơ xác, nạn lụt lớn xảy ra ở chín tỉnh thuộc miền Bắc ngay sau
khi nhân dân ta giành được chính quyền. Hết lụt lớn lại đến hạn hán kéo dài, làm
hơn 50% ruộng đất không thể cày cấy được. Nạn đói đầu năm 1945 vừa cướp đi
sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào ta, nay lại đang đe doạ rất nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Hội đồng Chính phủ đã động viên lực lượng toàn dân
tăng gia sản xuất và tiết kiệm lương thực để diệt giặc đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kêu gọi đồng bào cả nước nhường cơm sẻ áo. Đồng bào cả nước đã phát huy
mọi sáng kiến để cứu đói như lập “hũ gạo cứu đói”, “ngày đồng tam” hoặc “mỗi
tuần nhịn ăn một bữa”. Hình 42 trong SGK đã thể hiện chân thực, sinh động
hình ảnh nhân dân Nam Bộ hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc đói năm 1945 của
Chính phủ, đem những bát gạo do gia đình mình đã ăn bớt để có được, nộp vào
các “hũ gạo cứu đói” với tấm lòng “một nắm khi đói bằng một gói khi no”.
Chính những biện pháp đó đã góp phần rất lớn đẩy lùi được nạn đói đang hoành
hành.
- Tiếp đó giáo viên kể tấm gương nhịn ăn của chủ tịch Hồ chí Minh trong

những ngày khó khăn sau cách mạng tháng Tám để giáo dục tư tưởng, tình cảm,
đạo đức cho học sinh. Từ câu chuyện kể và nội dung bài học, học sinh sẽ rút ra
được bài học nhận thức cho bản thân mình và tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng
đắn của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản việt Nam.
e) Đồ dùng trực quan để nhận diện nhân vật, công trình kiến trúc lịch
sử, minh họa cho sự kiện lịch sử: Giáo viên chọn các nhân vật lịch sử hoặc các
địa danh, tranh ảnh tiêu biểu thông qua hệ thống câu hỏi để các em nhận diện
được các nhân vật lịch sử hoặc các công trình kiến trúc lịch sử, các sự kiện lịch
sử. Từ đó tạo dấu ấn về các nhân vật, sự kiện, kiến trúc trong lịch sử dân tộc và
trên thế giới.
Ví dụ:
Lịch sử lớp 9- Tiết 28- Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chính quyền dân chủ nhân dân ( 1945- 1946). Mục: Diệt giặc dốt

12


Hình 43. Lớp học Bình dân học vụ
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát hình 43- sách giáo khoa hoặc trên
máy chiếu.
- Giáo viên giới thiệu sự kiện : ngày 8/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc
lệnh thành lập “ Nha bình dân học vụ”.
- Học sinh tìm hiểu nội dung của bức tranh. Giáo viên gợi mở: Qua bức
ảnh này, các em thấy nhân dân ta học tập trong điều kiện như thế nào? Lớp học
bao gồm những thành phần nào? Tinh thần và thái độ học tập của mọi người ra
sao, qua đó nói lên điều gì?
- Sau khi học sinh trao đổi, phát biểu ý kiến, giáo viên bổ sung và giải
thích thêm:
“Để xoá nạn mù chữ và nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân lao động,
ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân

học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xoá nạn mù chữ.” [5]
Hưởng ứng chủ trương của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta tích cực học
tập để biết đọc, biết viết. Các lớp học mọc lên ở khắp nơi, “người biết chữ dạy
người chưa biết chữ”. Trong ảnh là hình ảnh một lớp bình dân học vụ. Lớp học
diễn ra vào ban đêm, trước mặt mỗi người có một đèn dầu nhỏ (người ta thường
gọi là đèn hoa kì), lớp học gồm đủ mọi thành phần tham gia từ người già (người
ngồi hàng đầu) cho đến người trẻ. Nét mặt ai cũng lộ rõ vẻ quyết tâm học chữ.
Chính nhờ tinh thần hiếu học của nhân dân nên chỉ trong vòng một năm, kể từ
ngày 8/9/1945 đến ngày 8/9/1946, toàn quốc đã mở được 74957 lớp học và đã
xoá mù chữ cho hơn 2 triệu người.
Tác dụng giáo dục khi khai thác kênh hình này: Hình ảnh minh hoạ này sẽ
tạo ấn tượng sâu đậm về bối cảnh đất nước trong những năm 1945- 1946. Trong
đêm tối, dưới ngọn đèn dầu le lói, mọi người đều chăm chú, say sưa học tập.
Phong trào Bình dân học vụ đã thực sự lôi cuốn đủ các lứa tuổi, mọi thành phần,
không phân biệt trẻ già, trai gái, giàu nghèo… đi học chữ. Qua hình ảnh này thể
hiện truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Nó thể hiện khí thế của một đan tộc
đang vươn lên làm chủ vận mệnh của chính mình. Từ đó các em thêm phấn
13


khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời các em sẽ tạo ra động lực
học tập để noi gương thế hệ cha anh đi trước.
g) Đồ dùng trực quan để củng cố nội dung bài học, khắc sâu kiến thức:
Giáo viên đưa hình ảnh, hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh hoặc sơ
đồ tư duy. Từ đó rút ra kiến thức, khắc sâu kiến thức trọng tâm.
Ví dụ: Lịch sử lớp 9- Tiết 25, 26- Bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng
khởi nghĩa tháng Tám 1945
Bước 1: Giáo viên cho học sinh lần lượt nhắc lại kiến thức đã học
- Mặt trận Việt Minh:
+ Hoàn cảnh ra đời +

Hoạt động
- Cao trào kháng Nhật, cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945
+ Nhật đảo chính Pháp (3/9/1945)
+ Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Bước 2: GV hướng dẫn học sinh vẽ bản đồ tư duy theo các nội dung đó và
trong mỗi nội dung lớn, từ nhánh chính đó lại tỏa ra những nhánh nhỏ hơn là
hoàn cảnh, hoạt động, sự chuẩn bị ……
Bước 3: Học sinh các nhóm vẽ bản đồ tư duy theo sự hướng dẫn của giáo
viên. Giáo viên quan sát, theo dõi, nhắc nhở khéo những sai sót của học sinh các
nhóm.
Bước 4: Gọi đại diện học sinh lên báo cáo kết quả của nhóm, sau đó cho
các nhóm khác nhận xét và bổ sung. Giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả của
từng nhóm, cần nhận xét ưu, khuyết điểm của từng nhóm. Cố gắng động viên,
khích lệ các em. Cuối cùng giáo viên đưa ra bản đồ tư duy chuẩn để học sinh đối
chiếu và hoàn thiện vào vở ghi.

* Kinh nghiệm rút ra khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
môn lịch sử:
Giáo viên phải có kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm, biết định
hướng học sinh theo mục tiêu giáo dục chung.
Giáo viên phải biết sử dụng sử dụng đồ dùng trực quan đi vào dạy học một
cách thuần thục phù hợp với từng kiểu bài.
Giáo viên phải cân nhắc tránh lạm dụng sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học.
14


Tăng cường quá trình kiểm tra việc rèn luyện kỹ năng qua các giờ học có
sử dụng đồ dùng trực quan, giúp các em có tư duy độc lập về bài học
2.4. Hiêụquả của sáng kiến kinh nghiêṃ đối với hoạt đôngg̣ giáo dục, với

bản thân, đồng nghiêpg̣và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt đôngg̣ giáo dục.
Qua một năm học 2015-2016 và đến cuối học kì II năm học 2016-2017 áp
dụng SKKN tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với cách
dạy truyền thống. Qua đó tạo cho học sinh hứng thú trong học tập, yêu thích
môn Lịch sử, đồng thời các em cũng tích cực chủ động sáng tạo hơn trong việc
chiếm lĩnh tri thức
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng học sinh đã được cải thiện rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:

Lớp

Tổng
số HS

9A
9B
Tổng

27
24
51

Đầu năm học 2015-2016:
Mức độ
Không yêu
Bình thường Yêu thích
thích


Rất yêu
thích

SL
22
18
40

SL
0
0
0

TL
81,5 %
75 %
78,4 %

SL
4
5
9

TL
SL
14,8 % 1
20,8 % 1
17,7 % 2

TL

3,7 %
4,2 %
3,9 %

Đầu năm học 2016-2017:
Lớp

9A
9B
Tổng

Tổng
số HS
31
29
60

Không yêu
thích
SL
23
21
44

TL
0
0
0

Bảng 2


Mức độ
Bình
Yêu thích
thường

TL
SL
74,2% 6
72,4 % 6
73, 3% 12

Bảng 1

TL
SL
19,3 % 2
20,7 % 2
20 % 4

TL
6,5 %
6,9 %
6,7 %

Rất yêu
thích
SL
0
0

0

TL
0
0
0

- Sau khi áp dụng SKKN trong giảng dạy các tiết học lịch sử lớp 9A ở năm
học 2015-2016 và cuối học kì II năm học 2016- 2017 thì kết quả như sau:
Tổng
Lớp

số
HS

Cuối năm học 2015-2016:
Mức độ
Không yêu
thích
SL
TL

Bình thường
SL

TL

Bảng 3

Yêu thích

SL

TL

Rất yêu
thích
SL
TL
15


9A

27

7

25,9 %

3

11,1%

12

44,5 %

5 18,5%

9B


24

17

70,8 %

3

12,5 %

3

12,5 %

1

Tổng

51

24

47,1 %

6

11,7 %

15


29,4 %

6 11,8%

Lớp

9A
9B
Tổng

4,2%

Cuối học kì II năm học 2016-2017:
Bảng 4
Tổng
Mức độ
Không yêu
Bình
Yêu thích
Rất yêu thích
số
thích
thường
HS
SL
TL SL
TL
SL
TL

SL
TL
31
4
12,9 % 2
6,5 %
18 58.0 % 7
22,6 %
29 18
62,1 % 5 17,2 % 5 17,2 % 1
3,5 %
60 22
36,7 % 7 11,7 % 13 21,7 % 8
13,3 %

Như vậy với việc áp dụng một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan
trong giảng dạy môn lịch sử lớp 9 mà tôi đã áp dụng thực nghiệm ở lớp 9A trong
hai năm 2015-2016 và 2016 - 2017 đã đem lại một kết quả rất khả quan. Qua so
sánh bảng mức độ yêu thích học tập của học sinh năm học 2015-2016, cuối học
kì II năm học 2016-2017, tôi nhận thấy rằng số học sinh rất yêu thích môn học
lịch sử đã tăng lên rõ rệt ( từ 0%; tăng lên 18,5%; 22,6%), số học sinh yêu thích
cũng tăng ( Từ 4%; 6,5% tăng lên 44,5%; 58%), số học sinh không yêu thích đã
giảm đi đáng kể ( Từ 81,5%; 74,2% giảm xuống còn 25,9%; 12,9%). Lớp 9B tôi
vẫn dạy theo truyền thống, kết quả học sinh hứng thú trong giờ có thay đổi
nhưng rất chậm. Điều đó chứng tỏ rằng việc sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp
trong một tiết giảng dạy lịch sử là có hiệu quả và hết sức cần thiết. Học sinh nắm
kiến thức tốt hơn, nhiều học sinh nhớ bài được ngay tại lớp, tạo được hứng thú
học tâpp̣cho học sinh, giáo dục được ý thức trách nhiêṃ của bản thân đối với lịch
sử dân tôcp̣.
2.4.2. Đối với bản thân

Khi sử dụng hợp lí các đồ dùng trực quan trong các tiết dạy, bản thân thấy
tự tin khi đứng lớp, truyền đạt và khắc sâu được các kiến thức lịch sử cho học
sinh.
2.4.3. Đối với đồng nghiêpg̣
Tạo được hứng thú trong giảng dạy cho đồng nghiêpp̣khi dự giờ. Đây cũng
là một cách thức tổ chức dạy học đạt kết quả tốt được đồng nghiệp ủng hộ và áp
dụng trong các tiết dạy của mình.
2.4.4. Đối với nhà trường
Chất lượng giảng dạy bô p̣môn được nâng cao ở cả chất lượng đại trà và chất
lượng học sinh giỏi (năm học 2015-2016 nhà trường có 01 học sinh đạt giải
khuyến khích môn lịch sử lớp 9 trong kì thi học sinh giỏi các môn văn hóa cấp
tỉnh)
3.Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
16


Trong giảng dạy nói chung và giảng dạy môn lịch sử nói riêng việc sử dụng
thiết bị dạy học là một yêu cầu bắt buộc để đổi mới phương pháp dạy học. Việc
sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy hiện nay là hết sức cần thiết. Sử
dụng hợp lí các đồ dùng trực quan trong tiết dạy lịch sử có tác dụng làm cho bài
giảng thêm sinh động, giúp học sinh phát huy tính tích cực, khắc sâu được kiến
thức lịch sử. Viêcp̣sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy có thể áp dụng cho
nhiều tiết dạy lịch sử ở các khối lớp.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương
hướng đổi mới có hiệu quả, việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học
là một yêu cầu cấp thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan niệm
thiết bị dạy học môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên
phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta còn đặc
biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc

truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo
điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng. Học
sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử
một cách tốt nhất và có hứng thú học tập bộ môn.
3.2. Kiến nghị.
- Đối với nhà trường: Khi phân công giảng dạy môn chuyên môn nên phân
công theo hướng mỗi giáo viên giảng dạy ít nhất là 2 lớp trên 1 khối để giáo
viên có thể rút được kinh nghiệm, áp dụng được các phương pháp giảng dạy phù
hợp. Nhà trường cần quan tâm hơn đến việc mua sắm các thiết bị dạy học, đồ
dùng trực quan phục vụ cho công tác giảng dạy của giáo viên.
- Tổ chuyên môn cần có các tiết dạy, sinh hoạt chuyên đề về sử dụng đồ
dùng trực quan trong tiết dạy để trao đổi, thống nhất cách sử dụng các đồ dùng ở
từng tiết dạy cụ thể.
Với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục
ở nhà trường THCS trong quan điểm đổi mới giáo dục hiện nay, là giáo viên
trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử tôi đã dành thời gian trăn trở và tìm tòi để cố
gắng hoàn thành đề tài “Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan nhằm nâng
cao tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập các tiết 24, 25,
27, 28 môn Lịch sử lớp 9 ở Trường THCS Tân Lập, huyện Bá Thước”.Tuy nhiên
do điều kiện cũng như năng lực còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai
sót nhất định. Tôi rất mong được sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo và sự góp ý
chân thành của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn, góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy bộ môn Lịch sử ở bậc THCS.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
17


Hoàng Văn Thành

Lê Thị Lý

18



×