Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học lịch sử và khắc sâu kiến thức lịch sử ở trường THCSTHPT q

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.52 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………...........2
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………..2
1.4.. Phương pháp nghiêm cứu……………………………………….....…..2
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………….........2
2.2.. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………3
2.3. Cách tổ chức thực hiện……………………………………….................5
2.4 Hiệu quả của “Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh
hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử” …..........12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận. ……………………………………………………….......... 14
3.2. Kiến nghị............................................................................................................................... 14

0


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử khơng chỉ đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội mà trong
chừng mực khơng nhỏ cịn là cơng cụ giáo dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất. Đó
là giáo dục lòng yêu nước, trung thành với dân tộc, với cách mạng, với Đảng... là
việc noi gương người xưa để hành động trong ngày hôm này sao cho phù hợp với
truyền thống đạo đức của dân tộc.
Nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường môn lịch sử bị xem là là môn
phụ. Kết quả học tập của học sinh rất yếu kém và đáng báo động. Vậy nguyên
nhân do đâu? Phải chăng dạy và học lịch sử hiện nay chưa tìm ra một phương
pháp đúng đắn, chuẩn xác để định hướng đi chung. Hiện nay việc dạy và học lịch


sử đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội.
Xuất phát từ thực tế đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các ban ngành liên quan
đã có những biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy và học lịch sử trong trường phổ
thông, như tổ chức các chuyên đề về sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong
dạy- học mơn Lịch sử, tích hợp các nội dung khác trong q trình giảng dạy. Có
rất nhiều cá nhân và tổ chức quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt là những giáo viên
trực tiếp dạy lịch sử cũng có những nỗ lực để tìm ra con đường, biện pháp nâng
cao hiệu quả việc dạy và học lịch sử hiện nay.
Và trên thực tế đã xuất hiện nhiều quan niệm, phương pháp dạy và học đáp
ứng phần nào những địi hỏi đó. Tuy vậy khoa học ln địi hỏi tìm ra những biện
pháp, con đường mới để áp dụng vào thực tiễn cho hiệu quả. Vì thế việc tìm ra con
đường nhằm nâng cao việc dạy và học lịch sử là điều hết sức quan trọng, cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
Là một giáo viên trực tiếp dạy học lịch sử, trong tơi cũng đang có những
suy nghĩ về việc dạy học lịch sử như hiện nay. Tôi cũng mong tìm ra con đường,
biện pháp tích cực để áp dụng trong cơng việc của mình đang làm và tìm ra nhiều
hướng đi hơn cho tư duy của bản thân trong quá trình dạy lịch sử.
Hiện nay ở các trường phổ thông đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy
học, nhiều phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết
thực cho quá trình dạy và học lịch sử. q trình sử dụng cơng nghệ thơng tin trong
dạy học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả đáng kể. Hay áp dụng nguyên
tắc dạy học liên môn, dạy học theo vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học qua các
chương trình học lịch sử... đã góp phần tích cực vào q trình tìm ra con đường
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử.
Đặc biệt, tôi đang công tác tại một trường vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn
của tỉnh Thanh Hóa, học sinh ơn thi đại học chủ yếu là khối C (Ngữ văn, Lịch sử,
1


Địa lí), phần lớn học sinh lựa chọn tổ hợp Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo

dục cơng dân) để thi xét tốt nghiệp trung học phổ thông. Việc củng cố và nâng cao
kiến thức môn Lịch sử là điều cần thiết vì vậy tơi chọn và thực hiện đề tài
“Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và
khắc ghi sâu kiến thức lịch sử ở Trường THCS&THPT Quan Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu phương pháp lấy ví dụ gợi mở trong giảng dạy mơn Lịch
sử nhằm gây hứng thú học tập và ghi nhớ kiến thức lịch sử đối với học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Đê tai xoay quanh viêc “Lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn
học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan
Hóa”
- Các tiết học Lịch sử tại Trương THCS&THPT Quan Hóa, huyện Quan
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Đê thưc hiên tôt đê tai nay tôi sư dung cac phương phap nghiên cưu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết;
- Phương phap nghiên cưu tai liêu hỗ trơ.
- Phương phap phat vân, nêu vân đê, đặt câu hỏi gợi mở.
- Thao giang, dư giơ trao đôi y kiên vơi cac đồng nghiêp trong qua trinh
day.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, thống kê, xử lý
số liệu.
- Áp dung kinh nghiêm phương phap mơi trên lơp.
- Kiêm tra đanh gia kêt qua hoc sinh va lam bai đê tư đo co điêu chinh va bô
sung.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Sinh thời, Chủ tịch Hờồ̀ Chí Minh đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Ban thân lich sư xa hôi loai ngươi va bô môn Lich Sư co nhiêu ưu thê trong
viêc giao duc thê hê trẻ, bơi vi qua môn hoc nay tâm nhin cua ho đôi vơi cuôc
sông qua khư - hiên tai - tương lai đươc mơ rông hơn, ho tim thây trong quá khứ
nhiêu câu tra lơi xac đang cho hôm nay va ngay mai.
Trong học tập lịch sử ở trường THPT, học sinh khơng chỉ biết mà cịn phải
hiểu lịch sử để rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn. Cũng như việc
học tập các môn học khác ở trường phổ thông, học tập lịch sử là một quá trình
2


nhận thức, q trình thu nhận thơng tin và sử dụng thông tin, mà mỗi học sinh phải
tự thực hiện cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn, sửa chữa, bổ sung của thầy cơ và
việc tìm hiểu các loại tài liệu và những phương tiện học tập khác. Trên con đường
nhận thức ấy, hứng thú đóng vai trị vơ cùng quan trọng làm tăng hiệu quả của
nhận thức, làm nảy sinh khát vọng, hành động chiếm lĩnh tri thức và đưa vào đời
sống thực tiễn.
Quá trình học tập lịch sử được thực hiện theo quy định chung của việc nhận
thức lịch sử: không trực tiếp quan sát được hiện thực q khứ, khơng thể tiến hành
thí nghiệm lịch sử như đối với các bộ môn tự nhiên, công nghệ. Tuy nhiên khơng
vì thế mà cho rằng học tập lịch sử khơng cần tư duy mà chỉ cần ghi nhớ thuộc
lịng. Quan niệm sai lầm này là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng
dạy học lịch sử ở trường phổ thông bị giảm sút.
Từ sự thấu hiểu nhận thức lịch sử của học sinh, người dạy học hướng vào
xây dựng giáo án bài dạy khách quan khoa học, gây hứng thú học tập, tìm hiểu
lịch sử đối với học sinh, khắc sâu kiến thức, hiểu được bản chất của các sự kiện
lịch sử, tìm ra mối liên hệ lơgíc của các sự kiện lịch sử. Việc lấy ví dụ gợi mở sẽ
giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử, vận
dụng vào ôn thi trung học phổ thông quốc gia, cũng như vận dụng vào thực tiễn
cuộc sống.
Theo bản thân tơi, ví dụ gợi mở là những ví dụ được giáo viên lựa chọn có

nội dung dễ hiểu và gần gũi đối với học sinh, từ nội dung của ví dụ, giáo viên sử
dụng các câu hỏi gợi ý giúp học sinh rút ra nội dung của bài học lịch sử.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Mỗi môn học trong nhà trường đều có vai trị và vị trí đặc biệt, nhưng đều
hướng vào mục tiêu “giáo dưỡng, giáo dục, phát triển kĩ năng” cho học sinh.
Môn Lịch sử là môn học đặc thù - học sinh phải đứng từ hiện tại để nhìn về
q khứ, qua đó người học tư duy để tìm ra bản chất của sự vật hiện tượng. Hiện
nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ thơng tin, giáo viên có thể vận
dung các hình ảnh, tư liệu làm cho bài học thêm sinh động, thu hút hơn đối với
học sinh.
Tuy nhiên, một thực trạng cho thấy hiện nay là “dân ta chưa biết nhiều về sử
ta”, vẫn cịn tình trạng “dạy ” Lịch sử bằng cách treo một tấm biển ở ngã ba đường
với nội dung: “Phan Bội Châu là một nhà cách mạng theo xu hướng cải cách, Phan
Châu Trinh là nhà cách mạng theo xu hướng bạo động và tổ chức phong trào Đơng
Du”, học sinh nhầm lẫn rằng “Hịa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư sở Hà
Nội”.... và còn bao nhiêu câu chuyện thật như bịa khác nữa đã xảy ra như Phan
Đình Tùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Quang Trung và Nguyễn Huệ là
hai anh em......
Vậy tại sao học sinh nói riêng và rất nhiều người Việt Nam nói chung lại có
sự nhầm lẫn về những địa danh lịch sử, những nhân vật lịch sử, con đường cứu
3


nước của các bậc tiền bối? Theo tôi, nguyên nhân là từ cả hai phía: phía người dạy
và phía người học. Tâm lý chung của học sinh cho rằng môn Lịch sử là mơn học
khơ khan, học những gì trong quá khứ, nhiều sự kiện, khó nhớ nên ngại học, ngại
tìm hiểu, chán nản. Thời gian vừa qua, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực đã được áp dụng trong dạy học lịch sử, tuy nhiên sự áp dụng đó chưa đờồ̀ng bộ,
phụ thuộc vào khả năng của từng giáo viên, cơ sở vật chất của từng trường, từng
địa phương.

Bản thân tôi đang giảng dạy tại Trương THCS&THPT Quan Hóa, huyện
Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sau một thời gian cơng tác tại trường, tơi nhận thấy
cịn tờồ̀n tại những thực trạng sau, đặc biệt đối với các em học sinh khối 10: học
sinh đến trường nhưng nhiều em chưa có mục tiêu, động lực học tập rõ ràng, đi
học để được nhận chế độ trợ cấp của nhà nước, đi học cho bằng bạn bằng bè; học
sinh đọc chưa thông thạo văn bản; không chịu nghiên cứu trước bài học ở nhà;
thiếu sách giáo khoa để phục vụ học tập; nhiều học sinh cho rằng học lịch sử chỉ
đơn thuần là ghi nhớ các sự kiện trong quá khứ, khơng gắn liền với thực tiễn cuộc
sống. Vì vậy, đa sô hoc sinh con lươi hoc, chưa say mê môn hoc Lich sư. Nêu hoc
thi cac em chi hoc đơi pho cịn sư say mê va hưng thu thât sư thì chưa co. Vi vây
viêc ghi nhơ cac sư kiên, hiên tương, nhân vât lich sư con yêu. Đa sô cac em chưa
đôc lâp suy nghi đê tra lơi câu hoi ma phai lệ thuộc hoàn toàn vào sach giao khoa,
hay chi nêu môt môc thơi gian ma không diên ta đươc thơi gian đo noi lên sư kiên
gi. Bơi vây ban thân cac em nên co môt phương phap hoc như thê nao đê chiêm
linh kiên thưc tư bai giang cua giao viên.
Đặc biệt với các em học sinh lớp 12 theo học xét tuyển đại học khối C, Mơn
Lịch sử vẫn là một mơn rất khó học, khó ghi nhớ kiến thức, làm bài thi điểm cũng
thấp so với mơn Ngữ Văn và mơn Địa lí.
Trong những năm gần đây, Ban Giám Hiệu Trương THCS&THPT Quan
Hóa đã tổ chức những đợt khảo sát thăm dò ý kiến của các em học sinh khối 10 về
phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng như hứng thú của các em đối với các
môn học. Ngay đầu năm học, nhà trường tiến hành khảo sát một số nội dung, sau
một thời gian học tập tại trường, nhà trường tiến hành khảo sát đợt hai. Trên cơ sở
kết quả khảo sát của hai đợt, nhà trường và các giáo viên trực tiếp giảng dạy có sự
điều chỉnh phương pháp cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh và thực
tiễn giáo dục của nhà trường.
Đầu năm học 2017 - 2018, nhà trường tiến hành khảo sát ý kiến của học
sinh khối 10 đối với môn Lịch sử, nội dung khảo sát và kết quả thu được (148 học
sinh tham gia khảo sát) như sau :
Nội dung

1. Về phương pháp giảng dạy của giáo viên
a. Bạn cảm thấy giáo viên Nhanh

Cấp độ
Chậm

Vừa phải
4


giảng bài
b. Bạn cảm thấy giáo viên
trình bày nội dung các bài
học
c. Giáo viên thường sử dụng
phương pháp gì để truyền đạt
cho học sinh

75
Khó hiểu

45
Dễ hiểu

75
Đọc bài cho
học sinh chép

33
Giảng dạy

cho học sinh
hiểu
99
44
d. Trong các buổi học, bạn
Căng thẳng
Hài hòa, thoải
cảm thấy khơng khí trong
mái
lớp
80
68
e. Trong mơn học, bạn cảm
Ít
Trung bình
thấy kiến thức thu được
40
68
2. Về mức độ quan tâm của giáo viên đối với học sinh
a. Bạn cảm thấy được giáo
Ít
viên quan tâm đến thái độ
học tập của học sinh
b. Giáo viên tư vấn, giúp đỡ
Thường xuyên
học sinh học tập
40
c. Giáo viên quan tâm đến
Quan tâm
giáo dục đạo đức, ý thức tổ

chức kỷ luật
44
3. Về phong cách, đạo đức giáo viên
a. Trang phục (Quần áo, giầy
dép, tóc…)
b. Ngơn ngữ giao tiếp
c. Thái độ ứng xử
4. Đánh giá chung
Bạn có thích được giáo viên
tiếp tục giảng dạy khơng?

28
Rõ ràng, dễ
hiểu
40
Đối thoại với
học sinh
5
Sơi nổi
0
Nhiều
40

Trung bình
104

Nhiều
44

Thỉnh thoảng

108
Ít quan tâm
104

Khơng
0
Khơng quan
tâm
0

Đẹp mắt

Bình thường

Luộm thuộm

Lịch sự, rõ
ràng

Bình thường

Thiếu lịch sự,
khó nghe

Hịa nhã, thân
thiện

Bình thường

Thiếu tơn

trọng

Rất thích

Có thể học
tiếp
103

Khơng thích

5

40

Như vậy, đa số học sinh cảm thấy giờ học căng thẳng, nội dung bài học khó
hiểu, khơng thích học mơn Lịch sử, mà ngun nhân chính là do phương pháp
5


“đọc bài cho học sinh chép”của nhiều giáo viên ở cấp THCS. Đê khăc phuc tinh
trang trên va nhăm nâng cao chât lương day va hoc ơ trương, ban thân tơi đã lựa
chọn “Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử
và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử ở Trường THCS&THPT Quan Hóa”
2.3. Cách tổ chức thực hiện
Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử
và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử bản thân tôi thường áp dụng khi giảng dạy những
nội dung kiến thức phần thông hiểu và vận dụng, đa số kiến thức khơng có sẵn
trong sách giáo khoa. Hoặc những ví dụ minh chứng cho nội dung bài học nhưng
gần gũi với cuộc sống để tạo hứng thú đối với học sinh và giúp học sinh khắc ghi
sâu kiến thức. Xin đưa ra một số ví dụ điển hình như sau :

Ví dụ 1 : Khi học bài 15 chương trình lịch sử lớp 10, ban cơ bản : Thời Bắc
thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập. Khi dạy mục I.1.b – Chính sách bóc lột
về kinh tế và đờồ̀ng hóa về văn hóa. Trong phần nội dung : chính sách của các triều
đại phong kiến về văn hóa, nội dung chính sách như sau :
+ Truyền bá Nho giáo, mở lớp dạy chữ Hán
+ Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán.
+ Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt.
Để giúp học sinh hiểu được tại sao với chính sách này các triều đại phong
kiến lại thực hiện âm mưu đờồ̀ng hóa về văn hóa, giáo viên lấy ví dụ gắn liền với
thực tiễn cuộc sống của học sinh, cụ thể giáo viên chọn một học sinh có nhuộm tóc
hoặc làm tóc xoăn và đặt câu hỏi: Có ai bắt em nhuộm (hoặc xoăn) tóc khơng? Nội
quy của nhà trường là khơng cho học sinh nhuộm tóc, học sinh sẽ phải trả lời là
không bị ai ép buộc, và dù bị cấm nhưng vẫn làm trái nội quy nhà trường vì em
thấy người khác nhuộm cũng đẹp, khơng biết mình nhuộm có hợp hay khơng
nhưng cũng muốn thử. Giáo viên kết luận: như vậy là em bắt chước người khác và
tự thay đổi bản thân, không bị ép buộc.
Sau đó, giáo viên lại chọn một học sinh khác khơng nhuộm tóc và hỏi quan
điểm của học sinh này, đa số các em đều trả lời là do cảm thấy không phù hợp với
bản thân, điều kiện kinh tế gia đình, khơng phù hợp với nét văn hóa truyền thống
của địa phương, dân tộc.
Sau khi giáo viên lấy ví dụ này sẽ gây sự chú ý của học sinh cả lớp, vì các
em rất quan tâm đến câu trả lời của hai học sinh đã được giáo viên gọi lên và đặt
câu hỏi. Hai học sinh trả lời xong, giáo viên cho ngồồ̀i xuống, hướng học sinh cả
lớp quay lại nội dung bài học: như vậy, chính sách của các triều đại phong kiến về
văn hóa là:
+ Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán.
+ Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt.
Khi đưa người Hán sang sống cùng người Việt, có những phong tục tập
quán của người Hán, dù họ không ép buộc nhưng nhiều người Việt sẽ học theo,
6



làm theo, bắt chước (gọi là đờồ̀ng hóa tự nhiên), mặt khác chúng bắt nhân dân ta
phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán. Như vậy, với hai gọng kìm: 1.
Bắt buộc, áp bức; 2. Đờồ̀ng hóa tự nhiên, chính quyền phong kiến phương Bắc hy
vọng nhân dân ta sẽ quên hết phong tục tập quán của người Việt và theo phong tục
tập quán của người Hán, chúng sẽ đạt được âm mưu đờồ̀ng hóa nhân dân ta về văn
hóa.
Cũng với ví dụ trên, giáo viên có thể sử dụng khi dạy mục I.2.b – Những
chuyển biến về văn hóa, xã hội. Trong phần chuyển biến về văn hóa, nội dung kiến
thức học sinh cần nắm gờồ̀m: những chuyển biến về văn hóa nước ta thời Bắc
thuộc; kết luận nhân dân ta khơng bị đờồ̀ng hóa về văn hóa; ngun nhân vì sao
nhân dân ta khơng bị đờồ̀ng hóa về văn hóa.
* Chuyển biến về văn hóa:
+ Một mặt ta tiếp thu những yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa thời
Hán - Đường như ngơn ngữ, văn tự.
+ Bên cạnh đó nhân dân ta vẫn giữ được phong tục,tập quán: nhuộm răng,
ăn trầu, làm bánh chưng, bánh dày, tôn trọng phụ nữ.
Kết luận: nhân dân ta khơng bị đồng hóa về văn hóa.
Sau khi đã tổ chức cho học sinh nắm nội dung cơ bản trên, giáo viên phát
vấn: vì sao nhân dân ta khơng bị đồng hóa về văn hóa?
* Nội dung kiến thức: nhân dân ta khơng bị đờồ̀ng hóa về văn hóa vì:
+ Nước ta có một nền văn hóa phát triển rực rỡ - Văn hóa Đơng Sơn.
+ Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, có ý thức biết tiếp thu có chọn lọc
những yếu tố tích cực từ bên ngồi.
+ Chính sách cai trị, từ sau khi lật đổ chính quyền của Hai Bà Trưng, chính
quyền đơ hộ mới cử quan lại cai trị tới cấp huyện, ở các làng xã vẫn giữ được các
yếu tố văn hóa bản địa.
+ Những người thuộc tầng lớp trên (con em quan lại hoặc gia đình giàu
có) mới có điều kiện đi học, tiếp thu chữ Hán và Nho giáo.

Giáo viên hướng học sinh cả lớp quay lại ví dụ đã sử dụng ở trên để hướng
dẫn học sinh nắm một trong ba nguyên nhân trên, đó là nhân dân ta có truyền
thống yêu nước, có ý thức biết tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực từ bên
ngồi. Giáo viên phân tích câu trả lời của hai học sinh về ngun nhân bản thân đã
nhuộm và khơng nhuộm tóc, như vậy hai em học sinh có hành động khác nhau do
ý thức và nhận thức khác nhau, vậy thời Bắc thuộc nhận thức của nhân dân ta như
thế nào mà chúng ta khơng bị đồng hóa về văn hóa? Ta có tiếp thu tất cả văn hóa
của người Hán và bỏ hết văn hóa người Việt hay khơng? Trên cơ sở trả lời các câu
hỏi dẫn dắt của giáo viên, học sinh sẽ rút ra được là nhân dân ta biết tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố văn hóa tích cực từ bên ngồi.
Với ví dụ đã sử dụng ở trên, giáo viên có thể liên hệ thực tế đến nguy cơ
đánh mất bản săc văn hóa dân tộc trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay khi mà giới
7


trẻẻ̉ thường bắt chước một cách máy móc về trang phục, lối sống của các ca sĩ, cầu
thủ bóng đá nổi tiếng trên thế giới.
Khi sử dụng ví dụ gắn liền với đời sống của học sinh trong khi truyền tải
các nội dung bài học, bản thân tôi nhận thấy: học sinh chú ý hơn đến nội dung bài
học, học sinh được nêu lên chính kiến của bản thân, lớp học sôi nổi, học sinh dễ
ghi nhớ nội dung bài học. Đặc biệt, đã có tác động nhất định đến nhận thức của
học sinh, cụ thể em Lộc Thị Bươn, học sinh lớp 10D (khóa học 2013 – 2016),
ngay sau buổi học em đã đi nhuộm tóc đen trở lại.
Ví dụ 2 : Khi học bài 32 chương trình lịch sử lớp 10, ban cơ bản: Cách
mạng công nghiệp ở châu Âu. Khi dạy mục 1 – Cách mạng công nghiệp ở Anh.
Nội dung cần truyền tải cho học sinh gồồ̀m: thời gian mở đầu và kết thúc cuộc cách
mạng cơng nghiệp ở Anh; những phát minh về may móc; tại sao Anh là nước đầu
tiên thực hiện cách mạng công nghiệp; tại sao nước Anh lại đi đầu từ công nghiệp
nhẹ, hệ quả của cách mạng công nghiệp ở Anh.
Ở Anh, những phát minh kĩ thuật đầu tiên xuất hiện trong cơng nghiệp dệt

vải bơng, giáo viên tích hợp kiến thức mơn Địa lí để giúp học sinh rút ra kết luận
nước Anh đi đầu từ công nghiệp nhẹ.
Giáo viên phát vấn: vậy tại sao nước Anh lại đi đầu từ công nghiệp nhẹ?
Khi giáo viên đặt câu hỏi này, rất ít học sinh khối 10 tại trường THCS&THPT
Quan Hóa có thể trả lời được, vì phần lớn học sinh ở đây là dân tộc thiểu số, các
em lại không chịu nghiên cứu bài trước ở nhà nên khả năng liên hệ, vận dụng kiến
thức không cao. Sau khi đặt câu hỏi, nếu học sinh không trả lời được, bản thân tơi
thường lấy ví dụ về hai sản phẩm của ngành công nghiệp nặng và ngành công
nghiệp nhẹ để học sinh so sánh, ví dụ là một chiếc áo và một chiếc ô tô, đây là
những sản phẩm thiết thực trong đời sống hiện nay. Giáo viên đưa ra nội dung so
sánh, gọi các học sinh trong lớp hoàn thiện bảng so sánh.
Nội dung
Chi phí đầu tư
Giá thành sản phẩm
Nhu cầu thị trường
Khả năng tiêu thụ
Khả năng thu hồồ̀i vốn

ÁÁ́o
Thấp
Thấp
Cao
Nhanh
Nhanh

Ơ tơ
Cao
Cao
Cao
Chậm

Chậm

Từ bảng so sánh trên, học sinh dễ nhận thấy rằng đầu tư ban đầu vào công
nghiệp nhẹ sẽ có lợi hơn. Bằng cách lấy ví dụ dẫn dắt và so sánh như trên, ngay cả
những học sinh yếu kém trong lớp cũng dễ hiểu bài, chú ý đến bài học và nắm
được nội dung của bài.
8


Ví dụ 3: Khi học bài 10 chương trình lịch sử lớp 12, ban cơ bản: Cách
mạng khoa học - cơng nghệ và xu thế tồn cầu hóa. Khi dạy mục I.1. – Nguồồ̀n gốc
và đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ.
Nội dung kiến thức của mục:
* Nguồn gốc:
+ Do đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu về
vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.
+ Sự bùng nổ về dân số và sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên
* Đặc điểm:
+ Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
+ Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu khoa học.
Khi giảng dạy nội dung này, kiến thức cần truyền tải cho học sinh khơng
phải là kiến thức khó, để học sinh ghi nhớ khắc sâu kiến thức nguồn gốc của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ là do đòi hỏi của cuộc sống nhằm đáp ứng
những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, bản thân tôi
đã dùng phương pháp yêu cầu học sinh lấy ví dụ về những nhu cầu, mong muốn
về những phát minh kĩ thuật để phục vụ cuộc sống và sản xuất hiện tại của bản
thân và gia đình.
Giáo viên phát vấn: Ngồi những thành tựu khoa học và những phát minh
kĩ thuật hiện nay đã ứng dụng, bản thân em có mong muốn, nhu cầu những phát
minh kĩ thuật gì mới để phục vụ nhu cầu sản xuất, đời sống của bản thân em và

gia đình em không?
Giáo viên sẽ gọi vài học sinh trong lớp trả lời và lắng nghe ý kiến của các
em, các em học sinh sẽ được tự do nói lên suy nghĩ và mong muốn của bản thân,
khơng khí trong lớp học sẽ sơi nổi, thoải mái.
Trong q trình giảng dạy khối 12, có một ý kiến của học sinh mà tơi rất
nhớ, em Vi Văn Thơn (lớp 12C, khóa học 2013 – 2016), em mong rằng bây giờ
trên thế giới sẽ sản xuất ra một cái máy xử lý rác thải, chỉ cần đổ rác vào, máy sẽ
tự động phân rác, những rác thải mềm như thức ăn thừa hoặc bùn đất thì máy tự
động chế tạo thành phân vi sinh, những rác thải rắn như sắt thép hoặc thủy tinh thì
máy tự động phân riêng từng lại chất rắn khác nhau và cô lại từng cục nguyên chất
sạch sẽ và có thể đem tái sử dụng.
Trên cơ sở những ý kiến của học sinh, giáo viên kết luận: như vậy mặc
dù bây giờ khoa học – kĩ thuật rất hiện đại, nhiều loại máy móc đã được sản xuất
để phục vụ đời sống và sản xuất, nhưng nhu cầu của con người là không bao giờ
dừng lại, những mong muốn của các em có thể chưa có trong hiện tại, nhưng nhu
9


cầu của chúng ta thì khơng bao giờ dừng lại, khi chúng ta cịn có nhu cầu thì sẽ
cịn những phát minh kĩ thuật mới để phục vụ đời sống.
Với ví dụ trên, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức bài học, đối với các em ôn
thi trung học phổ thông quốc gia khối Khoa học xã hội, làm bài trắc nghiệm môn
Lịch sử, khi gặp câu hỏi:
Cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ có nguồn gốc sâu xa từ
A. sự mất cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội.
B. u cầu giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới.
C. những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống và sản xuất.
D. nhu cầu đào tạo nguồồ̀n nhân lực cao cho các quốc gia.
Với bốn đáp án như trên, chắc chắn học sinh sẽ chọn được đáp án C khi nhớ lại
các vi dụ mà các em đã được phát biểu trong khi học bài.

Ví dụ 4: Khi học bài 10 chương trình lịch sử lớp 12, ban cơ bản: Cách
mạng khoa học - cơng nghệ và xu thế tồn cầu hóa. Khi dạy mục I. – Xu thế tồn
cầu hóa và ảnh hưởng của nó.
* Nội dung kiến thức học sinh cần
nắm: - Tồn cầu hóa là gì.
- Biểu hiện của xu thế tồn cầu hóa.
- Tác động tích cực và tiêu cực của tồn cầu hóa đối với quốc gia, dân tộc.
- Kệt luận: Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam, “Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển
mạnh mẽ trong thời kì mới, đó là vấn đề có ý nghĩ sống cịn đối với Đảng và nhân
dân ta”
Trong phần kết luận, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận: Trong xu thế
tồn cầu hóa hiện nay, Việt Nam có những thời cơ (thuận lợi) và thách thức (khó
khăn) gì?
* Nội dung những thời cơ và thách thức của Việt Nam trong xu thế toàn cầu
hóa gờồ̀m:
- Thời cơ:
+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hịa bình thế giới được củng cố, nguy cơ
chiến tranh bị đẩy lùi, xu thế chung của thế giới là hịa bình, ổn định và phát
triển.
+ Các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển, lấy phát triển
kinh tế làm trọng điểm, tăng cường hợp tác và tham gia các liên minh kinh tế khu
vực và quốc tế, chúng ta có thể khai thác nguồn đầu tư vốn, kĩ thuật, công nghệ và
kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài để rút ngắn thời gian phát triển kinh tế đất
nước.
- Thách thức:
10


+ Tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, các nước phải tìm ra con đường đi

phù hợp để hạn chế thấp nhất rủi ro, sai lầm để có bước đi thích hợp và kịp thời.
+ Điểm xuất phát thấp về kinh tế và trình độ dân trí, thiếu nguồn nhân lực
chất lượng cao.
+ Sự cạnh tranh của thị trường thế giới, mối quan hệ quốc tế bất bình
đẳng, bất lợi cho các nước đang phát triển.
+ Vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay từ bên ngồi.
+ Vấn đề ơ nhiễm mơi trường.
+ Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những yếu
tố văn hóa từ bên ngồi.
Phần nội dung trên khơng có sẵn trong sách giáo khoa, phần lớn học sinh
khơng chịu tìm hiểu trước nội dung khi giáo viên đã giao nhiệm vụ về nhà từ cuối
tiết học trước. Vì vậy, giáo viên cần dẫn dắt bằng các câu hỏi phát vấn, gợi mở,
các ví dụ cụ thể để các em suy luận và lĩnh hội kiến thức. Đối với những lớp mà
học sinh không chủ động tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức, bản thân tơi thường lấy ví
dụ sau: Một gia đình hộ nghèo được nhà nước cho vay ngân hàng một khoản tiền
vốn để xóa đói giảm nghèo (khoảng 50 tiệu đờồ̀ng), với lãi suất thấp. Sau khi làm
các thủ tục xong, người chồồ̀ng đến ngân hàng lĩnh tiền, nhưng sau khi lấy tiền
xong anh ta ra ngay cửa hàng bán xe máy mua luôn một chiếc xe máy LEAD trị
giá 44 triệu đồồ̀ng, mua một chiếc điện thoại smartphone thế hệ mới (khoảng 5 triệu
đờồ̀ng), sau đó anh ta vào một nhà hàng trong thị trấn ăn nhậu một bữa (hết khoảng
500 nghìn đờồ̀ng), số tiền ít ỏi cịn lại anh ta để dành đổ xăng xe và nạp thẻẻ̉ điện
thoại trong khoảng nửa tháng. Sau khi lấy ví dụ, giáo viên phát vấn: Vậy gia đình
này đã sử dụng nguồn vốn vay xóa đói giảm nghèo hợp lí chưa? Kinh tế gia đình
phát triển hơn khơng? Gia đình này liệu có trả được nợ gốc và lãi suất cho ngân
hàng không? Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, chúng ta vay vốn ODA
của các nước phát triển, vay tiền từ ngân hàng thế giới... để phát triển kinh tế. Từ
ví dụ trên em hãy nêu lên thách thức với chúng ta là gì?
Từ ví dụ trên, học sinh sẽ rút ra được một trong những thách thức đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam là vấn đề cần sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn vay từ bên ngồi.

Ví dụ trên rất gần gũi với các em học sinh ở huyện Quan Hóa, từ ví dụ
trên giáo viên có thể liên hệ đến tình trạng dân trí thấp, trình độ quản lý yếu kém,
vấn đề đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, giáo viên liên hệ đến thực
trạng giáo dục ở Quan Hóa: học sinh học hết cấp THCS không muốn đi học tiếp,
học sinh bỏ học giữa chừng ở cấp THPT, học sinh không chịu học bài và chủ động
lĩnh hội kiến thức, tình trạng hộ nghèo cịn chiếm tỉ lệ cao, vấn đề vay vốn xóa đói
giảm nghèo nhưng khơng đạt hiệu quả như mong muốn......
Trên đây là vài ví dụ minh chứng mà bản thân tơi đã sử dụng trong q
trình dạy học tại Trường THCS&THPT Quan Hóa và đạt được hiệu quả nhất định
11


trong việc giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức
lịch sử, nâng cao chất lượng giáo dục mơn lịch sử nói riêng và chất lượng giáo dục
trong nhà trường nói chung.
2.4. Hiệu quả của phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với
môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử.
Qua việc vận dụng phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú
với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT
Quan Hóa, nhiều học sinh trong trường đã có hứng thú nhiều hơn với mơn học
Lịch sử, ví dụ như học sinh Đào Thu Thủy, học sinh lớp 12A (khóa học 2013 –
2016) đã nhận định: “ở cấp THCS em khơng thích học lịch sử, nhưng lên cấp
THPT em lại rất thích học mơn lịch sử, cơ giáo có chọn em ơn đội tuyển học sinh
giỏi môn Lịch sử không để em chọn ôn môn khác”, điều đó chứng tỏ học sinh đã
có hứng thú, say mê với môn lịch sử, từ niềm say mê đó học sinh sẽ chủ động tìm
tịi, lĩnh hội kiến thức môn lịch sử, số học sinh thi đậu vào các trường Đại học
(nguyện vọng 1- khối C) ngày càng nhiều, tổng số điểm ba môn ngày càng cao,
đặc biệt môn Lịch sử điểm thi đại học đã cao hơn nhiều. Từ năm 2013 đến năm
2014, trong toàn trường học sinh thi đại học mơn Lịch sử khơng có em nào đạt từ
7,0 điểm trở lên. Nhưng từ năm 2016, trường đã có học sinh thi đại học đạt từ 7,0

điểm trở lên (em Hà Thị Bắc lớp 12A1 đạt 7,5 điểm, em Hà Thị Duy lớp 12A1 đạt
8,0 điểm ), các em thi đậu thẳng vào những trường có điểm đầu vào cao như: Học
viện hành chính quốc gia (Hà Phương Nam); Học viện Biên Phòng (Hà Văn
Vinh); Đại học Nội vụ (Hà Thị Hạnh, Hà Thị Nga) ... Trong năm học 2016 – 2017,
Trường THCS&THPT Quan Hóa có 101/111 học sinh lựa chọn tổ hợp Khoa học
xã hội để thi xét tuyển trong kì thi trung học phổ thơng quốc gia, nhà trường đã
khơng có học sinh nào bị điểm liệt môn Lịch sử.
Dù số học sinh thi đại học môn lịch sử đạt điểm từ 7,0 điểm trở lên chưa
nhiều, nhưng đã có sự tiến bộ so với các năm trước, điều đó khẳng định Phương
pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu
kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan Hóa có tác dụng tích cực trong
việc giúp học sinh khắc ghi kiến thức, nâng cao hiệu quả học tập trong tồn trường
nói chung và ôn thi trung học phổ thông quốc gia đối với học sinh khối 12 nói
riêng.
Cuối năm học 2017 – 2018, Ban Giám Hiệu Trường THCS&THPT Quan
Hóa đã tổ chức thăm dò, khảo sát ý kiến của học sinh đợt 2 về chất lượng giảng
dạy của các giáo viên về các môn học trong nhà trường. Kết quả khảo sát môn
Lịch sử (có 136 học sinh tham gia khảo sát) như sau:
Nội dung
1. Về phương pháp giảng dạy của giáo viên
a. Bạn cảm thấy giáo viên
Nhanh

Cấp độ
Chậm

Vừa phải
12



giảng bài
b. Bạn cảm thấy giáo viên
trình bày nội dung các bài
học
c. Giáo viên thường sử dụng
phương pháp gì để truyền đạt
cho học sinh

0
Khó hiểu

4
Dễ hiểu

33
Đọc bài cho
Giảng dạy
học sinh chép
cho học sinh
hiểu
0
125
d. Trong các buổi học, bạn
Căng thẳng
Hài hòa, thoải
cảm thấy khơng khí trong
mái
lớp
0
103

e. Trong mơn học, bạn cảm
Ít
Trung bình
thấy kiến thức thu được
3
44
2. Về mức độ quan tâm của giáo viên đối với học sinh
a. Bạn cảm thấy được giáo
Ít
viên quan tâm đến thái độ
0
học tập của học sinh
b. Giáo viên tư vấn, giúp đỡ Thường xuyên
học sinh học tập
92
c. Giáo viên quan tâm đến
Quan tâm
giáo dục đạo đức, ý thức tổ
chức kỷ luật
110
3. Về phong cách, đạo đức giáo viên
a. Trang phục (Quần áo, giầy
dép, tóc…)
b. Ngơn ngữ giao tiếp
c. Thái độ ứng xử

4. Đánh giá chung
Bạn có thích được giáo viên
tiếp tục giảng dạy khơng?


Đẹp mắt
51
Lịch sự, rõ
ràng
114
Hịa nhã, thân
thiện
114
Rất thích

132
Rõ ràng, dễ
hiểu
103
Đối thoại với
học sinh
11
Sơi nổi
33
Nhiều
89

Trung bình
40

Nhiều
96

Thỉnh thoảng
44

Ít quan tâm

Khơng
0
Khơng quan
tâm
0

26
Bình thường
85
Bình thường
22
Bình thường
22

Luộm thuộm
0
Thiếu lịch sự,
khó nghe
0
Thiếu tơn
trọng
0

Có thể học
Khơng thích
tiếp
99
37

0
Như vậy, sau một năm học tập tại trường, thái độ, hứng thú học tập của học
sinh đối với mơn Lịch sử đã có sự chuyển biến tích cực, đầu năm học chỉ có 5/148
(3,4%) học sinh thích học mơn Lịch sử, cuối năm học tăng lên 99/136 (72,8%),
13


điều đó khẳng định tính hiệu quả của các phương pháp mà giáo viên đã áp dụng
trong quá trình giảng dạy, trong đó có phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh
hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử.
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận.
Như đã nói ở trên, mơn Lịch sử là một môn học đặc thù, người học đứng ở
hiện tại để nhìn lại quá khứ với rất nhiều sự kiện, nhân vật lịch sử thế giới và trong
nước, đòi hỏi sự ghi nhớ chính xác. Tâm lí chung của phần đông học sinh là ngại
học, không hứng thú với việc học mơn lịch sử, cũng có những học sinh thích và
say mê mơn lịch sử nhưng lại chưa tìm ra phương pháp học phù hợp cho mình để
lĩnh hội kiến thức.
Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy - học, sử dụng kết hợp các phương
pháp, các phương tiện phù hợp với từng bài dạy, với đối tượng học sinh là điều
cần thiết, giúp học sinh hứng thú hơn, khắc sâu kiến thức hơn khi học môn Lịch
sử, hạn chế sự nhầm lẫn về địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, bản chất của các sự
kiện hiện tượng…
Đối với các trường miền núi như trường THCS&THPT Quan Hóa, học sinh
xét tuyển đại học khối C nhiều hơn so với khối A, tuy nhiên tổng điểm thi ba môn
Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí vẫn thấp so với mặt bằng chung của nhiều trường trong
tỉnh và cả nước, việc đổi mới phương pháp dạy học để học sinh có hứng thú học
tập, nắm vững kiến thức, nâng cao kiến thức ôn thi Trung học phổ thông quốc gia
là một điều cấp thiết. Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với
môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử là một trong các phương pháp

góp phần giúp học sinh nắm vững kiến thức, nâng cao kiến thức ôn thi trung học
phổ thông quốc gia, thực tế đã chứng minh điều đó.
3.2. Kiến nghị.
Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử
và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử này có thể áp dụng cho nhiều bài dạy, dễ áp
dụng, chi phí thấp, phù hợp khi áp dụng giảng dạy ở các trường học điều kiện cơ
sở vật chất cịn khó khăn, đời sống và trình độ dân trí chưa cao như huyện Quan
Hóa và các huyện miền núi khác của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, để phương pháp
này thành cơng cần có sự nỗ lực, tâm huyết, của giáo viên giảng dạy trên cơ sở đã
nắm rõ đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của từng học sinh nói riêng và tồn
trường nói chung, giáo viên phải có sự linh hoạt trong việc lấy ví dụ cụ thể, phù
hợp, dẫn dắt để học sinh rút ra được nội dung bài học từ ví dụ mà giáo viên đưa ra.
Không chỉ với môn lịch sử mà các môn học khác như Ngữ văn, Địa lí, Giáo
dục cơng dân cũng có thể áp dụng phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh
hứng thú với môn học và khắc ghi sâu kiến thức. Phương pháp này cũng dễ phổ
biến trong phạm vi nhà trường hay các cụm trường thông qua những đợt tập huấn
14


do Sở GD&ĐT tổ chức hoặc thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ
chuyên môn, các cụm trường.
XÁÁ́C NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quan Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2018
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

Quách Thị Nhi


1
5


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 12, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, 2014.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 11, NXB Giáo dục Việt Nam, Bắc
Giang, 2014.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 10, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, 2006.
4. Nguyễn Xuân Tùng, Hướng dẫn ôn tập kì thi trung học phổ thông
quốc gia năm học 2017 – 2018 Khoa học xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, 2018.
5. Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam từ nguồồ̀n gốc đến năm 1884,
NXB TP. Hồồ̀ Chí Minh, TP Hờồ̀ Chí Minh, 2000.

16


ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP SỞ GD&ĐT
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI :
1. Tổ chức hoạt động ngoại khóa, tich hợp kiến thức liên mơn: Ngữ văn, Lịch sử,
Địa lí góp phần củng cố kiến thức, nâng cao chất lượng học tập và ôn thi đại học
cho học sinh THPT (phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954)
Được Hội đồồ̀ng khoa học Ngành đánh giá xếp loại C năm học 2012 2013

17




×