Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.47 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH HUYỀN

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH HUYỀN

BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, thông tin và kết quả được nêu trong Luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN THANH HUYỀN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẢO LĨNH...............................................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
trong tố tụng hình sự Việt Nam...................................................................9
1.2. Khái quát lịch sử phát triển các quy định về biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ.........................18
1.3. Các quy định về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong pháp luật tố
tụng hình sự một số nước..........................................................................26
Kết luận chương 1.....................................................................................34
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH........................................ 35
2.1. Quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh..............35
2.2. Quy định về đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.........38
2.3. Quy định về chủ thể nhận bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các
chủ thể.......................................................................................................43
2.4. Quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh....................................................................................46
2.5. Quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.....47

Kết luận chương 2.....................................................................................50
Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................................51
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự Việt Nam...................................................................................... 51
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh trong tố tụng hình sự..........................................................................66
Kết luận chương 3.....................................................................................73
KẾT LUẬN.....................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC:

Biện pháp ngăn chặn

THTT:

Tiến hành tố tụng


TTHS:

Tố tụng hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi toàn quốc
từ năm 2015 đến năm 2019.......................................................................................... 511
Biểu đồ 3.1: Tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2015 đến năm 2019.............................................................................. 522
Biểu đồ 3.2: Số bị can, bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trên
phạm vi toàn quốc từ năm 2015 đến năm 2019................................................ 544


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn được quy định
tại Mục 1 Chương VII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có: Bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn
xuất cảnh. Các biện pháp ngăn chặn này là công cụ hữu hiệu, được các cơ
quan tiến hành tố tụng (THTT) áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị nghi
thực hiện tội phạm nhằm ngăn chặn tội phạm, không cho người phạm tội tiếp
tục thực hiện tội phạm, gây khó khăn cho công tác điều tra, đảm bảo cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đúng pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự là vấn đề rất nhạy cảm và được các quốc gia trên thế giới, các tổ chức
quốc tế rất quan tâm do hoạt động này trực tiếp tác động đến các quyền con
người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật các quốc gia quy định

như: Quyền bất khả xâm phạm thân thể, quyền tự do đi lại, quyền làm việc,
sinh hoạt, học tập...Chính vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh nói riêng đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền phải cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền con
người, quyền công dân. Đồng thời, thể hiện việc tuân thủ các quy định của
pháp luật quốc tế cũng như tôn trọng cam kết giữa các quốc gia về bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.
Ở Việt Nam, vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân ngày càng được đề cao, tôn trọng và bảo vệ. Điều này được thể hiện
thông qua đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đảm bảo công dân
không bị áp dụng BPNC một cách tùy tiện. Tại Khoản 1 Điều 14 Hiến Pháp

1


năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” [1], tại
Điều 8 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã khẳng định nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy
bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
không còn cần thiết” [2]. Nội dung này đã được đề cập trong Nghị quyết số
08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp. Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 đã đưa ra yêu
cầu:“Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt giam, giữ đảm bảo đúng pháp
luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không

phê chuẩn lệnh bắt tạm giữ, tạm giam” [3] và trong Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối
với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định
việc áp dụng các biện pháp tạm giam; xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo
đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; hoàn thiện các thủ
tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người” [4]. Việc thể hiện vấn đề tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong các văn kiện quan trọng của
Đảng vừa thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc hạn chế
áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc, vừa đảm bảo yêu cầu đấu tranh

2


phòng, chống tội phạm gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân.
Trong số các biện pháp ngăn chặn kể trên, bảo lĩnh là một trong các
BPNC thể hiện được tính ưu việt khi vừa bảo đảm được yêu cầu chung của
một biện pháp ngăn chặn đó là ngăn chặn tội phạm, không cho người phạm
tội tiếp tục thực hiện tội phạm lại vừa tạo điều kiện cho bị can, bị cáo không
bị cách ly khỏi cộng đồng, không bị hạn chế các quyền công dân, miễn sao
việc thực hiện các quyền này không gây cản trở, khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các
cơ quan THTT. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng thực tiễn áp dụng biện pháp bảo
lĩnh của các cơ quan THTT những năm qua cũng bộc lộ những hạn chế,
vướng mắc về pháp luật, về nhận thức, tổ chức thực hiện, nhất là những
vướng mắc khi áp dụng các chế tài đối với bị can, bị cáo vi phạm cam kết
hoặc chủ thể nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh. Trước tình hình đó, cần
đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, khắc phục những hạn chế, vướng mắc liên

quan đến BPNC bảo lĩnh, hướng tới hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự cho phù hợp với tinh thần của Hiến pháp và định hướng của
Chiến lược cải cách tư pháp.
Việc nghiên cứu lý luận, phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp chặn
bảo lĩnh trong tố tụng hình sự nhằm đánh giá được những mặt tích cực, hạn
chế khi áp dụng biện pháp này, xác định nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế đó là rất cần
thiết và có ý nghĩa về cả mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền hiện nay. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận
văn Thạc sĩ Luật học của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài nghiên cứu trên. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau:
- Về bài đăng trên tạp chí:
+ Bùi Kiên Điện (1999), Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, Tạp chí
Luật học.
+ Nguyễn Văn Dũng (2002), Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
và những bất cập, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
+ Trịnh Tiến Việt (2006), Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân.
+ Trần Quang Tiệp (2006), Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Kiểm sát.
+ Nguyễn Đức Thuận (2008), Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Luật học.

+ Lê Thị Tuyết Hoa (2008), Về các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng
hình sự, Tạp chí Kiểm sát.
+ Nguyễn Đình Bình (2008), Một số ý kiến về hoàn thiện các quy định
về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát.
+ Trịnh Tiến Việt (2012), Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và
hướng sửa đổi bổ sung, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
+ Phạm Ngọc Ánh (2012), Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều
92 Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân.
+ Vũ Gia Lâm (2012), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học.

+ Nguyễn Ngọc Kiện (2014), Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh và cấm đi khỏi nơi cư trú trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.

4


- Về sách chuyên khảo:
+ Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề
nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
+ Nguyễn Mai Bộ (1997), Những biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng
hình sự, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
+ Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Về luận văn, luận án:
+ Nguyễn Văn Điệp (1996), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
+ Lê Thanh Bình (2010), Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong
tố

tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
+ Hoàng Thị Diệp (2014), Biện pháp ngăn bảo lĩnh trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
+ Đỗ Quý Cường (2016), Các biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
Có thể thấy, đã có khá nhiều luận văn, luận án nghiên cứu tổng quan
cũng như chi tiết các nội dung liên quan đến các BPNC nói chung và về
BPNC bảo lĩnh nói riêng. Các công trình khoa học nói trên, đã gợi mở cho tác
giả luận văn nhiều ý tưởng khoa học và là những tài liệu rất bổ ích được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có
công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu về những quy định mới

5


về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so
với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và chỉ ra những bất cập, hạn chế trong
việc áp dụng BPNC trong thực tế qua đó đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện
hơn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do vậy, việc tác giả tiếp tục nghiên
cứu về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh một cách toàn diện là vấn đề cần thiết và
không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích khi nghiên cứu đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận chung về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Đồng thời, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn

này và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra việc cần
thực hiện các nhiệm vụ chính sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh cũng như lịch sử hình thành các quy phạm pháp luật về biện pháp ngăn
chặn này.
- Phân tích, đánh giá những quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh;
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh từ
năm 2015 đến 2019 trên phạm vi toàn quốc.
- Chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh trong thời gian tới.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn
bảo lĩnh;
- Phân tích, đánh giá những quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh;
- Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này trên phạm vi toàn quốc.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các vấn đề cơ bản sau:
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, ý

nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Bên cạnh việc đi sâu phân tích các
quy định về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, tác giả cũng có so sánh, đối chiếu với những quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 để tìm ra được những hạn chế, bất cập trong Bộ luật tố
tụng hình sự cũ đã được sửa đổi, bổ sung triệt để hay chưa.
- Về thời gian và không gian: Tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát
thực tế, thu thập số liệu, tài liệu về tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nói chung và biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh nói riêng trên phạm vi toàn quốc
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các
quan điểm, chủ chương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chính
sách hình sự và cải cách tư pháp.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với
yêu cầu của từng vấn đề cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, lịch sử cụ thể… để làm sáng tỏ nội dung
cần nghiên cứu.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn
đề lý luận về BPNC bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong luận văn có giá trị tham khảo thiết thực đối với
các nhà lập pháp hình sự trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật tố

tụng hình sự cũng như đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm
hiểu và áp dụng pháp luật. Cùng đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo
bổ ích trong quá trình giảng dạy tố tụng hình sự và cho những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử phát triển của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh.
Chương 2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện
pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam.

8


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẢO LĨNH.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Để việc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả, pháp luật tố tụng
hình sự (TTHS) nước ta đã quy định các biện pháp cưỡng chế khác nhau.
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS có các biện pháp ngăn chặn
(BPNC) nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện tội phạm gây
khó khăn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Chế định các
biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự.

Việc quy định và áp dụng một cách đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn
chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để
phát hiện chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh
đối với kẻ phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Pháp
luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đều có quy định về các biện
pháp ngăn chặn. Tùy theo pháp luật của từng nước và ở từng thời điểm khác
nhau mà các biện pháp ngăn chặn được quy định có thể có sự khác nhau về số
lượng, tên gọi, thủ tục áp dụng… Mặc dù vậy, bản chất chung của các biện
pháp này đều là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế, do cơ quan tiến
hành tố tụng (THTT) thực hiện nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những
hành vi gây khó khăn, cản trở cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Hiện nay, pháp luật TTHS Việt Nam quy định nhóm các BPNC tại
Chương VII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm có: Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bắt bị

9


can, bị cáo để tạm giam; giữ người trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm
giam; cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất
cảnh. Việc áp dụng các BPNC này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
cá nhân người bị áp dụng nhất là quyền nhân thân, quyền tự do cá nhân và các
quyền con người cơ bản khác. Các BPNC có tính nghiêm khắc hơn so với các
biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS, nên khi áp dụng các cơ quan THTT
cần cân nhắc thận trọng, tránh gây thiệt hại đến quyền con người, quyền công
dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Bảo lĩnh là một trong những BPNC được quy định trong tố tụng hình sự.
Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh thì bảo lĩnh
nghĩa là “nhận, gánh vác trách nhiệm về một việc gì hay một người nào” [5] hay
theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì bảo lĩnh là “dùng tư cách,

uy tín của mình để bảo đảm cho hành động, tư cách của người khác” [6].

Còn ở khía cạnh pháp lý, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể nêu ra một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của
TTHS áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam được các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy
cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ
quan tiến hành tố tụng” [7].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Bảo lĩnh là BPNC được quy định trong
BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam
đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn
tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm
giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm

10


sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án [8].
Quan điểm này đã nêu lên được những nội dung cơ bản về BPNC bảo lĩnh
như chỉ ra được bản chất pháp lý của BPNC bảo lĩnh là biện pháp thay thế biện
pháp tạm giam, đối tượng bị áp dụng, điều kiện áp dụng cũng như mục đích khi
áp dụng BPNC này. Tuy nhiên, quan điểm này lại chưa đề cập đến các căn cứ cụ
thể áp dụng và chủ thể nào có thẩm quyền áp dụng BPNC bảo lĩnh.

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội lại có quan điểm cho rằng: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị

can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy
triệu tập” [9]. Quan điểm này đã làm rõ được thẩm quyền áp dụng BPNC bảo
lĩnh thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; đối tượng áp dụng là bị
can, bị cáo; chủ thể nhận bảo lĩnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức; mục đích
của biện pháp này là nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy
triệu tập… Song, quan điểm này cũng chưa đưa ra được căn cứ cụ thể để áp
dụng biện pháp này là gì?
Còn theo khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015 thì: “Bảo lĩnh là biện
pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.
Như vậy, theo quan điểm của nhà lập pháp thì căn cứ áp dụng BPNC bảo lĩnh
chính là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội và nhân thân của bị can, bị cáo nhưng cũng chưa đề cập đến các tiêu chí
khác như chủ thể nhận bảo lĩnh, điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp này.

11


Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về cùng một khái niệm “bảo
lĩnh”, nhưng về cơ bản các quan điểm nêu trên ở phương diện nào đó đều đã
chỉ ra được nội hàm của khái niệm bảo lĩnh. Song phân tích từng quan điểm
có thể thấy mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định. Có quan điểm nêu
ra được bản chất của BPNC bảo lĩnh nhưng lại không nêu căn cứ áp dụng; có
quan điểm chỉ ra được căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng thì lại thiếu các
nội dung liên quan đến điều kiện áp dụng, mục đích áp dụng… Có thể thấy,
việc khái niệm này được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau như vậy là do
hiện nay chưa có sự hướng dẫn cụ thể của các nhà làm luật cũng như chưa có
sự thống nhất chung trong giới khoa học về nội hàm của khái niệm bảo lĩnh.

Qua việc phân tích và tổng hợp các quan điểm về BPNC bảo lĩnh, tác
giả nhận thấy để xây dựng được khái niệm về BPNC bảo lĩnh một cách đầy
đủ, chính xác thì trong khái niệm đó phải đề cập được đến các dấu hiệu đặc
trưng của biện pháp này như: Bản chất pháp lý của bảo lĩnh là gì? Thẩm
quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này? Căn cứ áp dụng? Đối tượng bị áp
dụng? Chủ thể nhận bảo lĩnh gồm những ai? Thủ tục và mục đích áp dụng?
Từ những vấn đề trên, có thể đưa ra một nhận định khoa học, đầy đủ về
khái niệm bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn do những người
có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng thay thế
biện pháp ngăn chặn tạm giam trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cho
phép cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có
mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ khái niệm trên có thể chỉ ra một số đặc điểm của BPNC bảo lĩnh
như sau:
Một là, BPNC bảo lĩnh được áp dụng để thay thế cho BPNC tạm giam.
Trong trường hợp xét thấy việc áp dụng BPNC tạm giam đối với bị can, bị

12


cáo là không cần thiết và có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định của pháp luật
để bảo đảm bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội hoặc cản trở hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử thì cơ quan THTT áp dụng BPNC bảo lĩnh đối với họ.
Hai là, tính chất của BPNC bảo lĩnh ít nghiêm khắc hơn so với biện
pháp tạm giữ hay tạm giam. Bởi đối với một số loại tội phạm với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
lần đầu, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng và có cá nhân hoặc tổ chức đứng
ra nhận bảo lĩnh… thì được áp dụng BPNC bảo lĩnh. Theo đó, bị can, bị cáo

sẽ không bị tách ra khỏi cộng đồng, không bị hạn chế các quyền công dân
khác như người bị tạm giữ, tạm giam. Điều này đã thể hiện được chính sách
nhân đạo của Nhà nước ta. Bên cạnh đó, ưu điểm của việc áp dụng BPNC này
là tránh được tình trạng quá tải trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, giúp tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nước.
Ba là, đối tượng bị áp dụng BPNC bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Không phải tất cả các bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam đều có thể
được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh mà chỉ bị can, bị cáo thuộc đối
tượng bị tạm giam và có đủ các căn cứ, điều kiện áp dụng quy định tại khoản
1 Điều 109 và khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015 thì mới có thể được áp
dụng BPNC bảo lĩnh. Thực tiễn cho thấy, bị can, bị cáo được áp dụng BPNC
này phải là phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng,
thái độ khai báo thành khẩn… đồng thời có cá nhân hoặc tổ chức đứng ra
nhận bảo lĩnh [10].
Bốn là, BPNC bảo lĩnh chỉ được áp dụng khi có đủ căn cứ và điều kiện
do pháp luật quy định. Theo đó, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015. Ngoài ra, các cơ
quan THTT cần phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

13


hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo để xem xét việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn này.
Năm là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC bảo lĩnh là những người
có thẩm quyền của các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án), khi xét thấy các căn cứ và điều kiện để áp dụng BPNC bảo lĩnh đã đáp
ứng theo yêu cầu của pháp luật thì chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng BPNC bảo lĩnh, đề nghị cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh làm giấy
cam đoan về nghĩa vụ bảo lĩnh của mình.

Sáu là, mục đích của BPNC bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT.
BPNC bảo lĩnh tạo điều kiện để bị can, bị cáo không bị cách ly khỏi cộng
đồng, xã hội cùng với đó là nhận được sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục từ phía
gia đình, không bị hạn chế các quyền tự do, miễn sao việc thực hiện các
quyền đó không gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Qua những phân tích về khái niệm, đặc điểm của BPNC bảo lĩnh ở trên
giúp chúng ta hiểu hơn về BPNC bảo lĩnh trong TTHS và tránh được tình trạng
nhầm lẫn với biện pháp bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự. Cụ thể như sau:

Xét về cách phát âm, nhiều người cho rằng bảo lĩnh với bảo lãnh thực
chất là một, còn việc phát âm khác nhau là do tính chất vùng miền. Điều này
hoàn toàn không chính xác bởi ngay trong Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông
dụng cũng đã có ghi rõ về hai thuật ngữ này như sau:
Bảo lĩnh: Sự cam kết của cá nhân hoặc tổ chức trước Cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án về việc nhận bị can, bị cáo về để quản lý, giáo
dục… [11].
Bảo lãnh: Một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó người
bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ này thay cho

14


bên có nghĩa vụ (người được bảo lãnh), nếu khi hết hạn thực hiện nghĩa
vụ mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ…
Xét về mặt pháp luật, đây là hai chế định hoàn toàn khác nhau, bảo lĩnh
chỉ có trong TTHS, còn bảo lãnh chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự. Bảo
lĩnh được ghi nhận trong TTHS với tư cách là một biện pháp ngăn chặn, thay

thế biện pháp tạm giam, do những người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do
pháp luật quy định, nhằm đảm bảo không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội
hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo
giấy triệu tập của cơ quan THTT. Còn bảo lãnh, theo khoản 1 Điều 355 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi
là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” [12].
Chế định bảo lĩnh và bảo lãnh khác nhau ở một số khía cạnh sau:
+ Về bản chất: Nếu bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự trong giao kết hợp đồng thì bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được áp
dụng thay thế biện pháp tạm giam trong TTHS.
+ Về đối tượng áp dụng: Đối tượng của bảo lãnh được ghi nhận là thực
hiện một công việc hoặc vật, tiền, tài sản có giá trị còn đối tượng của bảo lĩnh
là bị can, bị cáo.
+ Về căn cứ áp dụng: Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lãnh có thể do các
bên tự thỏa thuận, còn bảo lĩnh là dựa trên việc xem xét tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo.
+ Mối quan hệ giữa các bên: Biện pháp bảo lãnh thể hiện mối quan hệ
xã hội bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của ba bên là người bảo lãnh – người

15


nhận bảo lãnh – người được bảo lãnh. Ở biện pháp bảo lĩnh tuy cũng có ba
bên tham gia nhưng chủ yếu là thể hiện mối quan hệ mang tính chất quyền uy
– mệnh lệnh giữa Nhà nước – bị can, bị cáo.
+ Về trách nhiệm thực hiện: Nếu như bảo lãnh cho phép các bên có thể

thực hiện quyền thay cho nhau hoặc thỏa thuận lại thì biện pháp bảo lĩnh thì
quyền và nghĩa vụ của các bên được phân định rõ ràng, không thể chuyển
giao, mang tính cá thể hóa trách nhiệm hình sự.
1.1.2. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Bảo lĩnh là một BPNC có ít tính nghiêm khắc, thể hiện chính sách pháp
luật TTHS nhân đạo của Nhà nước, thể hiện tính ưu việt, vượt trội hơn các
biện pháp khác hướng tới đề cao quyền con người. Với tư cách là một BPNC,
bảo lĩnh có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh, phòng và chống các loại tội
phạm cũng như đảm bảo các quyền con người, quyền công dân, cụ thể:
- Về ý nghĩa chính trị, ở nước ta, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà
nước, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân tổ chức ra và vì
lợi ích của nhân dân. Đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân, pháp luật quy định nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân được tôn trọng. Bảo lĩnh với tư cách là một BPNC
trong TTHS được áp dụng bởi những người có thẩm quyền trong cơ quan
THTT, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, củng cố tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự xã hội. Bên cạnh đó, việc quy định
và áp dụng biện pháp này còn đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp về việc
tiến tới hạn chế dần áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm
và thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác [13]. Đây là chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta trong đổi mới quy định về điều kiện tạm giam, nhằm
đảm bảo yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự gắn
liền với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân.

16


- Về ý nghĩa pháp lý, hướng tới các quyền tự do, dân chủ của con người
là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước cho phép các
cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng các BPNC cần thiết, phù hợp với mục đích

đề ra nhưng phải đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. BPNC bảo lĩnh tạo
cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Biện pháp này không chỉ thể hiện tính
cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích cơ bản
của công dân mà còn trở thành phương tiện đắc lực bảo vệ các quyền đó khi
chính nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Mọi công dân căn cứ
vào các quy định của pháp luật để kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp và tính đúng
đắn của việc áp dụng BPNC bảo lĩnh, qua đó bảo vệ được các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Ở các nước tư bản tiến bộ, BPNC bảo lĩnh đã tồn tại từ
rất lâu và đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của nó trong việc bảo đảm các quyền
cơ bản của công dân. Sự ra đời của biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật TTHS
nước ta đã khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn trong tư duy của các nhà
làm luật.
- Về ý nghĩa xã hội, BPNC bảo lĩnh lại là một trong những BPNC ít
nghiêm khắc bởi biện pháp này coi việc giáo dục, thuyết phục con người là
chủ yếu, khi áp dụng BPNC bảo lĩnh, bị can, bị cáo không bị cách ly khỏi xã
hội, cũng không bị hạn chế các quyền cơ bản của công dân miễn là việc thực
hiện các quyền đó không gây cản trở cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án của cơ quan THTT. Nhờ đó mà tránh được tình trạng quá tải
trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, giúp tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước
và nâng cao được trách nhiệm của cộng đồng khi cùng chung tay quản lý,
giáo dục bị can, bị cáo cùng các cơ quan THTT. Qua đó, thể hiện mối quan hệ
gắn kết chặt chẽ giữa ba chủ thể là cơ quan THTT với bị can, bị cáo và chủ
thể nhận bảo lĩnh trong hoạt động TTHS.

17


1.2. Khái quát lịch sử phát triển các quy định về biện pháp ngăn
chặn bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 1988
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền thuộc về
nhân dân, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nhằm bảo vệ các
quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non
trẻ, ngăn chặn những hoạt động phá hoại của các thế lực phản động cũng như
các loại tội phạm, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật phục vụ
cho công việc quản lý xã hội, trong đó có các quy định về BPNC. Bước đầu là
quy định về BPNC như bắt người, tạm giữ, tạm giam và sử dụng những biện
pháp đó như những phương tiện hữu hiệu để đấu tranh chống các thế lực phản
động, các loại tội phạm đồng thời bảo vệ quyền bình đẳng, quyền tự do thân
thể của công dân.
Trước hết có thể kể đến các quy định tại Hiến pháp năm 1946 (thông
qua tháng 11/1946), tại Điều 7 Hiến pháp 1946 quy định: “Tất cả công dân
Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và
công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” [14] hay Điều
11 cũng khẳng định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và
giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam
không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”. Sự ra đời của Hiến pháp
năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành quy định về bắt, tạm giữ,
tạm giam trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về việc tổ chức Tòa án và
ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 về việc bảo vệ tự do cá
nhân, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công
an và Sắc lệnh số 85/SL ngày 7/11/1950 về cải cách bộ máy Tư pháp…Căn cứ
vào các văn bản này thì một số nội dung cơ bản về thẩm quyền áp dụng,

18


đối tượng áp dụng, thủ tục áp dụng các BPNC đã được đề cập, có thể kể đến

như: Tại Điều 4, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định:“Ban tư pháp
xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không có quyền bắt bớ, giam
giữ trừ khi có trát nã của Thẩm phán hay khi thấy một người phạm tội quả
tang” [15] hay việc quy định về trình tự, thủ tục thực hiện việc giam giữ được
Điều 1 Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 quy định rõ: “Lệnh bắt người phải
được viết ra giấy và phải do nhân viên của các cơ quan chính thức đem thi
hành” [16] , đồng thời Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 còn quy định cụ thể
trách nhiệm của những người bắt, giam giữ người trái pháp luật và hình phạt
nghiêm khắc họ sẽ bị áp dụng khi bắt, giam giữ người trái pháp luật tại các
Điều 18, Điều 19 của Sắc lệnh này.
Sau ngày hòa bình được lập lại trên Miền Bắc (năm 1954), Quốc hội đã
thông qua nhiều văn bản pháp luật có quy định về BPNC, bảo vệ các quyền tự
do của công nhân. Trong đó đáng chú ý có Luật số 103/SL-L005 do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1954 quy định về đảm bảo quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân. Trên
cơ sở nguyên tắc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, luật này
ngoài các quy định về biện pháp tạm giữ, tạm giam thì còn đề cập đến một số
quy định về tạm tha với những nội dung ban đầu về căn cứ để áp dụng, thẩm
quyền áp dụng, đối tượng áp dụng đó là: “Trong trường hợp việc tạm giam
không cần thiết cho cuộc điều tra nữa, hoặc việc tạm tha không gây nguy
hiểm gì cho trật tự chung, thì cơ quan tư pháp hoặc toà án binh nào đã ra
lệnh tạm giam có thể tự mình, hoặc căn cứ vào đơn xin của can phạm, ra lệnh
tạm tha. Đối với những can phạm già yếu, có bệnh nặng, hoặc phụ nữ có thai
nghén, hoặc phụ nữ đang thời kỳ cho con bú, thì có thể cho tạm tha, và nếu
cần sẽ giám thị tại chỗ ở (Điều 8 Luật số 103/SL-L005) [17]. Ngày 10 tháng
7 năm 1957 Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra

19



×