Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN kinh nghiệm khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử lớp 6 phần lịch sử thế giới cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.97 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Những vấn đề về cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng
2.3.Giải pháp
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

1
2
3
3
3
3
3
3
4-5
5-19
19-20

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận

20-21



3.2. Đề xuất, kiến nghị
Tài liệu tham khảo

22

1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Dạy học là một hoạt động sáng tạo, người giáo viên với những kiến thức
về khoa học cơ bản và khoa học sư phạm cùng những kinh nghiệm tích luỹ được
1


trong thời gian dạy học của mình mà vận dụng những phương pháp dạy học phù
hợp với từng đối tượng học sinh, hoàn cảnh cụ thể, lựa chọn những con đường
và biện pháp thích hợp để thu được hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học.
Có rất nhiều con đường và biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả trong dạy
học lịch sử. Để đạt được điều đó còn phải phụ thuộc vào khả năng sư phạm và
vận dụng phương pháp dạy học hợp lí của mỗi người giáo viên.
Điều này có nghĩa là người thầy phải biết vận dụng nhuần nhuyễn, khéo
léo, sáng tạo nhiều phương pháp dạy học khác nhau để phát huy được tính tích
cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho học sinh.
Cũng như các môn học khác ở trường phổ thông, bộ môn lịch sử có nhiệm
vụ và khả năng góp phần vào mục tiêu đào tạo con người chủ nghĩa xã hội. Như
luật giáo dục năm 2005 đã xác định mục tiêu giáo dục phổ thông ở nước ta là:
“ Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khoẻ, thẩm mĩ về nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực

của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Từ yêu cầu của nghành giáo dục và của toàn xã hội trong việc đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo, với mục tiêu
là : Lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò là người điều khiển, tổ
chức hướng dẫn, gợi mở cho học sinh trong quá trình suy nghĩ, tìm ra những
kiến thức cơ bản, những đơn vị kiến thức mới của bài học, của chương trình học
và của cả khoá trình. Để có được điều đó, người thầy phải biết kết hợp, sử dụng
đa dạng các phương pháp dạy học phù hợp và linh hoạt. Từ đó tạo cơ hội cho các
em có khả năng tư duy độc lập trong quá trình học tập. Chính đây là con đường
dẫn các em tìm đến chân lý của tri thức và trên cơ sở đó học sinh biết vận dụng
kiến thức đã học vào cuộc sống của mình, nhằm nâng cao nhận thức về tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Hiện nay trong dạy học lịch sử ở trường THCS, vẫn còn một bộ phận
không nhỏ giáo viên chưa sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp trong dạy học
lịch sử, nên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình học
tập, chưa thực hiện đúng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Trong thực
tế vẫn còn giáo viên biến giờ học lịch sử thành giờ dạy chính trị, lí luận khô
khan, sáo rỗng, cứng nhắc, hoặc dạy học theo lối biên niên sự kiện, thông báo
kiến thức thiếu sinh động và không có hồn, nhiều giáo viên vẫn chưa sử dụng
thành thạo phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử. Vì vậy chất
lượng giờ dạy chưa cao, chưa lôi cuốn nhiều học sinh say mê với giờ học lịch sử.
Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và hiệu quả đào
tạo học sinh trong bộ môn lịch sử ở trường THCS. Trong quá trình dạy học, tôi
2


không ngừng học tập, nghiên cứu, tiếp thu và trao dồi kiến thức, thường xuyên
suy ngẫm sau những giờ lên lớp. Từ đó tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm trong
quá trình giảng dạy của mình, bổ sung vào phương pháp dạy học để góp phần
nâng cao chất lượng dạy học trong bộ môn lịch sử ở trường THCS. Bước sang

năm học 2015 – 2016, với tâm huyết và nhiệm vụ của mình, cùng với sự say mê
về chuyên môn, tôi quyết định nghiên cứu và chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm
giáo dục của mình với tên đề tài là:
“Kinh nghiệm khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử lớp 6
phần Lịch sử thế giới cổ đại”
1.2. Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm trên, với mục đích là nhằm nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử của người thầy khi đứng trên bục giảng, tạo nên
một giờ học lịch sử hấp dẫn, sinh động, gây hứng thú, say mê cho học sinh trong
giờ học lịch sử, là cơ sở để cho các em nhớ lâu hơn, hiểu sâu hơn về các vấn đề
lịch sử, các sự kiện lịch sử, giúp cho các em yêu thích môn lịch sử hơn.
Việc khai thác kênh hình có hiệu quả trong SGK lịch sử, còn giúp cho học
sinh hình thành kĩ năng quan sát, nhận biết và kĩ năng nói trong việc minh hoạ,
diễn thuyết nội dung của hình ảnh, lược đồ, sơ đồ… trong giờ học lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
+ Học sinh lớp 6A1 và lớp 6A2 trường THCS Nguyễn Du – Quảng Xương.
+ Tranh ảnh, lược đồ phần lịch sử thế giới cổ đại – chương trình SGK lịch sử 6.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu và làm đề tài này tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp phân tích.
+ Phương pháp tổng hợp, so sánh.
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp điều tra, đánh giá vấn đề…
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Những vấn đề về cơ sở lí luận:
Thực hiện quy chế thiết bị giáo dục, ban hành theo quyết định số
41/2000/QĐ -BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của Bộ giáo dục và Đào tạo “ Thiết bị
giáo dục phải được sử dụng có hiệu quả cao nhất, đáp ứng các yêu cầu nội dung
và phương pháp được qui định trong chương trình giáo dục” (Điều 102). Theo

quy định trên, việc sử dụng thiết bị giáo dục trong dạy học là điều hết sức cần
thiết, phải tổ chức khai thác đúng phương pháp, đem lại hiệu quả cao nhất. Đối
với bộ môn lịch sử, học tập lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra
trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khác với
bộ môn khác, lịch sử không thể trực tiếp quan sát và cũng không thể khôi phục
3


lại diễn biến của nó đã diễn ra. Nhưng lịch sử là tồn tại khách quan không thể
phán đoán “ Suy luận để biết lịch sử” . Vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của người giảng
dạy lịch sử là cho học sinh tiếp xúc những chứng cứ vật chất, những dấu vết của
quá khứ, đó là đồ dùng trực quan gồm những hình ảnh cụ thể sinh động, chính
xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm tạo ra ở học sinh những biểu tượng
về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian nhất định
về các sự kiện, hiện tượng cụ thể, qua đó hình thành các biểu tượng lịch sử.
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử - không trực tiếp quan sát sự kiện,
nên phương pháp sử dụng, khai thác kênh hình có ý nghĩa rất quan trọng. Có
nhiều cách sử dụng và khai thác kênh hình khác nhau, nhưng sử dụng như thế
nào để có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử mới là vấn đề quan
trọng.
Việc khai thác có hiệu quả kênh hình trong dạy học lịch sử sẽ nhằm tạo
cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp
quan sát tranh vẽ, hình ảnh, lược đồ, bản đồ…
Sử dụng kênh hình có hiệu quả có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh
nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh, lược đồ,
tranh vẽ được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ học sinh là hình ảnh mà
học sinh thu nhận được bằng trực quan. Khai thác tốt kênh hình trong dạy học
lịch sử, sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ
được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học
sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong

phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú học tập. Ngược lại,
nếu không sử dụng đúng mức và lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán sự
chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu và thậm chí hạn chế phát
triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh.
2.2. Thực trạng:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THCS, đặc
biệt bản thân luôn được phân công dạy lịch sử khối 6 đã nhiều năm, qua thực tế
giảng dạy và tìm hiểu, tham dò và khảo sát ở các đồng nghiệp, đồng môn trong
toàn huyện tôi thấy: Đa số các đồng chí giáo viên được phân công dạy học bộ
môn lịch sử ở các khối lớp đều thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và đã áp dụng
tốt yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học mang tính đặc trưng của bộ môn
lịch sử, đó là phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ dạy, tăng cường sử
dụng đồ dùng trực quan và lấy học sinh làm trung tâm, tạo nên một giờ học lịch
sử hấp dẫn, lôi cuốn học sinh say mê học tập bộ môn lịch sử.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên được phân công
dạy bộ môn lịch sử ở các khối lớp ở cấp THCS vẫn còn chưa tập trung tâm huyết
với nghề nghiệp và trong mỗi giờ lên lớp của mình, chưa chịu khó tìm tòi,
nghiên cứu và áp dụng đúng mức yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học
4


trong bộ môn của mình, vẫn còn giáo viên dạy chay, thầy đọc trò chép, thầy
giảng trò nghe, dạy theo phương pháp truyền đạt một chiều, học sinh thì thụ
động trong việc tiếp thu kiến thức lịch sử, vẫn còn giáo viên cho rằng giờ học
lịch sử là giờ học sự kiện, năm tháng, diễn biến của một trận đánh, đặc biệt vẫn
còn giáo viên xem nhẹ việc sử dụng và khai thác kênh hình trong SGK lịch sử,
có khai thác nhưng chỉ ở mức độ thông báo, hoặc là sử dụng mang tính hình
thức, qua loa. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho giờ dạy lịch
sử không có chất lượng tốt, tạo nên sự nhàm chán của học sinh đối với bộ môn
lịch sử.

Bên cạnh đó, kĩ năng tự khai thác kênh hình trong học tập lịch sử ở học
sinh còn rất yếu, bước vào lớp 9 mà nhiều em chưa xác định được vị trí khu vực
trên lược đồ, bản đồ, không biết dựa vào đâu để xác định chủ đề của kênh hình,
không biết cách đứng thuyết trình kênh hình trên bảng, kĩ năng quan sát, nhận
xét .... đều rất yếu.
Thái độ làm việc của học sinh với kênh hình còn hết sức bị động, quan sát
qua loa đại khái, không rèn luyện kĩ năng, nhiều em chỉ thích xem trong kênh
hình có gì đẹp, lạ hay không mà không chú ý đến chủ đề, nội dung, ý nghĩa của
kênh hình.
Từ thực trạng về một bộ phận giáo viên hiện nay chưa khai thác triệt để,
đúng mức, hoặc không khai thác kênh hình trong SGK khi dạy bộ môn lịch sử.
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 6A1 và lớp 6A2 một tiết lịch sử :
Tiết 3 – Bài 3. Xã hội nguyên thủy.
Đối với tiết học này tôi không chú trọng đến khai thác kênh hình:
Hình 3 – Cuộc sống của người nguyên thủy; Hình 4 – Săn ngựa rừng;
Hình 5 – Người tối cổ và người tinh khôn; Hình 6 – Đồ đựng bằng gốm; Hình 7
– Công cụ, đồ dùng và đồ trang sức bằng đồng, mà chỉ giới thiệu một cách khái
quát mang tính hình thức. Học sinh đóng vai trò nghe và biết được thông tin giáo
viên cung cấp và tiếp thu một cách thụ động về xã hội nguyên thủy.
Sau khi dạy xong nội dung chương trình tiết học, để củng cố kiến thức bài
học, giáo viên đưa ra câu hỏi và yêu cầu HS làm vào giấy kiểm tra, thời gian 5
phút:
Hãy quan sát hình 3, hình 4, hình 5 trang 8 và trang 9 SGK lịch sử 6 –
bài 3 – Xã hội nguyên thủy, em có nhận xét gì?
KẾT QUẢ HỌC SINH NẮM BẮT KIẾN THỨC

(Qua tiết dạy thực nghiệm khi giáo viên chưa khai thác tốt kênh hình trong SGK)

5



L

p
6A1
6A2


số
40
39

Số HS trả lời
mức độ: Giỏi
(8 – 10điểm)
SL
4
3

%
10
7.6

Số HS trả lời
mức độ: Khá
(6.5 – 7.5 điểm)
SL
19
20


%
47.5
51.3

Số HS trả lời
mức độ: T.Bình
(5 – 6.4 điểm)
SL
15
14

%
37.5
35.8

Số HS trả lời
mức độ: Yếu
(3.5 - 4.5 điểm)
SL
2
2

%
5
5.1

Số HS trả
lời mức
độ: Kém
Dưới 3.5

SL
%
0
0
0
0

2.3. Những giải pháp.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trong qúa trình giảng dạy, bản thân đã rút
ra nhiều kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là kinh nghiệm khai thác kênh hình có
hiệu quả trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Từ cơ sở lý luận và yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học, cùng với tâm huyết nghề nghiệp và sự đam mê trong
chuyên môn, tôi đã áp dụng thành công phương pháp khai thác kênh hình có hiệu
quả trong SGK lịch sử 6, phần: Lịch sử thế giới cổ đại
Để khai thác kênh hình (tranh, ảnh, lược đồ) có hiệu quả, phát huy tính
tích cực của học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu nội dung của tranh, ảnh, lược đồ,
dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Để đạt được điều đó, giáo viên phải
tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Cho học sinh quan sát kênh hình (tranh, ảnh, lược đồ…) để xác
định một cách khái quát nội dung cần khai thác. (chú ý đối với lược đồ, giáo viên
hướng dẫn cho học sinh quan sát cả ranh giới và các ký hiệu bản đồ).
Bước 2: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nội dung kênh hình (tranh, ảnh, lược đồ).
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh, ảnh, lược đồ
sau khi đã quan sát, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài
học.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của học sinh, hoàn thiện
nội dung khai thác kênh hình (tranh, ảnh, lược đồ) gắn liền với nội dung của bài
học.
Kinh nghiệm khai thác sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học đối

với phần: Lịch sử thế giới cổ đại – chương trình SGK Lịch sử 6.
Giáo viên sẽ trình bày kinh nghiệm khai thác kênh hình phần lịch sử thế
giới cổ đại từ bài 3 đến bài 6 – SGK lịch sử lớp 6 – NXB Giáo Dục 2014:
Tiết 3 - Bài 3: Xã hội nguyên thủy.
Bài này có 5 kênh hình:
- Hình 3 : Cuộc sống của người nguyên thủy:
- Hình 4: Săn ngựa rừng.
- Hình 5: Người tối cổ và người tinh khôn.
- Hình 6: Đồ đựng bằng gốm (khoảng 3000 năm TCN).
- Hình 7: Công cụ, đồ dùng và đồ trang sức bằng đồng.

6


Khi dạy bài này giáo viên tiến hành khai thác nội dung kiến thức
của từng hình ảnh:
Hình 3: Cuộc sống của người nguyên thủy.

Nội dung của bức tranh: Do trình độ thấp kém, công cụ lao động thô sơ,
lại sống trong điều kiện thiên nhiên hoang dã, người nguyên thủy không thể sống
lẻ loi mà học đã biết tập hợp lại với nhau, quây quần theo quan hệ ruột thịt, cùng
dòng máu. Tổ chức đó gọi là “Bầy người nguyên thủy”. Họ cùng lao động, cùng
kiếm thức ăn và cùng chống thú dữ để tự vệ.
Trong xã hội nguyên thủy, con người đã biết chế tạo công cụ lao động thô
sơ với kĩ thuật ghè đẽo đá. Họ cũng biết giữ lửa tự nhiên, biết dùng lửa để sưởi
ấm và nướng chín thức ăn. Về sau, họ biết tạo ra lửa bằng cách xát mạnh hai
cành cây khô hay hai hòn đá lửa vào nhau.
Bức tranh cuộc sống của người nguyên thủy thể hiện tương đối rõ những
điều nêu trên. Đây là bầy người đang quây quần trong một hang đá tự nhiên khi
đêm về. Việc sử dụng da thú để mặc, chứng tỏ nghề săn bắt của họ khá phát

triển.
Hình 4: Săn ngựa rừng.
Nội dung của bức tranh: Trong buổi ban đầu sơ khai của xã hội nguyên
thủy, để săn thú, con người phải dùng sức mạnh tập thể (từ 20-30 người) dồn con
vật vào các bẫy đặt ở các khe núi hay những hố đất tự nhiên hoặc các hố đất do
con người đào.
Cảnh săn ngựa cho thấy cách thức tiến hành săn bắt thú của con người
cũng như các vũ khí mà họ sử dụng như mũi lao, mũi giáo. Đó là những vũ khí
chủ yếu, đã dần dần thay thế những hòn đá cuội, những mảnh đá ghè đẽo hoặc
7


những cành cây trước đây. Với ưu thế sắc hơn, nhọn hơn, nhẹ hơn, phóng đi xa
hơn, mũi lao, mũi giáo cho phép con người nguyên thủy bắt được nhiều thú hơn
và an toàn hơn. Vì thế trong xã hội nguyên thủy mặc dù cuộc sống còn bấp bênh,
ăn lông ở lỗ nhưng đã bước đầu thể hiện việc con người chế ngự được thiên
nhiên, làm chủ được cuộc sống của mình.

Kinh nghiệm khai thác và sử dụng:
Hai bức tranh: Cuộc sống của người nguyên thủy và săn ngựa rừng được
sử dụng khi giảng dạy mục 1 – Con người đã xuất hiện như thế nào?
Để khai thác hiệu quả nội dung hai kênh hình này, trước hết giáo viên yêu
cầu học sinh quan sát hai bức tranh kết hợp với đọc phần kênh chữ SGK. Sau đó,
giáo viên tổ chức cho các em khai thác nội dung bằng hệ thống câu hỏi gợi mở
như:
- Con người thời nguyên thủy thường sống ở đâu? Vì sao họ lại phải sống
trong những điều kiện như vậy?
- Hình ảnh một số người ôm bó củi ở trong tranh nói lên điều gì? Họ đã có
quần áo để mặc chưa?
- Cảnh săn ngựa rừng nói lên điều gì? (về phương tiện săn bắt, số lượng

người đi săn và hiệu quả của việc săn ngựa).
- Qua hai bức tranh trên, các em hãy nêu nhận xét của mình về đời sống
của người nguyên thủy?
Sau khi trả lời và nêu nhận xét, GV tiến hành miêu tả kết hợp với phân
tích khái quát, ngắn gọn để làm rõ cuộc sống bấp bênh của người nguyên thủy.
Hình 5: Người tối cổ và người tinh khôn.

8


Nội dung của bức tranh:
- Người tối cổ đã có sự phân biệt chức năng của hai chi trước và hai
chi sau. Hai chi trước cầm nắm công cụ lao động và hai chi sau để đi. Họ đã
thường xuyên ở tư thế đứng thẳng khi di chuyển. Người tối cổ có sọ dẹt, u trán
nổi và dung tích hộp sọ từ 850 cm 3 đến 1100 cm3. Khả năng sáng tạo trong lao
động và tư duy ngôn ngữ chưa cao. Trên cơ thể của người tối cổ còn mang nhiều
dấu vết của người vượn cổ.
- Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể giống như con người ngày nay. Họ
sống cách nay khoảng 4 vạn năm. Các bộ phận của cơ thể đã hoàn chỉnh hơn: hai
bàn tay nhỏ khéo léo, các ngón tay đặc biệt là ngón tay cái linh hoạt hơn, có thể
phối hợp làm việc với bất kỳ ngón tay nào của bàn tay, trong khi loài vật không
thể làm được điều đó.
Người tinh khôn có trán cao và thẳng, xương hàm nhỏ và không nhô ra
phía trước, hộp sọ và thể tích não đặc biệt phát triển, đạt 1450 cm 3. Cơ thể gọn
và thẳng, tạo nên tư thế thích hợp với các hoạt động phức tạp của con người.
Trong bức tranh ta thấy người tinh khôn vác trên vai một cây lao dài, sắc và
nhọn, điều đó chứng tỏ rằng họ đã biết chế tạo ra những công cụ tinh vi hơn, dựa
trên những nguyên liệu đa dạng hơn, có hiệu quả sử dụng cao hơn đồ đá. Đó là
gỗ và kim loại.
Kinh nghiệm khai thác và sử dụng:

Bức tranh người tối cổ và người tinh khôn được sử dụng khi giảng dạy
mục 2 – Người tinh khôn sống như thế nào?
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát toàn cảnh bức tranh, kết
hợp đọc SGK. Sau đó, giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở như sau:
- Người tinh khôn và người tối cổ có những điê,r gì giống và khác nhau
(về hình thức bên ngoài và tư duy beeb trong)?

9


- Thể tích não của người tối cổ từ 850 cm3 đến 1100 cm3, người tinh khôn
là1450 cm3. Con số đó nói lên điều gì?
- Hình ảnh người tinh khôn vác cây lao dài trên vai nói lên điều gì? Vai trò
của nó đối với đời sống kinh tế của con người thời nguyên thủy như thế nào?
- Đời sống kinh tế và xã hội của người nguyên thủy có những đặc điểm gì?
Nêu nhận xét?
Sau khi học sinh trả lời và nhận xét, giáo viên tiến hành miêu tả khái quát
có phân tích để toát lên quá trình chuyển biến từ người tối cổ thành người tinh
khôn.
Hình 6: Đồ đựng bằng gốm (khoảng 3000 năm TCN).
Nội dung của bức ảnh:
Nhìn vào bức ảnh ta có thể
đoán định được niên đại của đồ gốm
này khoảng 3000 năm TCN. Nó đã
được làm bằng bàn xoay, kiểu dáng
đẹp, độ nung cao, chất liệu mịn. Đồ
gốm này có lẽ dùng để làm đồ đựng,
có tai để buộc dây treo lên, đồng thời
cũng làm trang trí cho sản phẩm
thêm đẹp hơn.

Hình 7: Công cụ, đồ dùng và đồ trang sức bằng đồng.

Nội dung của bức ảnh: nhìn vào bức tranh ta thấy, đây là những công cụ
lao động như dao đồng, búa, lưỡi liềm đồng, mũi lao đồng, mũi tên đồng, âu
đồng và vòng đeo cổ, đeo tay bằng đồng…qua những công cụ này cho ta thấy
việc sử dụng đồ đồng là rất phổ biến. Những vật dụng và đồ dùng này có hình

10


dáng rất với vật dụng có cùng tên ngày nay. Điều đó kĩ thuật đúc đồng đã đạt đến
trình độ khá tinh xảo, thể hiện rõ nét trong sự đa dạng về loại hình cũng như việc
làm đồ trang sức với các gờ nổi, mũi lao có phần tra cán…
Kinh nghiệm khai thác và sử dụng:
Hai bức ảnh Hình 6 và hình 7 được sử dụng khi giảng dạy mục 3 – Vì sao
xã hội nguyên thủy tan rã?
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát toàn cảnh bức tranh, kết
hợp đọc SGK. Sau đó, giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi ,ở để học sinh khai thác
nội dung như:
- Hình ảnh đồ đựng bằng gốm, công cụ, đồ dùng và đồ trang sức bằng
đồng phản ánh nghành kinh tế nào phát triển thời kì này? Trình độ phát triển của
nó ra sao?
- Con người chế tạo ra đồ gốm để làm gì? Vai trò của đồ gốm đối với cuộc
sống của người nguyên thủy?
- Việc con người phát hiện và sử dụng công cụ lao động bằng kim loại đã
dẫn tới kết quả gì?
- Đồ trang sức bằng đồng nói lên điều gì?
Sau khi học sinh trả lời và nhận xét, giáo viên tiến hành miêu tả khái quát
có phân tích nội dung hai hình trên.
Tiết 4- Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương Đông.

Bài này có 2 kênh hình:
- Hình 8: Tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV TCN

Nội dung của bức ảnh: Từ việc đọc và phân tích bức tranh khắc đá này,
kết hợp với những bức tranh khác, các nhà khao học khẳng định: ở thế kỉ XIV
11


TCN, kĩ thuật làm ruộng của người Ai Cập đã đạt đến trình độ cao. Vì vậy năng
suất lao động tăng lên và đại bộ phân dân cơ tham gia hoạt động sản xuất nông
nghiệp – nền kinh tế chủ đạo của cư dân Ai Cập cổ đại nói riêng và cơ dân
phương Đông nói chung.
Kinh nghiệm khai thác và sử dụng: Tranh khắc trên tường đá một lăng
mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV TCN được sử dụng khi giảng dạy mục 1 – Các quốc gia
cổ đại phương Đông đã được hình thành ở đâu và từ bao giờ?
Trước hết giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh, đồng thời giới thiệu
cho học sinh thấy những hình ảnh khắc trên tường đá lăng mộ không chỉ khẳng
định giá trị về mặt văn hóa mà còn là một nguồn tư liệu quý giá, giúp chúng ta
khôi phục lại lịch sử thế giới cổ đại. Giáo viên tiến hành miêu tả kết hợp với
phân tích khái quát để học sinh thấy được đây là bức tranh miêu tả tiến trình sản
xuất nông nghiệp của cơ dân Ai Cập thời cổ đại.
Cuối cùng giáo viên phát vấn học sinh một số câu hỏi để học sinh rút ra
kết luận như:
- Những hình ảnh khắc trên bia mộ phản ánh điều gì?
- Tại sao kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước lại phát triển ở các quốc gia
cổ đại phương Đông?
- Những thuận lợi và khó khăn của con người khi sinh sống ở lưu vực các
con sông?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên tóm tắt và kết luận.
Hình 9: Bia đá khắc luật Ham-mu-ra-bi (Lưỡng Hà).

Đây là cái cột tròn bằng đá lửa, cao
gần 2m được các nhà khoa học xác
định là bia đá khắc bộ luật của vua
Ham-mu-ra-bi trị vì ở Ba-bi-lon từ
năm 1792 đến năm1750. Bia được
chia thành hai phần rõ rệt: Phần trên
là hình trạm nổi khắc hình vua Hammu-ra-bi. Phần dưới của bia chia làm
nhiều ô khắc những điều luật do vua
Ham-mu-ra-bi đặt ra cho ba-bi-lon.
Hiện nay bia khắc bộ luật Ham-mura-bi được trưng bày trong bảo tàng
Lu-vơ-rơ (Pháp).
Kinh nghiệm sử dụng và khai thác:

12


Bức ảnh Bia đá khắc luật Ham-mu-ra-bi được sử dụng khi dạy mục 2 - xã
hội cổ đại phương Đông bao gồm những tầng lớp nào?
Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh bia đá khắc luật
Ham-mu-ra-bi trong SGK. Sau đó giáo viên giới thiệu đôi nét về bộ luật này.
Để học sinh thấy được giá trị của bộ luật Ham-mu-ra-bi, GV yêu cầu một
học sinh đọc đoạn chữ nhỏ in nghiêng trong SGK và trả lời câu hỏi gợi mở như:
- Qua hai bộ luật trên, theo em người cày thuê ruộng phải làm việc như thế
nào?
- Những ưu điểm của bộ luật này là gì?
- Bộ luật Ham-mu-ra-bi đã khẳng định quyền hành của nhà vua như thế
nào?
Sau khi HS trả lời, GV miêu tả, phân tích và kết luận.
Tiết 5 - bài 5: Các quốc gia cổ đại phương Tây.
Dạy bài này giáo viên tiến hành khai thác và sử dụng kênh hình:

Hình 10: lược đồ các quốc gia cổ đại.

Nội dung cần khai thác: Các quốc gia cổ đại phương Đông cổ đại đầu
tiên xuất hiện ở lưu vực những con sông lớn ở châu Á và châu Phi như sông
Nin ở Ai Cập, sông Ti-gơ-rơ và Ơ-phơ-rát ở Lưỡng Hà, sông Ấn và sông Hằng
ở Ấn Độ… Mặc dù thuộc hai khu vực có đặc điểm địa lí khác nhau châu Á và
châu Phi, nhưng các nhà nước cổ đại ra đời ở lưu vực các con sông này đều có
niên đại xuất hiện gần nhau.
Các quốc gia cổ đại phương Tây là thuật ngữ chỉ các quốc gia cổ đại Kinh nghiệm khai thác và sử dụng: Lược
đồ các quốc gia cổ đại được

nằm ven biển Bắc Địa Trung Hải (khu vực Nam Âu) ra đời vào đầu thiên niên sử dụng khi
dạy về sự hình thành của các quốc gia cổ đại phương Đông và kỉ I TCN. Đó là hai quốc gia Hi
Lạp và La Mã (Rô ma). Hai quốc gia này gồm phương Tây.

nhiều bán đảo và nhiều đảo nhỏ khác nhau trên biển Địa Trung Hải.

13


Trước khi khai thác nội dung lược đồ, giáo viên giải thích các kí hiệu trên
lược đồ, đặc biệt là ranh giới giữa các quốc gia. Sau đó giáo viên đưa ra
Các câu hỏi để học sinh trả lời (yêu cầu 1 học sinh lên bảng chỉ lãnh thổ của các
quốc gia và so sánh với lãnh thổ hiện nay). Các câu hỏi gợi mở như sau:
- Các quốc gia cổ đại phương Đông được ra đời ở khu vực nào?
- Quá trình hình thành các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ
đại phương Tây có điểm gì giống và khác nhau?
- Em có nhận xét gì về phạm vi lãnh thổ của các quốc gia cổ đại phương
Đông với lãnh thổ hiện nay?
- Các quốc gia cổ đại Hy Lạp và Rô-ma ra đời ở khu vực nào? Điều kiện tự

nhiên có đặc điểm gì? Có gì khác với các quốc gia cổ đại phương Đông?
Sau khi học sinh lên bảng trình bày, hoặc có thể làm việc theo nhóm, rồi lần
lượt lên bảng trình bày. Giáo viên kết luận lại như nội dung trên.
Tiết 6 - Bài 6: Văn hóa cổ đại.
Hình 11 - Chữ tượng hình Ai Cập (khắc trên tường lăng mộ vua Ram-xét VI)

Nội dung khai thác:
Trong ảnh, nhìn vào ta thấy như một bức họa tổng hợp nhiều hình vẽ, được
sắp xếp theo thứ tự nhất định để gợi lên cho người đọc một sự vật nhất định nào
đó. Người Ai Cập viết chủ yếu trên giấy Pa-pi-rút. Ngoài ra họ còn khắc chữ trên
đá, trên tường của các lăng mộ hoặc các công trình kiến trúc khác. Những kí hiệu
tượng hình để biểu đạt một từ, một khái niệm, dần đần được dùng để biểu đạt âm
14


tiết. Từ đó người Ai Cập sáng tạo ra hệ thống mẫu tự với hình và kí hiệu tượng
âm.
Kinh nghiệm sử dụng: Chữ tượng hình Ai cập (khắc trên lăng mộ vua
Ram-xét VI) được sử dụng khi dạy mục 1 - Các dân tộc phương Đông thời cổ đại
đã có những thành tựu văn hóa gì?
Sau khi miêu tả khái quát có phân tích, GV hỏi học sinh:
- Theo các em, cơ dân cổ đại phương Đông sáng tạo ra chữ viết có ý nghĩa
gì?
- Tại sao nói, sáng tạo ra chữ viết là thành tựu có ý nghĩa quan trọng
nhất? Cuối cùng, giáo viên tóm tắt và kết luận.
Hình 12: Kim tự tháp Ai Cập.

Nội dung khai thác: Đây là công trình vĩ đại của người Ai Cập cổ đại. Để
có những tảng đá này, người ta phải lấy đá cứng ở núi, mài thành những phiến đá
nhẵn rồi chuyên chở qua sông Nin, qua sa mạc, kéo lên cao xếp thành hình tháp.

Việc xây dựng các kim tự tháp vào thời điểm cách chúng ta từ 5000 đến 6000
năm, trong điều kiện kĩ thuật hết sức thô sơ đã cho thấy sự vĩ đại về sức sáng tạo
của cư dân Ai Cập cổ đại. Để xây dựng các kim tự tháp, hàng chục vạn nô lệ đã
chết ở đây.
Hình 13 - Thành Ba-bi-lon với cổng đến I-sơ-ta.

15


Nội dung khai thác: Thành Ba-bi-lon có tên trên bản đồ thế giới cổ đại vào
khoảng nửa sau thế kỉ III TCN và được xem như một biểu tượng sáng chói của
nền văn minh thời cổ đại. Khi vua Na-bu-cô-đô-nô-rô lên ngôi đã tiến hành xây
dựng lại thành phố, đến đài, cung điện, vườn treo, đường rước và đặc biệt là
cổng đền I-sơ-ta.
Thành Ba-bi-lon có mặt bằng hình chữ nhật với chu vi 13 km, được bao bọc
bởi hào nước sâu. Ngoài 9 cửa chình trên tường thành ngoại. thành Ba-bi-lon còn
có 250 tháp canh và 100 cửa đồng ở bêb trong - nơi trao đổi mua bán và đi lại.
Cổng đền I-sơ-ta nằm ở phí bắc của thành nội cao 12m, được xây bằng những
viên gạch lưu li mầu với những chạm khắc nổi hình thú vật như bò rừng, rồng…
Kinh nghiệm khai thác và sử dụng kênh hình:
Hình ảnh Kim tự tháp Ai Cập và thành Ba-bi-lon với cổng đền I-sơ-ta được
sử dụng khi giảng dạy mục: 1 - Các dân tộc phương Đông thời cổ đại đã có
những thành tựu văn hóa gì?
Trước hết, giáo viên yêu cầu HS quan sát toàn cảnh bức ảnh kim tự tháp Ai
Cập và thành Ba-bi-lon với cổng đền I-sơ-ta. Sau đó giáo viên tập trung vào
miêu tả kết hợp với phân tích Kim tự tháp và thành Ba-bi-lon. Trong quá trình
miêu tả giáo viên có thể đặt một số câu hỏi để học sinh suy nghỉ trả lời:
- Kim tự tháp được xây dựng để làm gì và bằng nguyên liệu gì?
- Sự vĩ đại của Kim tự tháp được thể hiện như thế nào? (về quy mô, xây
dựng, mài đá, tính toán…).

- Em có nhận xét gì về Kim tự tháp?
- Thành Ba-bi lon được xây dựng ở đâu?
- Các em biết gì về vườn treo Ba-bi-lon?

16


Sau khi học sinh trả lời, giáo viên miêu tả và nhấn mạnh giá trị văn hóa của
các công trình kiến trúc trên đối với lịch sử văn minh nhân loại.
Hình 14 - Bình gồm Hy Lạp
Đây là chiếc bình gốm Hi Lạp,
được làm từ thế kỉ V TCN. Trên
nền men, người ta vẽ tranh mô tả
những câu chuyện truyền thuyết,
thần thoại, những cảnh sinh hoạt
đời thường của người Hi Lạp.
Bình có hình dáng hài hòa, cân
xứng, thân phình rộng, cổ eo thắt
lại, miệng và đáy tròn có đường
gờ nổi rõ, hai bên có hai quai
dùng để cầm, đồng thời cũng để
trang trí.

Hình 15 - Đền Pác-tê-nông (Hi Lạp)

17


Nội dung: Đền Pác-tê-nông là kiệt tác của kiến trúc đền thờ cổ đại hy Lạp.
Đền được khởi công xây dựng năm 447 đến năm 432 TCN thì hoàn thành. Đền

có chiều dài 70m, rộng 31m và cao khoảng 14m. Đên Pác-tê-nông có 3 bậc,
đứng từ xa có thể trông thấy toàn bộ ngôi đền. Nếu đi sâu nghien cứu từng chi
tiết, người ta càng ngạc nhiên và vô cùng thán phục sự sáng tạo của người thiết
kế đền Pác-tê-nông. Những bức phù điêu tuyệt vời do Phi-đi-át sáng tạo và học
trò của ông thể hiện đã mô tả sự xuất hiện của nữ thần, như những bức tranh thêu
kì ảo, lộng lẫy, làm cho ngôi đền trở thành một trong những công trình kiến trúc
có sự kết hợp hài hòa với thiên nhiên. Giữa biển Địa Trung Hải và bầu trời xanh
bao la, ngôi đền làm bằng đá cẩm thạch trắng nổi lên như một kì quan tuyệt mĩ.
Đây cũng là một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại.
Hình 16 - Khải hoàn môn ở kinh thành Rô-ma

Nội dung khai thác: Khải hoàn môn là một công trình kiến trúc được xây
dựng làm biểu tượng vinh quang cho những chiến thắng lớn trong chiến tranh
hoặc công lao đặc biệt xuất sắc của một vị tướng nào đó. Việc xây dựng Khải
hoàn môn phải được Viện nguyên lão phê duyệt. Vì vậy, trong thời kì đế chế Rôma, chỉ có các hoàng đế, các vị tưởng giỏi mới được vinh dự xây dựng Khải
hoàn môn. Trong lịch sử Rô-ma, người ta đã xây dựng gần 350 Khải hoàn môn
như thế. Mỗi khải hoàn môn là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của
Rô-ma cổ đại.
18


Hình 17- Tượng lực sĩ ném đĩa.
Đây là tác phẩm đầu tiên của
nghệ thuật kiến trúc diễn tả sức
mạnh kết hợp với cái đẹp. Cơ tay,
cơ chân lực sĩ ném đĩa được miêu
tả rất sống động và đúng như thật.
Theo truyền thuyết, Mi-rông
không chỉ là nghệ sĩ thiên tài mà
còn là một nhà thơ…Do đó, trong

bức tượng lực sĩ ném đĩa, vừa có
quan niệm thẩm mĩ vừa có hình
ảnh thức của đời thường. Mặt
khác, với tượng lực sĩ ném đĩa,
Mi-rông đã tách ra khỏi đề tài
thần thánh, đề cao giá trị con
người, đề cao cuộc sống.
Kinh nghiệm khai thác và sử dụng kênh hình Hình:14-15-16-17.
Bình gồm Hi Lạp, Đền Pác-tê-nông, Khải hoàn môn và tượng lực sĩ ném
đĩa được sử dụng khi giảng dạy mục 2 - người Hi Lạp và Rô-ma đã có những
đóng góp gì về văn hóa?
Các kênh hình này chủ yếu mang tính chất minh họa, để khẳng định những
thành tựu văn hóa to lớn mà dân Hi Lạp và Rô-ma cổ đại đã cống hiến cho nhân
loại. Sau khi miêu tả, nếu có thời gian và tùy từng điều kiện cụ thể mà giáo viên
có thể sử dụng một số câu hỏi để các em rút ra nhận xét như sau:
- Các công trình kiến trúc và điêu khắc trên nói lên điều gì? - Nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc Hi Lạp và Rô-ma có đặc điểm gì khác với kiến trúc điêu
khắc phương Đông cổ đại?
Các thành tựu văn hóa thời cổ đại phản ánh điều gì? Em có nhận xét gì?
Cuối cùng, giáo viên so sánh và rút ra nhận xét, kết luận.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Sau khi áp dụng kinh nghiệm khai thác kênh hình có hiệu quả trong phần
lịch sử thế giới ở chương trình lịch sử lớp 6 trong qúa trình dạy học từ bài 3 đến
bài 6 (SGK Lịch sử 6) GV đã tiến hành khảo sát bằng phiếu học tập qua một câu
hỏi được khảo sát tại lớp 6A1 và lớp 6A2 trong năm học 2015 – 2016. (Câu hỏi
này cũng đã được khảo sát ở lớp 6A1 và lớp 6A2 khi chưa vận dụng kinh nghiệm
khai thác kênh hình trong giảng dạy đã được thống kê trong phần hai, ở mục

19



thực trạng để có số liệu so sánh với kết quả sau khi áp dụng đề tài này trong dạy
học).
Để đối chiếu với kết quả sau khi áp dụng kinh nghiệm khai thác kênh hình
có hiệu qủa, tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 6A1 và lớp 6A2 một tiết lịch
sử lớp 6 :tiết 3 . Bài 3 – Xã hội nguyên thủy.
Sau khi dạy xong, giáo viên đưa ra câu hỏi và yêu cầu HS làm vào giấy,
thời gian 5 phút:
Hãy quan sát hình 3, hình 4, hình 5 trang 8 và trang 9 SGK lịch sử 6 –
bài 3 – Xã hội nguyên thủy, em có nhận xét gì?
- Kết quả sau khi khảo sát:
KẾT QUẢ HỌC SINH NẮM BẮT KIẾN THỨC LỊCH SỬ SAU KHI GIÁO VIÊN ÁP
DỤNG KINH NGHIỆM KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC

L

p


số

6A1 40
6A2 39

Số HS trả
Số HS trả lời
lời mức độ:
mức độ:
Giỏi
Khá


Số HS trả lời
mức độ:
T.Bình

Số HS trả lời
mức độ:
Yếu

(8 – 10 điểm) (6.5 – 7.5 điểm)

(5 – 6.4 điểm)

(3.5 - 4.5 điểm)

Số HS
trả lời
mức độ:
Kém
Dưới 3.5

S
L
13
12

%

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

32.5
30.8

22
21

55
53.8

5
6

12.5
15.4

0

0

0
0

0
0

0
0

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận: kinh nghiệm khai thác kênh hình có hiệu quả trong dạy học lịch
sử không ngoài mục đích là tổ chức cho học sinh lĩnh hội một vốn kiến thức lịch
sử, về bức tranh sinh động điển hình về một sự kiện, một hiện tượng lịch sử, một
thời kỳ lịch sử. Để sử dụng tốt phương pháp này ngoài kiến thức lịch sử sâu,
rộng, đòi hỏi người thầy phải có tâm huyết với nghề và phải sử dụng phương
pháp dạy học một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn và khoa học.
Việc khai thác nội dung kênh hình có hiệu quả trong dạy học lịch sử có ý
nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là cung cấp cho học sinh vốn kiến thức lịch sử,
địa lý… mà còn có tác dụng giáo dục tư tưởng, tính cách và phát triển tư duy cho
học sinh. Từ việc quan sát, HS sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Bản
thân tranh ảnh, lược đồ không thể gây ra sự quan sát tích cực của học sinh nếu
như các em không được quan sát trong nhứng tình huống có vấn đề, trong những
nhu cầu cần thiết phải trả lời một vấn đề cụ thể. Như vậy tư duy của HS sẽ dần
dần phát triển trong những tình huống có vấn đề. Mặt khác thông qua quan sát,
miêu tả tranh ảnh, lược đồ, HS được rèn luyện kĩ năng diễn đạt, lựa chọn ngôn
ngữ, từ đó khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú, trong
sáng. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử, giáo viên luyện cho
20



học sinh khả năng quan sát các vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích,
giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử. Nhờ những
việc làm thường xuyên như vậy, mà thao tác tư duy được rèn luyện, khả năng
phát huy trí thông minh sáng tạo của học sinh ngày càng được nâng lên.
3.2. Đề xuất, kiến nghị:
Để áp dụng kinh nghiệm khai thác kênh hình có hiệu quả trong dạy học
lịch sử một cách phổ biến trong quá trình giảng dạy, tôi có những đề xuất và kiến
nghị như sau:
Hằng năm Phòng giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo nên tổ chức
các buổi thảo luận và trao đổi kinh nghiệm về việc khai thác kênh hình trong dạy
học lịch sử ở cấp THCS, sau đó sẽ áp dụng một số tiết dạy thực nghiệm có vận
dụng phương pháp khai thác kênh hình lịch sử trong dạy học. Qua đó sẽ góp
phần bồi dưỡng thêm kinh nghiệm và phương pháp khai thác kênh hình có hiệu
quả nhất trong quá trình dạy học.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là do bản thân lựa chọn và tự nghiên cứu, rút
kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, không sao chép nội dung sáng kiến của
người khác, nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của Ban Giám Hiệu nhà trường
HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 12/4/2016

Người thực hiện
Nguyễn Xuân Trà


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp luận sử học – GS Phan Ngọc Liên chủ biên – NXB GD năm
2001.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III (2004 - 2007),
môn lịch sử - Bộ GD&ĐT – Vụ Giáo dục trung học – quyển 1 và quyển II.
3. Những vấn đề chung đổi mới giáo dục THCS môn lịch sử - NXB giáo dục
năm 2007.
4. Phát huy tính tích cực của HS trong dạy học lịch sử ở THCS – Bộ
GD&ĐT- NXB GD 1999.
5. SGK lịch sử 6 – Bộ GD&ĐT – NXB GD năm 2012.
6. sSGV lịch sử 6 – Bộ GD&ĐT – NXB GD năm 2012.
7. Phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị chủ biên –
NXB giáo dục năm 1998.
8. http: violet.vn. (thư viện trực tuyến violet).
9. Tư liệu lịch sử 6 – NXB Giáo Dục.

22



×