Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm khắc phục khó khăn trong dạy học lịch sử ở lớp 8, 9 tại trường THCS quảng hưng TP thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.71 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC KHÓ
KHĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở LỚP 8, 9 TẠI
TRƯỜNG THCS QUẢNG HƯNG - TP THANH HÓA

Người thực hiện : Hoàng Thị Vinh
Chức vụ

: Giáo viên

Đơn vị công tác : Trường THCS Quảng Hưng
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử


THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................... 1
1.1. Lí do chọn đề tài:................................................................................................................................. 1
1.2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................................................ 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................................................ 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................. 2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:........................................................................... 3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:............................................................................... 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...................................... 3


2.3. Giải pháp thực hiện:........................................................................................................................... 4
2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và
nhà trường...................................................................................................................................................... 14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................................................ 15
3.1. Kết luận.................................................................................................................................................. 15
3.2. Kiến nghị............................................................................................................................................... 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................... 17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trên thế giới, ở nhiều quốc gia, việc dạy học lịch sử vốn được coi trọng từ
lâu. Ở thời cổ đại, các nhà sử học đã xem “Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”.
Đại hội của hội đồng quốc tế các nhà khoa học lịch sử (năm 1980) đã khẳng
định: “Muốn đào tạo con người phù hợp với thời đại của chúng ta cần phải
không ngừng cải tiến chất lượng dạ học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học kí
thuậ, sự hứng thú hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm
bới sự chú ý của chúng ta đối với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng
chứng hiển nhiên về sự toàn thắng trong công cuộc xây dựng sáng tạo đối với
sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối với chiến tranh, sự gần gũi hiểu biết
của các dân tộc về văn hóa và các mặt khác, khắc phục tình trạng biệt lập”.
Dân tộc Việt Nam không chỉ có lịch sử lâu đời mà còn có nhiều kinh
nghiệm trong giáo dục lịch sử truyền thống cho thế hệ trẻ. Năm 1941, khi về Pắc
Pó trực tiếp lãnh đạo nước ta, Nguyễn Ái Quốc đã biên soạn quyển “Lịch sử
nước ta” mở đầu bằng hai câu thơ:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Theo Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà Nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế

hoạch phát triển kinh tế- kế hoạch. Chính vì lẽ đó, đòi hỏi cấp bách phải đổi mới
phương pháp dạy học trong đó có việc dạy và học môn Lịch sử.
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở các trường học hiện nay là nhằm góp
phần vào việc đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Trong quá trình
hội nhập, môn Lịch sử đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi trọng để giúp
thế hệ trẻ hình thành nhân cách, bản lĩnh con người, để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Nhưng thực trạng việc dạy và học Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đang ở
mức “báo động đỏ”, kiến thức của học sinh về môn Lịch sử quá kém, dư luận xã
hội đang rất quan tâm vấn đề này.
Nhiều học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ
phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên lớp
các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật lịch sử.... còn yếu.
Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách
giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc
nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi.
Học sinh chỉ có trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày),
còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh...thì học sinh còn rất
lúng túng khi trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung.
Ngoài ra, phương pháp truyền thụ môn Lịch sử còn mang tính chất truyền
thống theo kiểu giáo viên hỏi, học sinh trả lời. Chính vì vậy làm cho không khí
giờ học nhàm chán, không gây được hứng thú cho học sinh. Thêm vào đó việc
1


giảng dạy lịch sử còn mang nặng tính ghi nhớ máy móc các sự kiện Lịch sử như
thời gian, diễn biến, các số liệu...điều đó đã làm cho học sinh không yêu thích
môn học vì khó ghi nhớ, hay quên.
Bản thân rất yêu môn Lịch sử và là giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử
nhiều năm, rút ra từ thực tế giảng dạy tại trường Trung học cơ sở Quảng Hưng,

trước những khó khăn trên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp
nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8,9 tại trường
THCS Quảng Hưng- TP Thanh Hóa ” là góp phần thêm về việc nâng cao dạy
và học bộ môn Lịch sử.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Sử dụng một số biện pháp để khắc phục những khó khăn trong dạy học
lịch sử giúp cho giáo viên và học sinh có những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả trong giảng dạy và học tập môn Lịch sử.
Để làm được, mỗi tiết học giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh học một
cách khoa học, trình tự, lôgíc theo đặc thù bộ môn. Phát huy cao độ tính sáng
tạo cho học sinh, góp phần hình thành và rèn luyện cho học sinh cách tư duy,
làm việc khoa học, cũng như góp phần giáo dục học sinh có ý thức, thái độ,
trách nhiệm đối với cuộc sống, gia đình, xã hội và môi trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng là học sinh lớp 8, lớp 9 Trường THCS Quảng Hưng - Thành
phố Thanh hóa - Tỉnh Thanh Hóa trong 2 năm học 2016 - 2017 và 2017 - 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Tham khảo tài liệu về một số bài soạn mẫu trong quyển một số vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học cơ sở
- Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp dạy của đồng nghiệp thông
qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp.
- Điều tra khảo sát kết quả học tập của học sinh.
- Thực nghiệm dạy ở lớp 8,9.
- Đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi dạy thực nghiệm.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:

Một giờ dạy tốt đó là cái đích phấn đấu của mỗi giáo viên ở trường phổ
th«ng. Và cho đến nay, không một giáo viên nào bước lên bục giảng lại không
mong muốn giờ học đạt hiệu quả cao, lại không mong muốn trở thành một giáo
viên dạy giỏi. Vậy thế nào là một giờ học tốt, làm thế nào để trở thành một giáo
viên dạy giỏi? Vấn đề này tưởng chừng như đơn giản song để giải quyết nó phải
có nhiều công trình khoa học, nhiều hội thảo và phải phấn đấu nỗ lực của mỗi
người.
Đai- ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói: Dạy Lịch sử cũng như bất
cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải
là bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại.
Như vậy mục đích của việc dạy học Lịch sử ở trường là người giáo viên
không chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của quá khứ biết và
ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của Lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu được lịch
sử tức là phải nắm được bản chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học
sinh việc sử dụng các thao tác lô gic có ý nghĩa rất quan trọng.
Dạy học Lịch sử là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động của
giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm giúp học sinh nắm vững tri
thức lịch sử, giáo dục tư tưởng, tình cảm phát triển năng lực tư duy giáo viên
học sinh, nội dung giảng dạy và phương pháp dạy học là những nhân tố cơ bản
của quá trình dạy học. Mối liên hệ tác động qua lại giữa các nhân tố cơ bản đó
tạo thành một hệ thống dạy và học hoàn chỉnh.Nói đến dạy học là nói đến nhận
thức của học sinh diễn ra dưới sự lãnh đạo của thầy. Trong dạy học, sự chỉ đạo
của giáo viên và vai trò chủ thể của học sinh là sự thống nhất biện chứng. Học là
học dưới sự điều khiển hướng dẫn có tổ chức của giáo viên và dạy học là dạy để
mà học. Đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất của dạy và học, của giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học. Do đó,tôi xin trình bày một khía cạnh là
“Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong dạy học Lịch sử
lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng- TP thanh Hóa”
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Trong quá trình giảng dạy tôi luôn được sự đóng góp ý kiến giúp đỡ của

đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo chặt chẽ của ban Ban giám hiệu trường THCS
Quảng Hưng.
- Bản thân cũng nhiều năm dạy môn Lịch sử và luôn có ý thức cao trong
việc tự học tập và tìm tòi để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ. Luôn có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Luôn suy nghĩ
tìm ra những phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh để nâng cao chất
lượng giảng dạy.
- Học sinh của trường đa số là chăm ngoan lắng nghe ý kiến của thầy cô
giảng dạy.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi vẫn còn gặp những khó khăn:
3


- Phụ huynh học sinh đa số sống bằng nghề nông, một số phụ huynh là
công nhân làm việc tại khu công nghiệp Cảng Lễ Môn... điều kiện kinh tế cũng
như về thời gian còn khó khăn, bên cạnh đó còn có một số em học sinh có bố mẹ
đi làm ăn xa nên không có ai quan tâm, chỉ bảo cũng như nhắc nhở các em học
bài.… nên hạn chế rất nhiều trong công tác quan tâm, tạo điều kiện cho con em
học tập cũng như công tác chỉ bảo học tập của con em ở nhà.
- Tinh thần tự giác học bài và làm bài tập ở nhà của học sinh còn rất hạn
chế, do trong những năm gần đây môn Lịch sử không tham gia thi vào phổ
thông trung học.
- Một số học sinh có thái độ chán học, coi việc đi học là việc bắt buộc nên
không có động cơ thúc đẩy học tập.
Vì vậy, tôi nghĩ: là người trực tiếp điều khiển quá trình học tập của các em
tôi cần phải có những giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy động lực học tập của
học sinh, giúp các em yêu thích môn học, nắm được nội dung kiến thức một
cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, có phương pháp học tập thật tốt. Từ đó mới nâng cao
được hiệu quả giáo dục trong nhà trường. Chính vì thế, tôi đã đi sâu vào nghiên
cứu đề tài này nhằm tìm ra một số phương pháp giải để giúp học sinh yêu thích

môn Lịch sử hơn và không còn cảm giác ái ngại khi học lịch sử.
2.3. Giải pháp thực hiện:
* Giải pháp 1: khắc phục nội dung ‘‘quá dài’’ trong sách giáo khoa
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa ở nhà
Muốn hiểu được nội dung của bài, học sinh phải hiểu được các thuật ngữ,
một số từ hay một vài cụm từ quan trọng trong mỗi bài, phải có cách lập luận
khoa học, phân tích vấn đề, vận dụng kiến thức đã học ở từng bài để tổng hợp
một giai đoạn hay một khoá trình lịch sử,… đây là một trong những phương
pháp lấy học sinh làm trung tâm. Để đáp ứng yêu cầu này, đòi hỏi mỗi học sinh
phải đọc sách giáo khoa ở nhà trước khi học bài mới. Nhưng trong thực tế, học
sinh chưa quen với việc đọc một tài liệu khoa học, các em có tâm lí chờ đợi, ít
chịu động não, mau nản chí trước những vấn đề khó. Học sinh chỉ đọc sách giáo
khoa qua loa nên không nắm được nội dung chính của bài, không dừng trước
những từ, cụm từ “lạ” để suy nghĩ, thậm chí có nhiều em không đọc bài trước,
không biết bài mình sắp học có tựa là gì? gồm mấy phần?...phần nào đó do
người thầy không có đủ thời gian kiểm soát xem các em có đọc sách trước hay
không, từ đó các em ỷ lại, chủ quan và theo thời gian đã hình thành trong đa số
học sinh thói quen không đọc bài mới trước ở nhà.
Vì thế, sự hướng dẫn của người thầy là rất quan trọng, để học sinh làm
quen với cách đặt vấn đề, phân tích vấn đề, giải thích vấn đề, tổng hợp vấn đề và
đánh giá vấn đề, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo
khoa theo các bước sau:
Đọc lần 1: đọc tựa chương, tựa bài, đọc lướt nhanh nội dung của mỗi
mục, sau đó viết nhanh ra giấy những nội dung cần lưu ý nhưng không cần thiết
phải viết đầy đủ nội dung của cả câu, cả đoạn mà chỉ cần thay thế nội dung đó
bằng một từ hoặc một cụm từ để diễn tả.
4


Đọc lần 2: Đọc lại nội dung, cố gắng hiểu từng phần, kết hợp ghi nhớ các

hình ảnh minh họa có trong sách giáo khoa để hỗ trợ cho việc hiểu nội dung bài
học. Phần này đòi hỏi người học phải có khả năng tư duy, nhưng cách làm này
không khó chỉ yêu cầu học sinh có tính chịu khó mà thôi.
Đọc lần 3 : Nắm được mối liên hệ giữa các mục trong bài và đừng quên
đọc cả câu hỏi ở mỗi mục và cuối bài, để định hướng nội dung trả lời.
Học sinh cần gạch chân một số từ hoặc cụm từ quan trọng có liên quan
đến câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc khó hiểu để tập trung vào nội dung đó khi
nghe thầy giảng trên lớp.
Như vậy sau 3 lần đọc, học sinh đã hình thành sơ lược được nội dung của
bài.
Bước2: Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa khi học
ở nhà
Sau bước 1: đọc sách giáo khoa, ở bước 2 này học sinh sẽ phải trả lời các câu
hỏi trong sách giáo khoa như: các câu hỏi cuối mỗi mục, mỗi bài. Hay tìm hiểu
những nội dung mà giáo viên giao về nhà. Tuy nhiên ở phần này cần lưu ý: nên đưa
ra những câu hỏi trọng tâm, không hỏi những câu hỏi rời rạc, số câu hỏi ít.
Khi được giao những công việc cụ thể, các em sẽ phải hoàn thành và phải
học tập một cách độc lập, sáng tạo.
Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa trên lớp:
Khi học sinh đã quen dần với phương pháp đọc sách giáo khoa ở nhà,
giáo viên có thể rèn luyện cho học sinh cách đọc sách giáo khoa tại lớp. Hình
thức này yêu cầu các hoạt động của học sinh cao hơn, nhạy bén hơn và người
thầy cũng phải kiên trì hơn, vì không phải một sớm, một chiều mà học sinh làm
tốt được. Nhưng khi học sinh đã có thói quen này thì sẽ khắc phục phần nào tình
trạng nội dung bài học quá dài.
Học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối chiếu so sánh với
sách giáo khoa, thậm chí nhiều học sinh không ghi theo bài giảng của giáo viên
mà lại chép trong sách giáo khoa. Vì vậy, bài giảng của giáo viên không nên lặp
lại ngôn ngữ trong sách giáo khoa mà nên diễn đạt bằng lời của mình
Một biện pháp thường hay sử dụng khi giảng dạy ở trên lớp là cho học

sinh đọc sách giáo khoa rồi tự các em tóm tắt, kể lại những nội dung cơ bản.
Thông thường, những kiến thức ít phức tạp, không đòi hỏi phải giải thích hay
phân tích nhiều của giáo viên thì nên sử dụng biện pháp này. Đó là các kiến thức
về diễn biến của một cuộc khởi nghĩa, một trận đánh hay tiểu sử của một nhân
vật mà các em quen biết
Đương nhiên, các em sẽ không kể lại được một cách đầy đủ, trọn vẹn.
Song cần rèn luyện cho các em từng bước. Thông qua đó mà ngôn ngữ sử học
của các em phát triển. Tùy điều kiện cụ thể, giáo viên sáng tạo thêm các biện
pháp để phát huy hiệu quả của sách giáo khoa, làm cho bài giảng sinh động, hấp
dẫn, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Với phương pháp đọc sách giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh thói quen
làm việc với tài liệu khoa học, giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp và
5


giành thời gian mở rộng kiến thức như kể những câu chuyện có liên quan hoặc
nêu nhận định hoặc đặt câu hỏi mang tính giáo dục học sinh, đặt học sinh vào
tình huống có vấn đề,… Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giải quyết nội dung
bài học quá dài, còn học sinh sẽ hứng thú hơn trong việc đọc sách giáo khoa vì
tự mình khai thác nội dung bài học dưới sự hướng dẫn của người thầy.
Việc yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa là một trong những phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Và phương pháp này sẽ gặp không ít
trở ngại vì thói quen thụ động của học sinh, vì vậy thầy cô cần phải kiên trì, thực
hiện từng bước nhưng phải kiên quyết, phải “đến nơi đến chốn”, phải hướng dẫn
các em cách đọc sách giáo khoa và thường xuyên kiểm tra, khi kiểm tra cần tập
trung nhiều vào việc đánh giá sự hoàn thành nhiệm vụ học tập của học sinh hơn
là kiểm tra kết quả đúng hay sai và người thầy cũng đừng quên tìm ý đúng mà
khen.
* Giải pháp 2: Người thầy phải đóng vai trò chủ đạo:
Người thầy tìm cách vượt ra khỏi tâm lí môn phụ, không cho phép “ngồi

chờ” có đủ điều kiện mới tiến hành mà cần phải làm ngay với mức độ phù hợp,
phải biết tạo sự cuốn hút môn học bằng cách đầu tư thời gian cho việc nghiên
cứu một tiết dạy, luôn tạo mới mẽ cho mỗi tiết học, quyết tâm từ bỏ thói quen
dạy học theo kiểu truyền đạt kiến thức một chiều, chỉ nói lại những nội dung có
sẵn trong sách giáo khoa. Đồng thời trong cách diễn đạt của giáo viên, ngôn ngữ
phải rõ ràng, giàu hình ảnh, sinh động, hấp dẫn, gây xúc cảm cho học sinh, tạo
cho học sinh hình thành biểu tượng, từ đó tạo tính chiều sâu trong tiết dạy:
Bước thứ nhất của công việc giảng dạy lịch sử là làm thế nào khêu gợi
được hứng thú của học sinh đối với việc học tập, làm rõ mục đích học tập. Tuy
nhiên động cơ học tập của học sinh rất đa dạng và chưa bền vững, biểu hiện ở
những thái độ nhiều khi mâu thuẫn, từ rất tích cực đến thờ ơ, lười biến, từ nổ lực
học tập đến thụ động học thuộc từng câu, từng chữ, hứng thú học bài này, môn
học này nhưng hoàn toàn không hào hứng học bài khác, môn học khác.
Bước thứ 2: Để các em có động cơ, thái độ đúng đắn trong học tập thì tài
liệu học tập phải có nội dung khoa học súc tích, phải được định hướng rõ rệt,
phải gắn với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên phải biết gợi mở, khêu gợi nhu cầu
tìm hiểu của học sinh phải giúp cho các em có phương pháp học tập phù hợp để
tránh bị thất bại. Công việc này thường được tiến hành trong bài mở đầu cũng
như phần đầu của mỗi giờ học trong suốt quá trình giảng dạy.
Những giáo viên có kinh nghiệm thường kết hợp hai yêu cầu đó. Mở đầu
bài giảng, giáo viên giúp học sinh thấy được mục đích và yêu cầu của bài, đưa ra
một số vấn đề trong nội dung bài học có khả năng khêu gợi hứng thú học tập của
học sinh, khiến họ khao khát muốn được biết, kích thích tính tích cực học tập
của học sinh.
Ví dụ: Ở Lịch sử 8, Khi dạy học bài 30: Phong trào yêu nước chống Pháp
từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918 ở mục 3 phần II về những hoạt động của Nguyễn
Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước, giáo viên có thể khêu gợi, kích
thích nhu cầu nhận thức của học sinh như sau: “Các em đã tìm hiểu về những
6



hoạt động của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và các nhà cách mạng khác.
Vậy, hoạt động của Nguyễn Tất Thành có gì khác với các bậc tiền bối ?
Hoặc khi dạy bài 1: Nhật Bản giữa thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, giáo viên có
thể định hướng nhận thức cho học sinh như sau: “Tại sao cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX trong khi các nước ở Châu Á đều trở thành thuộc địa và phụ thuộc thì
Nhật Bản vẫn giữ được độc lập và phát triển nhanh chóng”.
Hay ở bài 29: “Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và
những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam” , giáo viên đặt câu hỏi: Sau
khi Pháp hoàn thành việc xâm lược nước ta, việc tiếp theo của thực dân Pháp là
làm gì?
* Giải pháp 3: Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Để tạo được hứng thú học tập môn Lịch sử cho các em ngoài việc giáo
viên phải chuẩn bị chu đáo về giáo án, tranh ảnh, bản đồ, kết hợp nhiều phương
pháp dạy hoc: thuyết trình, phát vấn, nêu vấn đề, thảo luận nhóm...., giáo viên
còn phải đẩy mạnh năng cao năng lực chuyên môn, trình độ tin học, tiến hành
các hoạt động ngoại khóa, vui chơi với môn Lịch sử, vận dụng kiến thức liên
môn vào dạy học lịch sử....Với nhiều phương pháp như vậy sẽ tạo ra hứng thú
cho học sinh, từ đó lôi kéo học sinh tham gia vào tiết hoc.
Tổ chức vui chơi với môn Lịch sử
Việc xây dựng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa
chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở
trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em. Qua đó tạo thêm
sự gần gũi giữa giáo viên và học sinh.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 26: “ Phong trào kháng chiến chống Pháp
trong những năm cuối thế kỉ XIX (lịch sử 8 trang 125).Chúng ta có thế tổ chức
trò chơi ô chữ để cho các em xâu chuổi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với
nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập thông qua các
câu hỏi gợi ý.
Câu 1: Ri-vi-e bị giết ở đâu?

Câu 2: Ông Vua trẻ kiên quyết chống Pháp là ai?
Câu 3:Tên hiệp ước triều đình kí với Pháp năm 1884?
Câu 4: Thành miền Tây mà Phan Thanh Giản dâng cho Pháp?
Câu 5: Tên thật của vua Hàm Nghi?
Câu 6: Tên dãy núi vua Hàm Nghi vượt để sang Hà Tĩnh?
Câu 7: Người đứng đầu phe chủ chiến là ai?
Câu 8: Nơi vua Hàm Nghi bị đi đày?

7


¢

Đáp án của các ô chữ:

U G I

¢ Y

C
H A M

N

G H I
P A T ¥ N ¤
N H L O N G

V


I

¦

N

G
T

L
R

I

C
¦

T

H

¥

N

G

S

¥ N


£

R I

T¤NTH¢TTHUY£T
A

N

G I

Ở bài 15: cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ
cách mạng (1917-1921), giáo viên cho học sinh củng cố kiến thức bằng một bài
tập:
Em hãy nối ô bên trái (thời gian) với ô bên phải (dữ kiện lịch sử) sao cho
phù hợp:
7/ 10/ 1917
Lê Nin đến điện X mô-nưi Cách mạng giành thắng
24/10/1917

lợi trên toàn nước Nga Lê Nin từ Phần Lan trở về

25/10/ 1917

Pê- tơ- rô-grat Quân cách mạng tấn công vào Cung

Đầu năm 1918

điện Mùa Đông


Đáp án:
7/ 10/ 1917

Lê Nin đến điện X mô-nưi Cách mạng giành thắng

24/10/1917

lợi trên toàn nước Nga Lê Nin từ Phần Lan trở về

25/10/ 1917

Pê- tơ- rô-grat Quân cách mạng tấn công vào Cung

Đầu năm 1918

điện Mùa Đông

Hay trong bài 20 sử 9: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 19361939, giáo viên cho học sinh làm bài tập: điền vào ô trống:
Thời gian
Sự kiện
Năm 1936
a.
Tháng 11- 1936
b.
Tháng 7 - 1937
c.
Tháng 3- 1938
d.
Ngày 1- 5- 1938

e.
Học sinh hoàn thiện bảng đáp án:
8


Thời gian
Năm 1936
Tháng 11- 1936
Tháng 7 - 1937
Tháng 3- 1938

Sự kiện
a. Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương thành lập.
b. cuộc bãi công của công nhân Công ti than Hòn Gai.
c. cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh)
d. Mặt trận Nhân Dân phản đế Đông Dương đổi tên thành
Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Ngày 1- 5- 1938 e. Cuộc mít tinh khổng lồ của 25 vạn người tại Khu Đấu xảo
(Hà Nội)
Hoặc giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm các bài tập trắc nghiệm:
Ví dụ: ở bài 21: Việt Nam trong những năm 1939- 1945. Giáo viên có thể đưa ra
các bài tập cho học sinh, và yêu cầu các em chọn đáp án đúng. Câu 1: Ngày 2311 - 1940 gắn liền với sự kiện nào:
A. khởi nghĩa Bắc Sơn
B. khởi nghĩa Nam Kì
C. khởi nghĩa Đô Lương
D. khởi nghĩa Ba Tơ.
Câu 2: Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) cùng 10 đồng đội của mình bị thực dân
Pháp xử bắn vì đã tham gia:
A. khởi nghĩa Yên Thế.
B. khởi nghĩa Bắc Sơn.

C. khởi nghĩa Nam Kì.
D. binh biến Đô Lương.
Câu 3: Lực lượng tham gia binh biến Đô Lương là:
A. đông đảo quần chúng nhân dân.
B. Chủ yếu là công nhân và nông dân.
C. chỉ có binh lính người Việt trong quân đội Pháp, không có quần chúng tham gia.
D. chủ yếu là nông dân.
Sau khi tung ra hệ thống câu hỏi, học sinh trả lời đúng đáp án sau:
Câu 1: B.
Câu 2: D.
Câu 3: C.
Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên máy chiếu, (nếu không
giáo viên có thể viết lên bảng phụ hoặc trên khổ giấy to) để các em có thể quan
sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối
liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khoá của
ô chữ. Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả
không chỉ về nắm kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo, phát triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong các
tiết học.
Vận dụng kiến thức liên môn: ngữ văn, địa lí, giáo dục công dân... vào
giảng dạy lịch sử
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng
trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những
kiến thức trong SGK thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết. Để
thu hút các em đi sâu tìm hiểu khám phá quá khứ của dân tộc tạo nên những cảm
xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức liên môn ngữ văn,
9


địa lí, giáo dục công dân, toán học,...... vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết

góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú
học tập của các em.
Ví dụ khi dạy về sự phát triển của kĩ thuật, khoa học, văn học và nghệ
thuật thế kỉ XVIII- XIX (Bài 8, SGK lớp 8), giáo viên cần sự hiểu biết và có khả
năng vận dụng tốt nhiều môn học khác, như: Toán, Lí, Hóa, Sinh,… kiến thức
về khoa học vũ trụ, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thông tin hay văn
học, nghệ thuật, tư tưởng, âm nhạc, hội họa,… ở thời cận đại và những ảnh
hưởng, tác động của nó đối với xã hội. Giáo viên có thể kể một vài mẫu chuyện
về danh họa nổi tiếng Pi-cát-xo (mẫu đàn ông trong mắt của nhiều phụ nữ đương
thời vì tài vẽ tranh của ông), hay những bản giao hưởng của thiên tài âm nhạc
Mô- da, kể về tác phẩm văn học AQ chính truyện,… hoặc giáo viên yêu cầu học
sinh nói lên những gì mình biết về hai nhà triết học: Hê-ghen, Phơi-ơ-bách …
thì mới tạo được chiều sâu của bài giảng.
Khi dạy Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong
những năm 1919-1925 (SGK lớp 9), để giảng về hành trình tìm đường cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc giáo viên có thể liên hệ bài thơ: Người đi tìm hình của
nước (Chế Lan Viên):
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra
đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn
Bác Khi bờ bãi dần lùi làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê
hương Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương…”
Hay cảm xúc của Bác khi đọc Luận cương của Lênin (7/1920) về vấn đề
dân tộc và thuộc địa:
“…Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã
khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách

gấp Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân
tộc “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây
rồi”…”
Nói chung, người thầy phải đa dạng hoá phương pháp giảng dạy, thông
qua việc trình bày các sự kiện lịch sử nên có hình ảnh tái tạo quá khứ để tạo biểu
tượng và khơi dậy những cảm xúc sâu sắc về lịch sử.
Bài 20, sử 9: Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936 – 1939, giáo
viên đưa ra dẫn chứng: Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu là lời tâm nguyện của người
thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng Đảng.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
10


Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...
Ở Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 và sự thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, khi nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của
cuộc khởi nghĩa đang lan rộng ra khắp các địa phương trong toàn quốc, giáoviên
đưa ra một đoạn trích:
“Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa
cháy. Nước non ơi hết thảy vùng lên
. Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Trong những tiết học có lồng ghép kết hợp với ngữ văn như vậy, học sinh

rất chú ý lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã khái quát được không
khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình đang học bằng
hình ảnh đồng thời còn giúp các em đánh giá đúng về vai trò của quần chúng
nhân dân những người làm nên lịch sử – Là động lực chính đưa cách mạng đến
thành công.
Đặc biệt là phải nói tới bài 27: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân pháp xâm lược kết thúc”. Để mô tả một cách trực diện cuộc chiến đấu gian
khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta để giành thắng lợi cuối cùng. Giáo
viên trích dẫn 1 đoạn thơ trong bài:"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" của Tố Hữu:
như một tôn vinh, như một tượng đài bất tử:
Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét
núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan
không
núng Chí không
mòn!
Và giáo viên có thể đưa ra dẫn chứng về sự hi sinh của những người chiến
sĩ Điện Biên có tên tuổi như: Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện...:
Những đồng chí thân chôn làm giá
súng Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép
gai Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu
pháo Nát thân, nhắm mắt còn ôm...
11



Đây là những câu thơ không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn
hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào
hùng của dân tộc, tôi nhận thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà
mình thu nhận được. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần
cảm phục đối với công lao của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao
ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa chiến thắng của Điện Biên Phủ tôi trích hai câu thơ:
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Không khí rất sôi nổi, thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với các
sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên dẫn chứng tiêu biểu.
Như vậy, tôi nhận thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức văn học trong
giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nội dung bài nhanh
chóng, nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học tạo điều
kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của
mình. Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức lịch sử và văn học còn
có nhiều điểm tương đồng về phương pháp so sánh, miêu tả.
Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến từ 1858 – 1873” (sử 8) mô tả về hoàn
cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn
và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kỳ.
Tôi trích dẫn thơ của Nguyễn Đình Chiểu bài “Chạy tây”:
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ðồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!

Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng kiến thức văn học trong
giảng dạy lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay
một trích đoạn để cụ thể hoá vấn đề, sự kiện nhằm nêu ra một kết luận khái quát
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn. Cũng có thể giáo viên chỉ cần liên hệ qua một
câu hỏi (có thể ở đầu, giữa hoặc cuối bài) tạo tính liên hệ qua một tác phẩm văn
học với một sự kiện lịch sử để gây hứng thú học tập.
Ngoài vận dụng kiến thức của môn ngữ văn, giáo viên còn kết hợp kiến
thức địa lí để học sinh nhận thấy vai trò rất quan trọng của các trận chiến là vị
trí địa lí.
Ví dụ: khi giới thiệu về Điện Biên Phủ, giáo viên trình chiếu hay chỉ trên
lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và giới thiệu về vị trí của Điện Biên Phủ:
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam tỉnh Lai Châu,
có chiều dài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến 8 km; cách Hà Nội khoảng
300 km và cách Luông Phabăng khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung
12


lũng Điện Biên nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba có nhiều tuyến
đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ "là một
vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà
còn đối với Đông Nam Á. Đó là "một cái chìa khoá để bảo vệ Thượng Lào", một
"bàn xoay" có thể đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc.
Qua phần mô tả về vị trí, các em rút ra được: Điện Biên Phủ Là một thung
lũng rộng lớn nằm ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, có vị trí chiến lược quan
trọng.
Giáo viên tiếp tục đưa ra câu hỏi: Với vị trí chiến lược quan trọng như
vậy, Pháp- Mĩ đã xây dựng căn cử Điện Biên Phủ như thế nào?
Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự dầy đặc
gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm
kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là

một trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động và hoả lực
riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày
đặc và có khả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung tâm đề kháng cũng
như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng một hệ thống công sự nằm
chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai,
bãi mìm cùng một hệ thống hoả lực mạnh..
Với sự giảng giải của giáo viên các em nhận thấy: Pháp – Mĩ xây dựng cứ
điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3
phân khu: => Đây là "một pháo đài bất khả xâm phạm" là "máy nghiền thịt
khổng lồ" tiêu diệt quân ta ở Điện Biên Phủ.
Trong dạy học môn Lịch sử luôn gắn liền với việc giáo dục tư tưởng đạo
đức học sinh, chẳng hạn khi dạy về các cuộc khởi nghĩa, không thể không nói
tới vai trò của nhân dân, nhờ có tinh thần đoàn kết đó mới có được mọi thành
công như Hồ Chủ Tịch từng nói:
Dễ vạn lần không dân dân cũng chịu
Khó vạn lần dân chịu cũng xong.
Ví dụ, qua bài 26 lịch sử 8: Khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913), học sinh
thấy được ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân Yên Thế nói riêng
và nhân ta nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời
giáo dục học sinh đời đời phải ghi nhớ công ơn của anh hùng dân tộc Hoàng
Hoa Thám.... Như vậy có thể nói rằng môn giáo dục công dân cũng là môn học
luôn gắn liền với môn Lịch sử, nó giúp cho môn Lịch sử hay hơn, hấp dẫn người
học hơn.
* Giải pháp 4:Thân thiện, gần gũi với học sinh
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh các hoạt
động ngoại khóa: tham quan học tập ở bảo tàng, các di tích lịch sử ở địa phương,
hay đi thăm hỏi động viên những người có công với cách mạng... Bởi qua các hoạt
động đó, giúp các em hiểu hơn, nhớ hơn về những anh hùng, những người có công
với cách mạng đã xả thân hi sinh vì tổ quốcnhững. Cũng qua đó, thầy trò được trao
đổi với nhau những tâm tư, những hiểu biết, những câu chuyện...


13


kèm theo đó là những lời dặn dò, nhắc nhỡ, động viên, khích lệ,… giúp các em
hình thành nhân cách, tác phong, không còn nhút nhát mỗi khi muốn phát biểu
hay hỏi về một nội dung nào. Đồng thời, thông qua hoạt động thầy trò gần gũi
nhau hơn, hiểu nhau hơn, thân thiện hơn, khoảng cách giữa giáo viên với học
sinh cũng được rút ngắn...
Trên đây là một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong quá
trình giảng dạy, còn những yếu tố khác nữa tôi hy vọng và tin tưởng trong một
thời gian ngắn, môn Lịch sử sẽ trở về đúng vị trí của nó.
2.4. Hiệu quả của đề tài đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Trong năm học 2016-2017 và năm học 2017- 2018, trong quá trình giảng
dạy ở hai khối 8 và 9 để việc giảng dạy môn Lịch sử đạt hiệu quả cao hơn tôi đã
mạnh dạn áp dụng những biện pháp khắc phục những khó khăn trong dạy
học lịch sử lớp 8, 9 tại trường THCS Quảng Hưng và kết quả đạt được như
sau: khoảng 80% học sinh mạnh dạn đóng góp ý kiến, nắm được nội dung cần
học ở lớp cũng như nội dung cần luyện tập ở nhà. Một số học sinh khá giỏi
thuộc bài ngay tại lớp. Học sinh đã có thói quen soạn trước những nội dung giáo
viên giao ở nhà trước khi đến lớp (kể cả bài tập và câu hỏi từ dễ đến khó ở sách
giáo khoa và cả sách bài tập). Khoảng 60% có khả năng trình bày, diễn đạt kiến
thức trước cả lớp, giúp phong trào học tập của các em tích cực chủ động, phát
biểu sôi nổi trong tiết học. Tái hiện kiến thức nhanh và nhớ kiến thức được lâu.
Kết quả cụ thể như sau: `
Lớp dạy
Lớp thực nghiệm 8A
Lớp thực nghiệm 9A
Lớp đối chứng 8B

Lớp đối chứng 9B
Lớp thực nghiệm 8A
Lớp thực nghiệm 9A
Lớp đối chứng 8B
Lớp đối chững 9B


số
39
42
40
41
38
40
39
41

Giỏi
SL
10
12
6
5
14
15
6
7

%
25,6

28,6
15,0
12,2
36,8
37,5
15,4
17,1

Khá
SL
12
16
12
13
14
16
9
11

%
30,8
38,1
30,0
31,7
36,8
40,0
23,1
26,8

Trung bình

SL
%
17
43,6
16
38,1
21
52,5
23
56,1
10
26,3
9
22,5
24
61,5
23
56,1

Yếu, kém
SL
%
0
0,0
0
0,0
1
2,5
0
0,0

0
0,0
0
0,0
0
0,0
0
0,0

Ghi
chú
Năm
học
20162017
Năm
học
20172018

Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh
nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản
thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình
sách giáo khoa và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú
học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời
cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển
kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học
hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả
cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn.

14



3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Như vậy, để chuẩn bị cho một tiết dạy thật không đơn giản chút nào.
Người thầy phải có sự linh hoạt trong tổ chức thảo luận, tranh luận trên lớp học
để vừa đảm bảo thời gian tiết học vừa có thể phát huy tối đa tính tích cực, sự
sáng tạo của học sinh. Yêu cầu học sinh làm việc cũng có nghĩa là tạo cho các
em tác phong làm việc trong thời đại của nền kinh tế tri thức, kinh tế hội nhập,
để các em sẵn sàng hoà nhập khi bước vào đời.
Trong phạm vi đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục những khó
khăn trong dạy học Lịch sử lớp 8,9 tại trường THCS Quảng Hưng” tôi chỉ
mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong dạy học lịch sử 8 và 9, tôi hy
vọng sẽ giúp được phần nào cho giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường trung
học cơ sở, giảm bớt khó khăn trong dạy học. Trên đây là một số kinh nghiệm
nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy. Vì vậy, chắc hẳn vẫn còn không ít thiếu
sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến trao đổi kinh nghiệm của các
đồng chí giảng dạy bộ môn, các đồng nghiệp cũng như bạn đọc gần xa để đề tài
này được hoàn thiện tốt hơn, có hiệu quả cao hơn khi áp dụng vào thực tế giảng
dạy và cùng nâng cao chất lượng của môn học Lịch sử.
Con đường phía trước còn rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng tôi tin rằng
với sự tận tuỵ, lòng yêu nghề, mến trẻ, người giáo viên sẽ luôn tìm tòi những
điều lý thú để đưa thế hệ trẻ trở về quá khứ một cách sống động và hướng đến
tương lai là những con người toàn diện.
3.2. Kiến nghị.
Hiện nay trong các trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học. Tuy
nhiên đối với môn Lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn ít, vì vậy muốn đạt được
kết quả cao trong bộ môn này theo tôi cần có những yêu cầu:
- Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích
lịch sử và di sản văn hóa hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với
cách mạng.

- Nhà trường cần trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại
giúp giáo viên dạy tốt môn Lịch sử.
- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các
môn trong đó có môn Lịch sử.
Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có nhiều thời gian đầu tư cho bài dạy
đạt hiệu quả tốt nhất.
- Thông qua các lớp chuyên đề phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm có
hiệu quả để các đồng nghiệp được học hỏi, trao đổi và cũng nên đưa ra những
1
5


thiếu sót, hạn chế của những sáng kiến kinh nghiệm chưa được để chúng tôi rút
kinh nghiệm cho lần sau.
Tôi xin cảm ơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Vinh

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Lịch sử lớp 8, 9 – Nhà xuất bản giáo dục.

2. SGV Lịch sử lớp 8, 9 – Nhà xuất bản giáo dục.
3. Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên –
Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi - NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
4. Một số vấn đề về Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội: - NXB
Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Website: Thư viện giáo án Violet.
6. Một số tài liệu văn học, địa lí.

17



×