Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học mỹ thuật THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.02 KB, 34 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài :
Mĩ thuật là nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người. Đúng thật như vậy, nhà văn hào lớn của giai cấp vô
sản Mác Xim Goóc Ky đã nói: “Con người bản tính là nghệ sĩ, bất cứ ở đâu và
vào lúc nào con người cũng muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống”.
Hàng năm, ngành giáo dục đều tổ chức thi học sinh giỏi môn Mĩ thuật
nhằm phát huy tinh thần học tập và phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mĩ
nhằm phát hiện năng khiếu thực sự, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng, hi vọng các
em sau này sẽ trở thành hoạ sĩ, nhà điêu khắc, nhà kiến trúc sư trong tương lai.
Để đạt được điều đó, ngoài năng khiếu bẩm sinh, sự say mê học tập của các em
thì lòng nhiệt tình cũng như kinh nghiệm, kiến thức vững vàng của người thầy
giáo rất cần thiết. Người thầy phải biết vận dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học
tích cực cũng như đổi mới các phương pháp trong dạy học phù hợp với thời kì
mới.
Đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng các kĩ thuật trong dạy học là
nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho ngành giáo dục hiện nay. Nghị quyết Đại
hội đại biểu lần IX của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực
hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt,
học chay”. Đất nước ta đang chuyển mình mang tầm vóc lịch sử, đang từng
bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Hơn bao giờ hết cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật đang diễn ra mạnh mẽ thì yêu cầu xây dựng một chiến lược con
người trong công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn
Đảng, toàn dân quan tâm. Công nghệ thông tin là phương tiện được ứng dụng
trong rất nhiều ngành nghề khác nhau. Công nghệ thông tin hỗ trợ đắc lực cho
việc áp dụng các kĩ thuật trong dạy học hiện nay. Ngược lại, phương pháp dạy
học và kĩ thuật dạy học của giáo viên cũng lại chịu sự tác động qua lại của các
phương tiện dạy học hiện đại.
Mỗi kĩ thuật dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế riêng; không
1




thể có một kĩ thuật dạy nào tối ưu cho mọi trường hợp. Thêm vào đó, việc thực
hiện có hiệu quả mỗi kĩ thuật dạy luôn đòi hỏi người dạy và người học phải có
những phẩm chất, kĩ năng nhất định và những điều kiện cần thiết để đảm bảo
thực hiện. Vì vậy, vấn đề không phải là cách dạy nào tốt hơn, mà là cách dạy,
cách ứng dụng kĩ thuật nào phù hợp hơn. Tiêu chí hàng đầu trong việc lựa chọn
kĩ thuật dạy học chính là cách học. Tuy nhiên, cách học không chỉ do những
đặc điểm cá nhân của người học quy định, mà còn do tính chất và đặc điểm của
nội dung học tập, mục đích học tập, cũng như điều kiện học tập quy định. Đồng
thời, việc lựa chọn các kĩ thuật dạy còn phụ thuộc vào quan điểm và mục đích
dạy học, cũng như trình độ và kỹ năng sử dụng các phương pháp dạy của người
dạy. Vì vậy, để đạt được hiệu quả trong giảng dạy thi người giáo viên phải biết
sử dụng các kĩ thuật dạy học một cách linh hoạt, không bị gò bó, phát huy hết
năng lực tự học và sáng tạo của học sinh, tạo cho giờ học vui tươi.

Thấy được vai trò và hiệu quả của các kĩ thuật trong dạy học, tôi đã nghiên
cứu tài liệu và ứng dụng vào các tiết dạy học mĩ thuật. Các kĩ thuật dạy học tích
cực được ứng dụng trong bài giảng tạo cho bài giảng sôi nổi hơn hẳn, các em
học sinh tham gia các hoat động học một cách tích cực hơn. Vì vậy tôi đã
nghiên cứu và lựa chon đề tài luận văn là: “Áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực
trong dạy học mĩ thuật ở cấp Trung học cơ sở” góp phần cho việc ứng dụng các
kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực được tốt hơn, phù hợp với sự phát
triển hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu:
Giáo dục mĩ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong nền giáo dục hiện nay,
nhưng vấn đề đáng quan tâm ở đây là dạy mĩ thuật như thế nào? với môn mĩ
thuật trong trường trung học cơ sở có những phân môn như: Vẽ theo mẫu, vẽ
trang trí, vẽ tranh, thường thức mĩ thuật. Vậy làm sao để học sinh hứng thú với
môn mĩ thuật? làm sao để học sinh không cảm thấy nhàm chán và khô khan? đó

là phụ thuộc ở người giáo viên, giáo viên nắm vững kiến thức điều hoà tốt các
phương pháp dạy học kết hợp với sự sáng tạo trong dạy học, làm được như vậy
người giáo viên sẽ làm chủ được mọi kiến thức và tình huống trong giảng dạy,
thông qua đó
2


học sinh sẽ cảm thấy được sự thích thú khi học môn mĩ thuật.
- Giáo viên nắm được tác dụng, cách tiến hành và yêu cầu sư phạm khi
sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực ở trường phổ thông.
- Có kĩ năng vận dụng có hiệu quả một số kĩ thuật dạy học tích cực vào
các phân môn mĩ thuật ở phổ thông.
- Giáo viên phải có ý thức vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong
quá trình dạy học mĩ thuật ở trường phổ thông.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Là hệ thống các kĩ thuật dạy học tích cực trong trường trung học cơ sở.
Giáo viên nghiên cứu để áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực
trong giảng dạy mĩ thuật ở trường trung học cơ sở Hà vân nói riêng và cấp
THCS nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, tự học, tự nghiên cứu qua tài liệu
sách vở, các dự án đổi mới phương pháp dạy học.
- Phương pháp tư duy: Thu thập thông tin, phân tích tổng hợp và xử lí thông
tin.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
1.1.Mục tiêu:
Ngày nay cái đẹp đã trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống con người. Tất cả phục vụ cho con người đều cần đẹp về cả hình thể, màu
sắc và khi cuộc sống ngày càng cao thì cái đẹp lại càng trở nên quan trọng. Có

thể nói mĩ thuật đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
Với mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, giáo dục thẩm mĩ có mục tiêu là
phát triển năng lực, thẩm mĩ cho mỗi thành viên trong xã hội, góp phần quan
trọng vào việc hình thành con người mới, sự phát triển năng lực thẩm mĩ sẽ
giúp con người biết nhận thức và đánh giá, biết vận động và sáng tạo theo quy
định cái đẹp, giáo dục thẩm mỹ ở trường
3


phổ thông được thực hiện chủ yếu trong các giờ chính khoá trong nhà trường.
Giáo dục mĩ thuật ở trường phổ thông không nhằm đào tạo hoạ sĩ hay những
người chuyên làm nghề mĩ thuật mà giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là chủ yếu,
tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen, thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra
cái đẹp, vận dụng cái đẹp vào sinh hoạt học tập hàng ngày và những công việc
mai sau, môn mĩ thuật nâng cao năng lực, quan sát, khả năng tư duy hình tượng
sáng tạo bồi dưỡng, phương pháp làm việc khoa học, nhằm hình thành ở học
sinh phẩm chất con người lao động mới, đáp ứng đòi hỏi của xã hội phát triển
ngày càng cao.
1.2. Nhiệm vụ:
Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh thông qua ngôn ngữ tạo hình: vẻ đẹp của bố
cục, hình tượng, đường nét, màu sắc...Cung cấp một số kiến thức phổ thông về
mĩ thuật để qua đó học sinh để giải quyết các bài tập trong chương trình theo
khả năng nhận thức và cảm nhận riêng. Học sinh nhận thức sâu sắc hơn về vẻ
đẹp và giá trị của nền mĩ thuật dân tộc. Bồi dưỡng nâng cao thị hiếu thẩm mĩ,
năng lực nhận thức cái đẹp.
Giúp học sinh tiếp thu có hiệu quả hơn tri thức ở các môn học khác vì các

môn học có liên quan, móc nối với nhau, hơn nữa mĩ thuật tạo điều kiện cho
học sinh suy nghĩ, sáng tạo để có nhiều cách thể hiện khác nhau cho bài tập sẽ
giúp các em học tốt hơn các môn khác.
Định hướng cho một bộ phận nhỏ học sinh học tiếp ngành mĩ thuật, hay
tạo điều kiện cho một số học sinh thi vào các trường chuyên nghiệp có liên
quan đến mỹ thuật. Dạy mĩ thuật ở trường phổ thông nói chung, ở trưởng trung
học cơ sở nói riêng là góp phần xây dựng thẩm mĩ cho xã hội, mọi người đều
hướng đến cái đẹp, bíêt tạo ra cái đẹp, thưởng thức cái đẹp theo ý mình sẽ làm
cho cuộc sống ngày càng trở nên tốt đẹp, phong phú và hài hoà hơn.
1.3.Nội dung môn mĩ thuật ở trường THCS:
Do đặc điểm của môn học, nên chương trình mĩ thuật ở trường THCS được
cấu tạo theo hướng đồng tâm. Có nghĩa là những vấn đề đề cập ở lớp dưới sẽ
được củng cố và nâng cao dần ở các lớp trên.
Giáo dục mĩ thuật ở trường THCS được thực hiện chủ yếu trong các giờ học
chính khoá trong nhà trường gồm các nội dung sau:
4


Vẽ theo mẫu: (32 tiết)
Luật xa gần, phương pháp vẽ theo mẫu,vẽ tĩnh vật bằng chì, bằng màu; Giới
thiệu tỉ lệ mặt người; tỉ lệ người, tập vẽ chân dung, dáng người.
Vẽ trang trí: (31 tiết)
Cách sắp xếp trang trí; màu sắc và cách đùn màu trong trang trí; cách vẽ trang
trí: Kẻ trục đối xứng và phác mảng, vẽ đậm nhạt, vẽ họa tiết, vẽ màu.;
- Họa tiết trang trí, họa tiết dân tộc.
- Đơn giản và cách điệu.
- Chữ in hoa và cách kẻ chữ in hoa nét đều, nét thanh nét đậm.
- Tranh trí cơ bản: tranh trí hi9nhf vuông hình tròn, hình chữ nhật.
- Trang trí ứng dụng: Tranh trí thảm, khăn trải bàn, lọ cắm hoa, lều trại, bìa
sách, bìa lịch, kẻ khẩu hiệu, vẽ biểu đồ, phóng tranh…

Vẽ tranh: (34 tiết)
- Cách vẽ tranh: Tìm chọn nội dung đề tài, vẽ phác thảo mảng, vẽ hình, vẽ màu.
- Vẽ tranh sinh hoạt, lễ hội, phong cảnh, chân dung, tranh minh họa…
Thường thức mĩ thuật:
- Sơ lược mĩ thuật việt Nam thời kĩ cổ đại; Sơ lược mĩ thuật thời Lý, Trần, thời
Lê, thời Nguyễn.
- Sơ lược về mĩ thuật thế giới; Mĩ thuật Ai cập, Hi Lạp, La Mã thời cổ đại, thời
phục hưng, thời hiện đại và mĩ thuật một số nước châu Á.
- Sơ lược mĩ thuật Việt Nam thời kì trước cách mạng tháng 8/1945; thời kì
1945 – 1975 và khuynh hướng mĩ thuật hiện đại Việt Nam.
MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC:

- Kĩ thuật “đặt câu hỏi”.

- Kĩ thuật động não công khai.

- Kĩ thuật bản đồ tư duy

- Kĩ thuật bể cá.

- Kĩ thuật tranh luận ủng hộ – phản đối. - Kĩ thuật ổ bi.
- Kĩ thuật khăn trải bàn

- Kĩ thuật tia chớp(Phỏng vấn nhanh)

- Kĩ thuật các mảnh ghép

- Kĩ thuật động não viết…

Những hình thức làm việc trên hay còn gọi là kĩ thuật dạy học tích cực,

mỗi hình thức có một đặc thù riêng, một ưu điểm riêng và mang lại hiệu quả rất
cao trong giảng dạy không chỉ cho môn học mĩ thuật mà nó phù hợp với rất
nhiệu môn học khác nhau…Tuy nhiên áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực
trong dạy học mĩ thuật như thế nào cho hiệu quả là một bài toán khó trong
phương pháp dạy học đòi hỏi người giáo viên cần thường xuyên nghiên cứu và
học hỏi. Để đạt được hiệu quả trong việc áp dụng các kĩ thuật dạy học cần phải
một số lưu ý sau:
- Yêu cầu đối với HS:
- Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập cho môn học.
- Biết giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách
5


nhiệm về kết quả học tập…
- Có tinh thần đoàn kết, tất cả học sinh đều phải nhiệt tình có trách nhiệm tham
gia vào công việc được giao.
- Yêu cầu đối với giáo viên:
- Cần chuẩn bị tốt giáo án và các phiếu học tập.
- Cần có các phương tiện hỗ trợ như: Máy chiếu đa năng, tranh ảnh và các
bài viết liên quan…
- Sắp xếp bố cục lớp học sao cho phù hợp với các hình thức tổ chức dạy học
và các kỹ thuật được ứng dụng.
Mô hình các bước thiết kế bài dạy theo hướng này có thể là:
Bảng 1.1: Mô hình các bước thiết kế bài dạy theo hướng này có thể là:

Lựa chọn bài dạy.

Kỹ thuật dạy học phù
hợp với từng bài.


Xác định mục tiêu
của các kỹ thuật

Mức độ cần đạt được
trong từng phần.

Thiết kế các hoạt
động dạy – học

Lựa chọn thể hiện thông
tin.
Xử lý thông tin.

Kế hoạch nhận xét,
đánh giá.

HS tự đánh giá

Đánh giá của giáo viên.
Như vậy, về mặt khách quan
tích nội dung dạy học theo
quan điểm hoạt động làm cơ sở cho việc xác định kĩ thuật dạy học. Quan điểm
hoạt động trong kĩ thuật dạy học có thể được triển khai như sau:
có thể phân

- Gợi động cơ cho các hoạt động hay hoạt động thành phần hành động học tập.
- Dẫn dắt HS chiếm lĩnh tri thức, đặc biệt là tri thức phương pháp như là
phương tiện và kết quả của hoạt động.
- Phân bậc hoạt động/phân tích hoạt động thành các yếu tố thành phần để
6



làm căn cứ điều khiển quá trình dạy học.
- Cho HS thực hiện và tập luyện những hoạt động và hoạt động thành phần
tương thích với nội dung và mục tiêu dạy học.
1.4. Một số kĩ thuật dạy học tích cực góp phần đối mới phương pháp.
1.4.1. Khái niệm kĩ thuật dạy học:
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và
học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá
trình dạy học. Các kĩ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp
dạy học. Các kĩ thuật dạy học tích cực là những kĩ thuật dạy học có ý nghĩa đặc
biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy
học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh.
Các kĩ thuật dạy học tích cực được trình bày sau đây có thể được áp dụng
thuận lợi trong làm việc theo nhóm. Tuy nhiên chúng cũng có thể được kết hợp
thực hiện trong các hình thức dạy học toàn lớp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.

Bảng 1.2: Một số kĩ thuật dạy học
1.4.2. Kĩ thuật: “Tranh luận ủng hộ – phản đối” a.
Khái niệm:
Tranh luận, ủng hộ - phản đối (tranh luận chia phe) là một kỹ thuật dùng
7


trong thảo luận, trong đó đề cập về một chủ đề có chứa đựng xung đột. Những
ý kiến khác nhau và những ý kiến đối lập được đưa ra tranh luận nhằm mục
đích xem xét chủ đề dưới nhiều góc độ khác nhau.
b. Ưu điểm, nhược điểm:
- Ưu điểm: Kích thích học sinh tranh luận sôi nổi. Không khí giờ học vui vẻ.

- Nhược điểm: Kĩ thuật tranh luận ủng hộ phản đối đòi hỏi thời gian nhiều,
trong khi một giờ học ở trung học cơ sở chỉ có 45 phút.
- Kĩ thuật này đòi hỏi học sinh phải có kiến thức về bài học tôt, vì thế chỉ phát
huy được một số em học được.
- Mục tiêu của tranh luận không phải là nhằm “đánh bại” ý kiến đối lập mà
nhằm xem xét chủ đề dưới nhiều phương diện khác nhau.
1.4.3. Kĩ thuật “đặt câu hỏi”:
a. Khái niệm:
Kĩ thuật đặt câu hỏi là cách thức đưa ra hệ thống câu hỏi trong các tình huống
sao cho phù hợp, chính xác, đản bảo tính khoa học.
Đặt câu hỏi là một trong những kĩ thuật hết sức hữu ích mà giáo viên cần
phát triển. Kĩ thuật đặt câu hỏi được ứng dụng trong hầu hết các phương pháp
dạy học.Trong một buổi giảng, người giáo viên giỏi luôn biết sử dụng nhiều
câu hỏi với nhiều mục đích khác nhau. Ở một chừng mực nhất định, việc đặt
câu hỏi là quá đơn giản bởi đó là việc mà tất cả chúng ta làm hàng ngày.Tuy
nhiên, người đặt câu hỏi cũng phải có kỹ năng và hiểu biết thì mới có thể diễn
đạt câu hỏi một cách rõ ràng, chính xác, tung ra câu hỏi đúng thời điểm để đem
lại hiệu quả tối đa, và khai thác câu trả lời để đặt câu hỏi tiếp theo. Những phân
loại cơ bản sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn các mục đích sử dụng khác
nhau của mỗi loại câu hỏi.

8


Câu hỏi đóng là những câu hỏi mà chỉ có một câu trả lời đúng, thường là
những câu hỏi tìm hiểu thực tế. Câu hỏi đóng có thể được sử dụng để kiểm tra
sự hiểu bài, khuyến khích người học ôn lại những nội dung đã học, hoặc đưa ra
một thông tin, nhưng giá trị sư phạm của loại câu hỏi này tương đối hạn chế.
Câu hỏi mở là những câu hỏi không có câu trả lời cố định, chúng kích
thích suy nghĩ và mở ra những trao đổi hoặc tranh luận.

b. Ưu điểm, nhược điểm:
Ưu điểm:
- Kĩ thuật đặt câu hỏi dễ sử dụng cho mọi giáo viên, giáo viên không sợ cháy
giáo án cũng như mất nhiều thời gian đối với các hình thức học tập khác.
- Hệ thống câu hỏi chính xác, logic, hỏi đúng lúc, đúng chỗ tạo cho học sinh tự
tin hơn trong giờ học.
Nhược điểm:
- Câu hỏi không rõ ràng, hoặc thách thức học sinh sẽ gây giờ học căng thẳng,
nhàm chán.
- Câu hỏi rễ quá sẽ không kích thích học sinh tư duy, khó quá sẽ không thu hút
được các em học yếu.
1.4.4. Kĩ thuật sử dụng bản đồ tư duy: a.
Khái niệm bản đồ tư duy:
Bản đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng
mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề.
Sơ đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện
trên máy tính.
b. Ưu điểm – Nhược điểm:
Ưu điểm:
- Ôn tập và ghi nhớ hệ thống kiến thức sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Mỗi giản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Tạo ra thêm ý tưởng về sơ đồ tư duy.
- Dễ dàng nghiên cứu
- Tăng cường bộ nhớ
- Sử dụng toàn bộ não của bạn
9


Nhược điểm:
- Mất thời gian.

- Các sơ đồ giấy thường khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.
- Số học sinh yếu có thể không hình dung ra sơ đồ tư duy.
Bản đồ tư duy là một kỹ thuật hình họa, với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình
ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp, tương thích với cấu trúc, hoạt động và chức
năng của não bộ. Bản đồ tư duy hoạt động dựa trên hai nguyên tắc chủ chốt là
tưởng tượng và liên kết. Não bộ của con người chính là bộ máy nhân và nó
nhân các ý tưởng bằng sự liên kết.

Hình 1.1 Sơ đồ đồ tư duy
1.4.5. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”:
a. Khái Niệm:
Kĩ thuật "khăn phủ bàn" là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác
kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy
sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của người học và
phát triển mô hình có sự tương tác giữa người học với người học.
- Kích thích , thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh
10


Hình 1.2 Sơ đồ khăn phủ bàn
b. Ưu điểm - Nhược điểm:
Ưu điểm:
- Tăng cường tính độc lập và trách nhiệm của người học.
- Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau
- Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề
- Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác
- Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo cơ hội nhiều
hơn cho học tập có sự phân hóa

- Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, học
cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau.
- Nâng cao hiệu quả học tập
- Tốn kém chi phí và khó lưu trữ, sửa chữa kết quả.
- Kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá
nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm vì vậy một
bộ phận học sinh yếu sẽ ngại làm việc hoặc ỉ lại.
- Nhóm có số thành viên 4 là tốt nhất.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
2.1. Dạy học theo phương pháp truyền thống:
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc - chép” được coi là một phương pháp dạy
học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều
trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội
thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện
tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học
11


theo kiểu “Thầy đọc – Trò chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học
sinh chép như môn chính tả...Ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công
thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn
thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã
sử dụng phương pháp “đọc - chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường
học có phương pháp dạy học mang tên “đọc - chép”. Do đó “đọc” thế nào và
học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương
chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép - nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ
đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có

tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo
trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng
học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người
học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều,
không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui
chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc - chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy
vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc
không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc - chép tất yếu phải được tổ chức
theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc - chép” sẽ nhàm chán và mang
tính áp đặt.
Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc - chép, có thể kể ra một
số nguyên nhân sau:
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một
tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài
cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng
bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc - chép”.
12


Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động
trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh
về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc
đúng, ghi đúng là được điểm cao…
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy
sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức,
cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại
ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa

không tốn sức.
Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có để đáp
ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không có
nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp tích cực.
Khắc phục tình trạng đọc - chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất
lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó
khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc
chống dạy học theo kiểu “đọc - chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng
của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết
sức quan trọng mới có thể có kết quả.
2.2. Dạy học theo hướng đổi mới:
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mĩ thuật:
Trong giai đoạn xã hội phát triển như ngày nay, xu hướng dạy học hiện đại với
sự kết hợp những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách
khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một
phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả
trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn mĩ thuật nói riêng.
- Áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học mĩ thuật:
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu hiện nay của ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Khóa XI khẳng định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
13


sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc"
Dạy học theo phương pháp dạy học tích cực: “Lấy học sinh làm trung tâm”
nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, độc lập suy nghĩ và khả năng tư duy của

các em. Một số phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp dạy học theo
dự án, phát hiện và giải quyết vấn đề, day học hợp tác nhóm nhỏ…
Sự chuyển biến về hoạt động trong lớp học có thể thể hiện qua sơ đồ sau:

Hình 2.1: Sự chuyển biến về hoạt động trong lớp học
Hoạt động của giáo viên và học sinh trong dạy học tích cực được thể hiện ở sơ
đồ sau:

14


Hình 2.2: Hoạt động của giáo viên và học sinh trong dạy học tích cực
3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề .
3.1. Một số giải pháp áp dụng áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực.
3.1.1. Kĩ thuật tranh luận, ủng hộ, phản đối: Cách thực hiện:
Các thành viên được chia thành hai nhóm theo hai hướng ý kiến đối lập
nhau về một luận điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo nguyên tắc
ngẫu nhiên hoặc theo nguyện vọng của các thành viên muốn đứng trong nhóm
ủng hộ hay phản đối.
- Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối lập thu thập
những luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận.
- Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận thông qua đại diện
của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm ủng hộ đưa ra
một lập luận ủng hộ, tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản đối và cứ
tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện mà
mọi thành viên có thể trình bày lập luận.
- Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theo là giai đoạn thảo luận chung và
đánh giá, kết luận thảo luận.
Ví dụ: Lớp 8 - Bài 16: Sơ lược mĩ thuật hiện đại phương tây từ cuối thế kỉ

XIX đến đầu thế kỷ XX
Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm:
15


Nhóm 1: tìm hiểu về phong cách và quan niệm mĩ thuật của trường phái Ấn
tượng.
Nhóm 2: Tìm hiểu về phong cách và quan niệm mĩ thuật của trường phái Lập
thể.
Nhóm 3: Tìm hiểu về phong cách và quan điểm mĩ thuật của trường phái Dã
thú.
- Giáo viên cho học sinh nêu phong cách và quan niệm vẽ của nhóm mình.
* Nhóm trưởng nhóm 1 trình bày: “Màu sắc thiên nhiên luôn biến đổi tuỳ
thuộc vào ánh sáng, khí quyển. Vì thế các hoạ sỹ rất chú trọng ánh sáng, đặc
biệt là ánh sáng mặt trời chiếu vào con người và cảnh vật.Hội hoạ Ấn tượng đi
vào cuộc sống đương đại, trước hết là cảnh sinh hoạt của con người và phong
cảnh thiên nhiên với bảng màu tươi sáng.”
– Cho học sinh các nhóm khác tranh luận để bảo vệ quan điểm vẽ của nhóm
mình.
Một em trường phái Dã thú có ý kiến phản biện: “Sự vật hiện tượng không
đơn thuần như trường phái Ấn Tượng đã nêu mà hiện thực rất rối ren trở lên
gần gũi, dễ hiểu với mọi người trên con mắt trẻ thơ. Vì thế ta phải thông qua
đôi mắt hồn nhiên tươi vui của trẻ thơ trong sáng tạo để nghệ thuật.”Một em
trường phái lập thể lại cho rằng: “Đối tượng vẽ quá phức tạp nên phải được mổ
xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sĩ
không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia
thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau.”
Giáo viên chốt lại các nội dung mà học sinh trình bày.
Như vậy, qua kĩ thuật ủng hộ phản đối thì tạo cho lớp học sôi nổi, các em hào
hứng học tập.

3.1.2. Kĩ thuật “đặt câu hỏi”:
- Hướng dẫn để sử dụng các câu hỏi một cách tốt nhất:
Nếu biết cách đặt câu hỏi, giáo viên có thể khuyến khích mọi học sinh
cùng suy nghĩ. Trong đào tạo chuyên môn, điều này có thể thực hiện qua các
câu hỏi mở liên quan trực tiếp đến nội dung công việc.
Khuyến khích sự tham gia của tất cả học sinh. Với những học sinh
16


ít nói, giáo viên có thể lôi kéo sự tham gia của họ bằng những câu như “bây giờ
chúng ta sẽ nghe một ai đó chưa phát biểu ý kiến”
Diễn đạt các câu hỏi một cách ngắn gọn và rõ ràng. Nếu câu hỏi có ý
nghĩa phức tạp, giáo viên cần diễn đạt lại cho học sinh hiểu.
Ví dụ: Trong bài: Tranh dân gian Việt Nam giáo viên hỏi: ”Em hãy phân biệt
dòng tranh dân gian Đông Hồ và Dòng tranh dân gian Hàng Trống?” Nếu học
sinh không trả lời được giáo viên cần diễn đặt lại: “ Tranh dân gian Đông Hồ và
Hàng Trống khác nhau ở điểm nào?”
- Sau khi đặt một câu hỏi, chú ý tới thời gian “chờ đợi”. Nếu thời gian
chờ quá lâu, bài giảng sẽ bị kéo dài, nhưng nếu quá ngắn thì các học sinh không
đủ thời gian để suy nghĩ.

17


- Khi học sinh có câu trả lời sai, không bao giờ được chế giễu điều đó.
Đối với học viên người lớn, nên tránh những câu hỏi có tính gài bẫy ví dụ
những câu hỏi mà chúng ta biết chắc họ sẽ trả lời sai. Nếu học sinh đưa ra câu
trả lời sai, giáo viên có thể gợi ý về câu trả lời để giúp học sinh nhìn ra cái sai
của mình. Giáo viên cũng có thể chia quá trình lập luận thành từng những bước
nhỏ để học sinh dễ theo dõi bằng cách đặt ra một loạt những câu hỏi dễ hơn để

dẫn dắt học sinh tiến tới câu trả lời đúng.
- Nếu một học sinh đưa ra câu trả lời ngoài dự kiến, giáo viên không
được bác bỏ thẳng thừng. Giáo viên hãy suy nghĩ về câu trả lời đó. Giáo viên
có thể diễn đạt lại ý của học viên bằng ngôn từ của mình để kiểm tra xem mình
có hiểu đúng hay không, hoặc tìm hiểu xem tại sao học sinh lại có câu trả lời
như vậy. Những câu trả lời ngoài dự kiến có thể là do học viên suy nghĩ theo
một hướng độc đáo, hoặc thậm chí xuất chúng.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh,
giáo viên và học sinh, học sinh. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham
gia của học sinh càng nhiều; học sinh sẽ học tập tích cực hơn. Trong tiết học,
người giáo viên thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm
hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới. Để đánh giá kết quả học tập
của học sinh, học sinh cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm giáo viên
và các học sinh khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ.
Lưu ý khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học.
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
- Đúng lúc, đúng chỗ.
- Phù hợp với trình độ học sinh.
- Kích thích suy nghĩ của học sinh.
- Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích.
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
Khi nêu câu hỏi cho học sinh cần chú ý:
18


- Đưa ra câu hỏi với một thái độ khuyến khích, với giọng nói ôn tồn, nhẹ
nhàng.
- Thu hút sự chú ý của học sinh trước khi nêu câu hỏi.

- Chú ý phân bố hợp lí số học sinh được chỉ định trả lời.
- Chú ý khuyến khích những học sinh rụt rè, chậm chạp.
- Sử dụng câu hỏi mở và câu hỏi đóng phù hợp với từng trường hợp.
- Khi kiểm tra sử dụng câu hỏi đóng.(Ví dụ: Bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
là của học sĩ Tô Ngọc Vân phải không?)
- Khi cần mở rộng ý ta dùng câu hỏi mở.( Ví dụ: Em có nhận xét gì về bức
tranh Thiếu nữ bên hoa huệ?)
- Không nên nêu những câu hỏi quá đơn giản. (Ví dụ : Đối với học sinh lớp
6, 7 mà người giáo viên lại nêu: Các em xem có mấy hình vẽ? Hoặc hỏi học
sinh: Đã hiểu chưa?)
Các câu hỏi theo các cấp độ từ thấp đến cao:
Ví dụ: Em hãy cho biết bức tranh “Tát nước đồng chiêm” của họa sĩ nào? Nội
dung tranh phản ánh điều gì? Em đã nhìn thấy cảnh này trong thực tế chưa? Em
hãy phân tích vẻ đẹp trong tranh? Theo em, bức tranh này có giá trị nghệ thuật
như thế nào?
3.1.3. Kĩ thuật sử dụng bản đồ tư duy:
- Các bước tiến hành:
Bước 1: Viết những ý liên quan tỏa ra từ ý tưởng trung tâm.
Bước 2: Tìm ra những ý tưởng liên quan từ tiêu đề.
Bước 3: Kết nối giữa những ý tưởng lại với nhau.
Có hai cách vẽ bản đồ tư duy: vẽ bằng tay hoặc bằng máy vi tính. Nếu vẽ
bằng tay thì người học chỉ cần một tờ giấy A4 hoặc lớn hơn, một hộp bút màu
loại có đầu nhọn. Còn vẽ bằng máy vi tính thì người học có thể sử dụng các
phần mềm Mind Mapping như phần mềm Mindjet MindManager Pro7 hoặc vẽ
bằng chương trình Microsoft Word. Đối với HS phổ thông thì vẽ bản đồ tư duy
bằng tay sẽ dễ dàng và thiết thực hơn cho việc học. Cụ thể là:
Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề. Từ chủ
đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm,
phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ
viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh

19


chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng
để viết trên các nhánh.
Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung
thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Cách đọc bản đồ tư duy:
Cấu trúc của bản đồ tư duy không xuất phát từ trái sang phải và từ trên xuống
dưới theo kiểu truyền thống. Thay vào đó, bản đồ tư duy được vẽ, viết và đọc
theo hướng bắt nguồn từ trung tâm di chuyển ra phía ngoài và sau đó là theo
chiều kim đồng hồ. Các mũi tên xung quanh bản đồ tư duy
ở hình 2 chỉ ra cách đọc thông tin trong bản đồ và các số thứ tự cũng chính là
thứ tự ghi và đọc các thông tin trong bản đồ.
Phạm vi vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học
Bản đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ
thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì nó giúp giáo viên và HS trong việc trình
bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua sơ đồ, tóm
tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến.
thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới… Sau đây là một
số ứng dụng cụ thể của Bản đồ tư duy trong dạy học ở trường trung học cơ sở:

- Lập kế hoạch
Giáo viên dùng bản đồ tư duy để lập kế hoạch giảng dạy, kế hoạch chủ
nhiệm cho một năm học, một học kỳ, một tháng hay kế hoạch cho một tuần cụ
thể. Còn HS thì có thể xây dựng bản đồ tư duy cho các kế hoạch học tập, cũng
như kế hoạch cho các hoạt động khác như thể dục, thể thao, các hoạt động
ngoại khóa...
- Thảo luận nhóm

Bản đồ tư duy tạo nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy
nghĩ tập trung vào một vấn đề chung cần giải quyết, các ý kiến đưa ra của
mỗi cá nhân đều được liên kết với chủ đề, tránh được hiện tượng lan man và
đi lạc chủ đề. Mọi thành viên trong nhóm đều đóng góp ý kiến và cùng nhau
xây dựng bản đồ tư duy do nhóm mình thiết kế. Ví dụ: Trong bài 11- Lớp 6:
Màu sắc
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm: Em hãy thể hiện nội dung bài học
“Màu sắc” bằng bản đồ tư duy?

20


Hình 3.1: Nội dung bài Màu sắc Lớp 6 được thể hiện bằng sơ đồ tư
duy.
Bản đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một
cách rõ ràng và hệ thống, việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn và
dể thuyết trình được nội dung bài học.
Hoặc qua bài: Tập phóng tranh ảnh Lớp 9. Giáo viên có thể vừa hướng
dẫn cách phóng tranh đồng thời thể hiện bằng bản đồ tư duy lên bảng.

Hình 3.2: Cách phóng tranh ảnh: Cách kẻ ô vuông Trình bày bài giảng
Giáo viên có thể ứng dụng bản đồ tư duy vào trong việc dạy học như
soạn bài giảng, trình bày bài giảng...Sử dụng một bảng đen lớn hay
21


máy chiếu, giáo viên có thể vẽ phần tương ứng của bản đồ tư duy trong khi
đang giảng bài. Cách biểu thị quy trình tư duy như thế sẽ làm rõ cấu trúc bài
học, đồng thời duy trì được sự chú ý của HS, giúp các em nhớ và hiểu bài dễ
hơn, cũng có thể cho HS tự hoàn chỉnh bản đồ tư duy.

- Ghi chép, tóm tắt, hệ thống hóa nội dung bài học, đưa ra các ý tưởng
Học có thể sử dụng bản đồ tư duy để học bài mới hay ghi chép, tóm tắt, hệ
thống hóa nội dung bài học. So với cách ghi chép theo kiểu truyền thống, tức là
ghi chép thông tin bằng cách sử dụng các kí tự và chữ số theo đường thẳng, thì
việc ghi chép bằng công cụ bản đồ tư duy hiệu quả hơn nhiều. Kĩ thuật ghi
chép này cho phép học sinh nhanh chóng ghi lại các ý tưởng bằng các từ khóa,
sắp xếp một cách cơ bản thông tin khi nó được truyền tải và cho học sinh cơ
hội để hình thành những mối liên hệ và liên tưởng. HS cũng có thể tham gia
vào bài học bằng cách bổ sung những suy nghĩ, quan điểm và cảm nghĩ của
chính mình. Đồng thời, trong kĩ thuật ghi chép này, học sinh còn sử dụng cả
màu sắc, hình ảnh để lưu trữ thông tin nên rất dễ nhớ vì đã tận dụng được chức
năng của cả não trái lẫn não phải trong việc ghi nhớ.
Như vậy, bản đồ tư duy có vai trò rất quan trọng trong dạy học và đặc biệt
đổi mới cách tổ chức dạy học của giáo viên đồng thời góp phần bồi dưỡng năng
lực tự học cho học sinh phổ thông phù hợp với các mục tiêu đổi mới phương
pháp dạy học: dạy học theo hướng hoạt động học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động.
3.1.4. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”:
Cách tiến hành:
- Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0
- Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung
quanh. Phân xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ nhóm 4
người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời
câu hỏi / nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào
phân giấy của mình trên tờ A0.

22



Hình 3.3: Mô hình lớp học theo kĩ thuật khăn trải bàn.
- Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống
nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn”.
Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn phủ bàn
- Câu hỏi thảo luận là câu hỏi mở
- Trong trường hợp số học sinh trong nhóm quá đông, không đủ chỗ trên “khăn
phủ bàn”, có thể phát cho học sinh những mảnh giấy nhỏ để học sinh ghi ý
kiến cá nhân, sau đó đính vào phần xung quanh “khăn phủ bàn”.
- Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, đính những ý kiến thống nhất vào
giữa “khăn phủ bàn”. Những ý kiến trung nhau có thể đính chồng lên nhau.
- Những ý kiến không thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ lại
ở phần xung quanh của “khăn phủ bàn”.
Ví dụ:
Yêu cầu học sinh: Nêu đặc điểm của dòng tranh Đông Hồ?
- Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy(khăn phủ bàn) đã chia các phần
cho các thành viên trong nhóm, và phần chung là phần ở giữa.

23


Hình 3.4: Các thành viên trong nhóm đang thảo luận sôi nổi.
- Mỗi cá nhân suy nghĩ, trả lời câu hỏi vào phần giấy của mình trên “khăn phủ
bàn”
- Thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến, ghi kết quả vào giữa “khăn phủ bàn”
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác tham gia phản hồi góp
ý, giáo viên nhận xét kết luận.

Hình 3.5: Nhóm trưởng ghi phần thảo luận chung vào phần giữa
24



4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường .
Từ cách làm trên bài giảng được diễn ra một cách tự nhiên, có trọng tâm.
Giáo viên giữ đúng vai trò là người hướng dẫn điều khiển theo phương pháp
dạy học tích cực. Thu hút được cả tập thể lớp tập trung chú ý, tham gia vào hoạt
động học một cách tích cực, tạo nên không khí lớp học sôi nổi. Học sinh hiểu
bài, hình thành ở các em tính đoàn kết, thi đua để vươn lên trong học tập...
Từ những thực trạng trên tôi đã từng bước đổi mới phương pháp, sử
dụng kĩ thuật trong dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm” và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học từ đó đã đạt được những chuyển biền đáng kể
trong giờ học mĩ thuật. Giờ học có không khí vui tươi, thoải mái hơn , được các
em học sinh ủng hộ hơn.
Để có kết quả trên tôi đã làm nhiều đồ dùng trực quan, luôn có ý thức
sưu tầm tranh ảnh có liên quan đến nội dung để minh hoạ trong các giờ dạy. Đồ
dùng trực quan phải dùng đúng lúc đúng chỗ để đản bảo tính khoa học. Một số
bài tôi con sử dụng cả băng hình, máy chiếu đa năng để chiếu cho học sinh
xem, áp dụng các phương pháp mới từ các đợt học chuyên đề, bồi dưỡng. Từ
những phương pháp mới, thiết bị dạy học hiện đại mà đã tạo được hứng thú
trong từng tiết học.
Từ chỗ chất lượng đầu năm (Năm học 2015 – 2016)
M«n

Sỹ

Điểm thi chất lượng đầu năm

Khối
lớp





Đạt

Chưa đạt

SL

%

SL

%

6

77

65

84.4%

12

15.6%

7

38


30

78.9%

8

10.1%

8

80

67

83.7%

13

16.3%

thuËt

25


×