Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh h’mông ở trường PTDTBT THCS sơn thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ LẬP CHO HỌC SINH H’MÔNG Ở
TRƯỜNG PTDTBT THCS SƠN THỦY

Người thực hiện: Vũ Thị Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Kỹ năng sống

THANH HÓA NĂM 2018


Mục lục
Tên đề mục

Trang

1. Mở đầu

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu



2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông trước khi áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Những nội dung giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở
trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
2.4. Các giải pháp giáo dục kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở
trường PTDTBT THCS Sơn Thủy

4

2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


9

3. Kết luận, kiến nghị

14

3.1. Kết luận

14

3.2. Kiến nghị

14

Tài liệu tham khảo

16

5
5


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Kỹ năng sống là một thành phần quan trọng trong nhân cách con người.
Trong nền kinh tế tri thức, cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn, thử thách để
con người vượt qua. Muốn thành công và sống được trong xã hội hiện đại con
người cần phải có kỹ năng sống. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một yêu cầu
thiết yếu đối với mỗi con người nhằm trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết
để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống.

Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có kế
hoạch nhằm hình thành năng lực hoạt động tích cực, có liên quan đến kiến thức
và thái độ giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực
hiện công việc, thích nghi, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của
cuộc sống (khả năng làm chủ bản thân, chống lại sự cám dỗ của các tệ nạn xã
hội, ứng phó với bạo lực,...). Có thể nói ngắn gọn, giáo dục kỹ năng sống chính
là giáo dục làm người- những con người có thể thích ứng với nhiều hoàn cảnh
và đòi hỏi khác nhau của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống rất cần thiết và quan
trọng đối với học sinh giúp cho học sinh phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm,
giao tiếp, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để các em tự tin trong cuộc
sống.
Hiện nay chúng ta đang hướng tới một nền giáo dục chú trọng phát triển
toàn diện về năng lực, phẩm chất và nhân cách cho học sinh nên việc giáo dục
toàn diện học sinh không chỉ là dạy học trên lớp mà cần xác định sau khi ra
trường học sinh vừa được trang bị vốn kiến thức phổ thông vừa có được những
kỹ năng cần thiết để đi vào cuộc sống và đối diện với những tình huống xảy ra
trong cuộc sống. Trong thực tế, khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung
dạy học trên lớp, giáo viên đều phải xây dựng ba mục tiêu: cung cấp kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc
trong dạy học và giáo viên đều nhận thức được điều này. Tuy nhiên, có thể nói
rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung trong vòng 45
phút nên giáo viên có khuynh hướng tập trung vào việc cung cấp kiến thức mà ít
quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh để các em đi vào cuộc sống. Vì vậy
giáo dục kỹ năng sống trở thành mục tiêu và là một nhiệm vụ trong giáo dục
nhân cách toàn diện.
Bắt đầu từ năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” để áp dụng vào trong các đơn vị
trường học. Một trong năm nội dung của phong trào được quan tâm đó là giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh. Mặt khác, theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục và đào tạo, các phẩm chất và năng lực cần hình thành cho học

sinh được đề xuất ở 6 phẩm chất: (1)Yêu gia đình, quê hương đất nước; (2)Nhân
ái khoan dung; (3)Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư; (4)Tự lập, tự tin, tự chủ;
(5)Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại; (6)Nghĩa vụ
1


công dân và 9 năng lực cụ thể là: (1)Tự học; (2)Giải quyết vấn đề; (3)Sáng tạo;
(4)Tự quản lý; (5)Giao tiếp; (6)Hợp tác; (7)Sử dụng công nghệ thông tin; (8)Sử
dụng ngôn ngữ (trong đó có tiếng Việt, tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài);
(9)Tính toán. Như vậy, tự lập vừa là một phẩm chất, vừa là một kỹ năng cần
được hình thành cho học sinh.
Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy là một trường bán trú. Trong năm học
2017-2018 và các năm học trước đó, số học sinh ở lại trường chiếm 1/3 học sinh
toàn trường mà chủ yếu là các em dân tộc H’Mông thuộc hai bản Mùa Xuân và
Xía Nọi cách trường khoảng 20 km. Tất cả các em đều thuộc gia đình hộ nghèo,
có hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, ít tiếp xúc với các phương tiện thông
tin đại chúng và những người xung quanh.Tuổi tác còn nhỏ lại quen sống trong
sự bao bọc của bố mẹ nhất là các em học sinh lớp 6. Phong tục, tập quán lỗi thời
lạc hậu. Vì vậy, khi xuống học, đến với một môi trường hoàn toàn khác lạ, xa
gia đình tạo ra cho các em tâm lí nhớ nhà, sợ hãi. Mặt khác, các em mang theo
rất nhiều phong tục tập quán lạc hậu; nhiều thói quen trong sinh hoạt tại gia
đình, địa phương còn chưa khoa học; thiếu, yếu các kỹ năng sống cơ bản trong
học tập, lao động, tham gia các hoạt động tập thể và nề nếp sinh hoạt tại khu bán
trú đặc biệt là kỹ năng tự lập như vụng về, lúng túng trong giải quyết công việc,
nhớ nhà, không có tính tự chủ, tự giác,...
Với vai trò là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, giáo viên chủ nhiệm đồng
thời được giao trách nhiệm quản lí học sinh bán trú thông qua các tuần trực, tôi
thấy rằng việc giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông là vô cùng cần
thiết. Vì nó sẽ giúp cho công tác giáo dục toàn diện và các hoạt động khác tại
đơn vị được thuận lợi và đạt được những kết quả cao hơn. Vì vậy tôi chọn đề tài

“Giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS
Sơn Thủy”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi muốn đưa ra biện pháp giáo dục kỹ năng sống tự
lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy giúp các em hình
thành và có những kỹ năng cần thiết cho bản thân để có thể ứng phó và tự giải
quyết các vấn đề khó khăn khi mình gặp phải ngay từ khi các em đang còn ngồi
trên ghế nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà tôi hướng đến trong đề tài này là biện pháp giáo dục kỹ năng
tự lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT THCS Sơn Thủy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi
đã sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
2


Giáo viên tìm hiểu từ nhiều kênh (nhà trường, gia đình, xã hội, bản thân
học sinh, thông tin đại chúng) để thu thập thông tin.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu các tài liệu trên báo đài, mạng intenet về các phương pháp,
cách thức tổ chức giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông.
1.4.3. Phương pháp trắc nghiệm
Sử dụng một số câu hỏi trắc nghiệm để đo mức độ hình thành kỹ năng tự
lập cho học sinh.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm
Áp dụng kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông trong thực tiễn cuộc sống tại
trường và địa phương.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Mỗi sinh vật sinh ra trên Trái đất này đều phải có tính tự lập để sinh sống
và tồn tại. Con người cũng vậy. Nó sẽ quyết định đến nhân cách và tương lai của
một con người. Vậy tự lập là gì? Tự lập có vai trò như thế nào?
Tự lập là tự làm lấy, tự giải quyết công việc của mình, tự lo liệu tạo dựng
cho cuộc sống của mình, không trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại vào người khác. Tự
lập trái ngược với phó mặc, lệ thuộc. Tự lập biểu hiện từ những hành động nhỏ
nhất, gần gũi và bình dị nhất trong cuộc sống. Một người nếu có ý thức tự lập
cao thì ngay từ nhỏ họ đã có thể tự giặt quần áo cho chính mình. Khi đi học, làm
bài gặp bài khó, họ tự suy nghĩ đủ mọi cách để giải được thì thôi, nếu vẫn không
thể ra được, nằm ngoài khả năng của họ thì họ mới nhớ đến trợ giúp của bạn bè,
thầy cô. Ấy cũng đã là tự lập. Chỉ hành vi nhỏ thôi đã có thể biết bạn là người tự
lập hay không. Khi lớn lên rồi, thì tự lập sẽ có biểu hiện phong phú hơn. Nhiều
người khi làm sinh viên đã bắt đầu đi làm thêm kiếm tiền, lấy kinh nghiệm cho
công việc tuơng lai của mình, không phải xin tiền cha mẹ. Khi rơi vào hoàn
cảnh khó khăn, công việc gặp tai ương trắc trở thì họ không dễ gục ngã, nỗ lực
đến cùng để vươn lên cho dù họ biết chỉ cần một cú điện thoại nhỏ để nhờ cậy
cha mẹ giúp đỡ thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhiều người sẽ nghĩ đó là
ngốc nghếch, cái dễ dàng không chọn lại đi chọn cái phức tạp. Đó quả là một
suy nghĩ sai lầm. Việc nhỏ trong khả năng của bản thân còn không làm nổi thì
mãi mãi chỉ biết sống núp dưới cái bóng của người khác.
Tự lập là một đức tính tốt của con người, giúp cho con người sống có bản
lĩnh, tự tin với bản thân mình, chủ động, không trông chờ phụ thuộc một ai.
Chính vì vậy, người có tính tự lập có thể tự quyết định suy nghĩ và hành động
của mình và thường thành công trong cuộc sống. Đối với thế hệ trẻ thì việc tự
lập là một điều vô cùng cần thiết bởi nếu không tự đưa ra quyết định cho bản
3


thân mình thì mãi mãi chúng ta sẽ chỉ là một người chạy phía sau, mất phương

hướng với tất cả mọi điều đang ở phía trước.
Ngày nay ngành giáo dục và đào tạo đã và đang có những định hướng tích
cực để đưa viêcc̣giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy trong từng cấp học nhằm
định hướng những giá trị và tạo lâpc̣hành vi phù hợp với từng lứa tuổi. Chính vì
thế viêcc̣giáo dục kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng tự lập cho học sinh trong nhà
trường THCS nói chung và trường PTDTBT THCS Sơn Thủy nói riêng là hết
sức cần thiết và quan trọng.
2.2. Thực trạng kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông trước khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm
Trường PTDTBT THCS Sơn Thủy hiện nay có số học sinh bán trú là
121/186 học sinh toàn trường. Trong đó, số học sinh ở lại trường là 54 em. Các
em chủ yếu thuộc dân tộc H’Mông. Nhận thức của các em có phần hạn chế; lối
sống, phong tục tập quán lạc hậu. Các kỹ năng sống cần thiết lại yếu kém như:
hạn chế về kỹ năng giao tiếp, lúng túng khi phòng tránh và xử lí tai nạn thương
tật, chưa biết cách phòng và ngăn chặn các tệ nạn xã hội, chưa biết cách tự bảo
vệ để tránh các hủ tục lạc hậu, chưa tự tin hòa nhập vào cuộc sống, chưa hiểu
biết đầy đủ về bản thân, chưa biết cách tự vệ sinh đúng cách, tự bảo vệ bản thân.
Vì là vùng khó khăn nên các em ít có cơ hội được tiếp xúc với sách báo, thông
tin trên mạng internet,... nên phần nào ảnh hưởng đến việc hình thành cho các
em các kỹ năng sống cần thiết cho bản thân trong đó có kỹ năng tự lập. Mặt
khác, do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn nên ngay từ nhỏ các em đã
không được chăm sóc giáo dục đầy đủ; kỹ năng giáo dục của phụ huynh hạn
chế. Cha mẹ các em khi mang con xuống trường phó mặc trách nhiệm cho nhà
trường. Chỉ một số phụ huynh quan tâm đến con em mình nhưng cũng chỉ
xuống thăm các em trong thời gian ngắn.
Khi bước vào môi trường bán trú, các em phải sống trong môi trường tập
thể, xa gia đình, phải tự thân vận động từ học tập đến hoạt động ngoài giờ lên
lớp, thiết lập các mối quan hệ mới cho đến ăn, ở, đi lại,... mà không có sự trợ
giúp của gia đình và cha mẹ. Nếu không có những kiến thức kỹ năng về cuộc
sống cần thiết thì các em sẽ vấp phải những khó khăn nhất định. Khi không thể

giải quyết các vấn đề đó hoặc giải quyết một cách một cách không hợp lí thì
cũng có thể làm cho các em có những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc không theo các
quy chuẩn đạo đức và thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.Cuộc sống bán
trú đòi hỏi các em phải có khả năng sống tự lập rất cao. Chính vì vậy việc rèn
tính tự lập trở thành một yêu cầu vô cùng quan trọng cho các em học sinh bán
trú của nhà trường.
Việc giáo dục kỹ năng tự lập sẽ thúc đẩy những hành vi tích cực, giúp học
sinh bán trú hòa nhập, tự tin hơn trong cuộc sống. Như vậy, giáo dục kỹ năng tự
lập cho học sinh H’Mông ở trường PTDTBT chính là giúp học sinh biến kiến
thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực.
4


2.3. Những nội dung giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở
trường PTDTBT THCS Sơn Thủy
Để các em có tính tự lập, cần tiến hành các nội dung sau:
2.3.1. Rèn luyện tính tự lập trong sinh hoạt hằng ngày
Việc rèn kỹ năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày trước hết đó là việc tự
chăm sóc bản thân. Kỹ năng tự chăm sóc bản thân là khả năng chăm lo cuộc
sống của mình về sức khỏe, tinh thần cũng như vật chất. Hiểu biết về bản thân
và biết quản lý bản thân, không để những cảm xúc tiêu cực của mình ảnh hưởng
tới người khác, tới công việc chung. Các em cần có khả năng tự chăm sóc bản
thân từ ăn ở, đi lại cho đến chi phí sinh hoạt.
Bên cạnh đó, các em cần biết quản lý thời gian của mình. Đó là việc các em
biết sắp xếp công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công
việc trọng tâm trong một thời gian nhất định; tự giác thực hiện thời gian biểu
trong ngày từ giờ học, giờ ăn, giờ ngủ, giờ tham gia các hoạt động ngoài giờ lên
lớp,... Kỹ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt
mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp các em tránh được những căng
thẳng do áp lực. Quản lí thời gian là một trong những kỹ năng quan trong trong

nhóm kỹ năng tự lập. Quản lí thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự thành
công của cá nhân.
2.3.2. Giáo dục tính tự chủ để tự lập trong học tập
Tự chủ là làm chủ bản thân mình trong mọi hoàn cảnh, điều kiên của cuộc
sống. Tự chủ để tự lập trong học tập là biết chủ động thực hiện theo thời khóa
biểu để đến lớp học đúng giờ, chuẩn bị bài vở đầy đủ trước khi đến lớp, có khả
năng độc lập trong nhận thức, sẵn sàng tâm lý đối với việc tự học mà không cần
người khác phải nhắc nhở. Đối với học sinh bán trú, các em sống xa gia đình
nên việc tự chủ trong học tập là một yêu cầu cần thiết giúp các em không phải
phụ thuộc vào người khác.
2.3.3. Giáo dục ý thức lao động tự phục vụ bản thân
Lao động tự phục vụ bản thân là chủ động làm những việc liên quan đến
bản thân mình mà không cần người khác nhắc nhở. Đây là một trong những kỹ
năng quan trọng thúc đẩy các em hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Đây cũng
là cơ hội giúp các em nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống.
Thiếu kỹ năng này, các em sẽ dẫn đến việc lười biếng, thụ động và kó khăn khi
tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy chúng ta cần rèn luyện cho các
em kỹ năng này ngay từ những việc làm nhỏ nhất như tự gấp chăn màn khi ngủ
dậy, tự giặt quần áo đến việc tự trồng rau để đảm bảo cuộc sống của mình,...
2.4. Các giải pháp để rèn luyện kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở
trường PTDTBT THCS Sơn Thủy

5


Trước thực trạng về kỹ năng tự lập của học sinh H’Mông ở trường
PTDTBT THCS Sơn Thủy đang còn hạn chế, để nâng cao được kỹ năng tự lập
cho các em, tôi đã đề xuất với nhà trường thực hiện các giải pháp sau:
Giải pháp thứ nhất: Trang bị kiến thức về kỹ năng tự lập cho cán bộ giáo viên - nhân viên đặc biệt là học sinh H’Mông.
Cán bộ- giáo viên- nhân viên nhà trường cần tìm hiểu các tài liệu nghiên

cứu về kỹ năng tự lập để nắm chắc cơ sở lí luâṇcho viêcc̣rèn luyện đối với học
sinh bán trú; tìm hiểu và nắm rõ các phong tục tập quán của dân tộc H’Mông tại
địa phương; hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các em học sinh H’Mông.
Các em học sinh cần phải hiểu sự cần thiết phải có tính tự lập, có sự nỗ lực,
bền bỉ, có ý chí mạnh mẽ để vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách. Các em
cần phải suy nghĩ xem mình cần phải làm gì để có cuộc sống tự lập.
Giải pháp thứ hai: Tăng cường vai trò quản lí, giảm sát của Ban giám
hiệu nhà trường, các tổ chức đoàn thể (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh). Ngay từ đầu năm học, ban
giám hiệu nhà trường đã tiến hành họp với người đứng đầu trong các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường để xây dựng kế hoạch hoạt động cho khu bán trú
trong cả năm học theo từng tháng, nội quy khu bán trú, thành lập Ban quản lí
khu bán trú, xây dựng các chủ điểm hoạt động dành cho các em học sinh. Giao
cho người đứng đầu quản lí khu bán trú lên lịch trực để theo dõi hoạt động của
các em trong từng tuần; chia phòng, cử ra tổ trưởng, tổ phó của khu, tổ trưởng,
tổ phó của từng phòng; mỗi tuần tiến hành đánh giá các hoạt động của các em
thông qua họp giao ban vào tối thứ 2 hàng tuần về ưu, nhược điểm, đặc biệt
tuyên dương những học sinh có ý thức rèn luyện, chấp hành tốt nội quy.
Giải pháp thứ ba: Bố trí các giáo viên, nhân viên có khả năng, có kinh
nghiệm hướng dẫn và quan sát cụ thể việc rèn luyện kỹ năng tự lập cho các em
tại khu bán trú thông qua các hoạt động: vệ sinh sân trường, phòng ở, quản lí
thời gian học buổi chiều, tối, tăng gia sản xuất (trồng rau), tuyên truyền chăm
sóc sức khỏe bản thân, giáo dục giới tính đặc biệt là giáo dục sức khỏe sinh sản
vị thành niên cho các em học sinh nữ, các hoạt động vui chơi giải trí để tìm ra
các giải pháp tác động vào học sinh giúp các em hình thành nhóm kỹ năng quản
lí bản thân; luyện cho học sinh tập cách tự suy nghĩ và quyết định cho bản thân.
Xây dựng nề nếp tự học cho học sinh bán trú: học đúng giờ, có kế hoạch, có
phương pháp học tập, có kết quả cụ thể. Tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu
của bản thân để phát huy tối đa sở trường và hoàn thiện chính mình; giúp các em
tập quản lý quỹ thời gian của mình bằng việc tự lên kế hoạch thực hiện các công

việc với những thời gian định trước, vào cuối ngày, ghi chép lại các công việc đã
hoàn thành, từ đó điều chỉnh cho phù hợp.
Giải pháp thứ tư: Tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể như sinh hoạt
dưới cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa, công tác đoàn - đội;
tổ chức, hướng dẫn, vận động, thu hút học sinh tham gia các hoạt động văn hóa,
6


văn nghệ, thể dục thể thao thông qua các buổi giao lưu, hội thi (kéo co, đá bóng,
bóng chuyền, văn nghệ, hoa điểm tốt,... trong các ngày lễ); tổ chức các trò chơi
dân gian mang màu sắc địa phương (ném còn, to lẹ, đi cà kheo,...); tạo ra các
tình huống có vấn đề để học sinh được trải nghiệm; nói chuyện theo chủ đề. Tổ
chức cho các em ăn ở, học tập, sinh hoạt theo tập thể; lồng ghép, tích hợp giáo
dục các kỹ năng sống nói chung đặc biệt là kỹ năng tự lập nói riêng vào các tiết
dạy.

Các em học sinh chơi ném còn, tham gia giao lưu văn nghệ.
Giải pháp thứ năm: Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng
tự lập cho học sinh thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tiễn. Giao cho học
sinh những công việc cụ thể để các em tự chịu trách nhiệm về những việc làm
của bản thân; phân chia công việc theo nhóm, phòng một cách hợp lí; tổ chức
học tập buổi hai trên lớp vào các buổi chiều hoặc buổi tối dưới sự quản lí, hướng
dẫn của các thầy cô giáo trực ban, từ đó tạo ra nề nếp cho các em; tổ chức lao
động vệ sinh trong toàn khuôn viên nhà trường và khu vực quanh nhà trường.
Vào các buổi chiều (16giờ) và buổi sáng (6 giờ), các em bán trú đánh trống tập
hợp lao động dọn vệ sinh có sự giám sát của giáo viên trực và học sinh làm
trưởng khu. Thông qua các hoạt động này giáo dục các em biết bảo vệ môi
trường, giữ gìn môi trường sống, cảnh quan môi trường sư phạm. Có kỹ năng
lao động cần thiết giúp các em hiểu thêm về giá trị của sức lao động. Đồng thời
rèn luyện kỹ năng hợp tác làm việc theo nhóm; tổ chức các hoạt động thể dục

thể thao vào các buổi chiều: chơi bóng đá, bóng chuyền,... Thông qua các hoạt
động thể thao rèn luyện sức khỏe bản thân và làm tăng sự nhanh nhẹn; tổ chức
cho các em hình thành thói quen tự phục vụ bản thân thông qua hoạt động tăng
7


gia sản xuất như trồng rau; phụ giúp với nhân viên nhà bếp trong nấu ăn (nhặt
rau, rửa rau, vo gạo, rửa bát, sắp xếp mâm ăn, lấy củi,...)
Thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế các công việc hàng ngày, học sinh
sẽ dần hình thành cho mình những kỹ năng cần thiết để vận dụng một cách chủ
động, sáng tạo và hiệu quả khi gặp tình huống tương tự.

Các em học sinh quét dọn sân trường và phòng ở vào các buổi sáng.

Các em học sinh lấy củi cho việc nấu ăn.
8


Giải pháp thứ năm: Tăng cường công tác phối hợp nhà trường với gia
đình và xã hội. Nhà trường, gia đình, xã hội được xem là “tam giác” giáo dục
quan trọng đối với mỗi học sinh. Ngoài việc giáo dục trong nhà trường, còn cần
có giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà
trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục
trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn. Trong việc giáo
dục kỹ năng tự lập cho học sinh cần thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp
giữa ba môi trường, nhà trường, gia đình và xã hội. Cụ thể:
Nhà trường cần thường xuyên liên hệ với gia đình các em qua các buổi họp
phụ huynh nhà trường, họp phụ huynh khu bán trú. Thông qua các buổi họp phụ
huynh trao đổi thông tin học sinh. Công việc này cần được thực hiện thường
xuyên, liên tục ở mọi thời điểm.

Gia đình chủ động phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
cho con em mình, tránh tư tưởng ỷ lại, khoán trắng giáo dục học sinh cho nhà
trường; tạo điều kiện cho con em được học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt
động của trường và xã hội; không để con em bỏ học, trốn học về nhà; quan tâm
nâng cao văn hóa gia đình; cha mẹ phải là tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Các tổ chức, đoàn thể địa phương cần tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho nhà trường, gia đình giúp đỡ các em học tập và rèn luyện. Tổ chức các
hoạt động sinh hoạt cộng đồng; nắm bắt tình hình học sinh bỏ học, hỗ trợ và
biểu dương học sinh nghèo vượt khó về vật chất, tinh thần thông qua các loại
quỹ khuyến học, khuyến tài; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, an toàn.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi tiến hành giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh bán trú trường
PTDTBT THCS Sơn Thủy, tôi nhận thấy các em hào hứng trong việc tích lũy và
áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế.
Trên thực tế, học sinh bán trú trường PTDTBT THCS Sơn Thủy đã có
những kỹ năng cần thiết trong việc tự lập. Các em có thể tự tổ chức nấu cơm tập
thể vào các ngày cuối tuần khi vắng nhân viên nhà bếp; tự trồng và chăm sóc rau
xanh tốt trên những mảnh đất trống của nhà trường để bổ sung thêm rau xanh
cho bữa ăn của mình; các em tự sắp xếp thời gian của mình hợp lí để giải quyết
các công việc trong ngày mà không cần có sự hướng dẫn của các thầy cô giáo.
Các em đã tự nhận thức và khẳng định được bản thân mình, tự tin và phát triển
bản thân. Qua các hoạt động đó các em đã có lối sống nề nếp hơn, phòng ở gọn
gàng ngăn nắp, mọi sinh hoạt tuân theo thời gian biểu quy định, biết giữ gìn vệ
sinh chung và vệ sinh cá nhân. Do đó trong năm vừa qua số các ca bệnh trong
học sinh bán trú tại trường giảm hẳn.
Thông qua việc thực hiện tốt nề nếp học tập, ý thức tự học các em ngày
càng nâng cao, các em thấy được tầm quan trong trong viêcc̣nâng cao nhâṇthức
9



và phải có thói quen tự học và tự giác học tâpc̣. Qua đó, nhiều học sinh bán trú đã
có kết quả học tâpc̣tốt hơn so với năm trước.
Kết quả khảo sát thực tế:
* Khối 6
Tổng số HS
H’Mông

11

Nội dung khảo sát
Lập kế hoạch
và giải quyết
công việc

Tham gia
các hoạt
động

Tự chăm sóc
bản thân

Kìm nén cảm
xúc

SL

%

SL


%

11

100

7

63,6

SL

%

SL

8

72,7

9

%

* Khối 7
Tổng số HS
H’Mông

13


Nội dung khảo sát
Lập kế hoạch
và giải quyết
công việc

Tham gia
các hoạt
động

Tự chăm sóc
bản thân

Kìm nén cảm
xúc

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


10

76,9

11

84,6

13

100

9

69,2

* Khối 8
Tổng số HS
H’Mông

16

Nội dung khảo sát
Lập kế hoạch
và giải quyết
công việc

Tham gia
các hoạt

động

Tự chăm sóc
bản thân

Kìm nén cảm
xúc

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

14

87,5

14


87,5

16

100

14

87,5

* Khối 9
Tổng số HS
H’Mông
11

Nội dung khảo sát
Lập kế hoạch
và giải quyết
công việc

Tham gia
các hoạt
động

Tự chăm sóc
bản thân

Kìm nén cảm
xúc


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

10

90,9

10

90,9

11

100

10


90,9
10


* Về kết quả học tập học kì 1 năm học 2017- 2018

Tổng số HS
51

Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém H’Mông
SL
0

% SL
0

9

%

SL

17,6 41

%
80,4

SL

%


SL

%

1

2,0

0

0

* Một số hình ảnh thể hiện kết quả tự lập của học sinh.

Các em học sinh H’Mông tự học ngoài giờ học trên lớp.

Các em học sinh tự nấu ăn vào ngày cuối tuần.
11


Các em học sinh tự giặt quần áo cho mình.

Tự chăm sóc sức khỏe bằng việc rửa tay trước khi ăn cơm và mắc
màn trước khi ngủ.
12


Vườn hoa, rau do các em học sinh trong khu bán trú trồng và chăm sóc.


Thầy Nguyễn Viết Năm- Hiệu trưởng nhà trường trao phần thưởng cho
các em học sinh khu bán trú đạt điểm cao trong cuộc thi hoa điểm tốt
13


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Viêcc̣rèn kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông có ý nghĩa rất quan trọng
không chỉ đối với các trường có học sinh ở bán trú, nội trú nói chung, học sinh
H’Mông trường PTDTBT THCS Sơn Thủy. Vì ngoài việc trang bị kiến thức cho
các em ra thì việc rèn luyện các kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng tự lập mang ý
nghĩ quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục vùng cao. Thông qua việc
giáo dục kỹ năng tự lập giúp các em cứng cáp hơn, tự tin và trưởng thành hơn.
Từ đó các em có thể đạt được những thành công trong cuộc sống sau này. Qua
việc giáo dục kỹ năng tự lập cho các em tôi nhận thấy đòi hỏi cần phải:
Đối với học sinh: Các em cần nhận thức được vai trò cần thiết phải trang bị
và tự trang bị các kiến thức kỹ năng sống nhằm bổ sung cho bản thân được các
kỹ năng sống tối thiểu mà trước đây các em không để ý tới trong đó có kỹ năng
tự lập. Thông qua viêcc̣rèn kỹ năng tự lập, các em sẽ có ý thức tốt hơn trong học
tâp;c̣ thể hiêṇđược bản thân dám đấu tranh với thói hư tâṭxấu và mạnh dạn lên án
thói hư tâṭxấu, biết phân biêṭđúng sai và dám chịu trách nhiêṃ viêcc̣ mình làm;
biết cách tham gia vào các hoạt động xã hội một cách tự nguyện và có hiệu quả;
đặc biệt là tự tin về bản thân mình.
Đối với giáo viên: phải nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc rèn luyện
kỹ năng tự lập cho học sinh bán trú. Thường xuyên tự học tự bồi dưỡng về
phương pháp rèn kỹ năng tự lập cho học sinh qua các kênh thông tin. Viêcc̣rèn kỹ
năng tự lập cho học sinh bán trú phải thường xuyên, phối kết hợp, lồng ghép
việc giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh trong mọi hoàn cảnh (trong các tiết
học chính khóa, ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, trong cuộc sống hàng ngày). Các
thầy cô giáo cần phải nghiên cứu kỹ các giải pháp đã đưa ra một cách phù hợp

nhất với đối tượng giáo dục của mình.
Giúp cho học sinh bán trú có được kỹ năng sống tốt hơn là viêcc̣làm không
thể thiếu được của các thầy, cô giáo mà nó còn thể hiêṇlương tâm trách nhiêṃ
của các nhà giáo. Vì vậy mỗi thầy cô giáo hãy bắt đầu từ kỹ năng đơn giản, phù
hợp nhất với các em, các em sẽ biết cách thay đổi bổ sung, điều chỉnh. Đó không
những là một hoạt động giáo dục đơn thuần mà còn là cả một nghĩa cử cao cả
đầy tính nhân văn.
Ngay từ khi đưa ra đề tài này Ban giám hiệu nhà trường, Hội đồng sư phạm
nhà trường đã cùng nhau thảo luận và đã thống nhất sẽ áp dụng kinh nghiệm này
tại đợn vị. Qua việc áp dụng, tôi nhận thấy kinh nghiệm mang lại những kết
quảkhả quan. Nếu thêm thời gian kiểm chứng và hoàn thiện tôi tin rằng kinh
nghiệm này sẽ áp dụng có hiệu quả không chỉ tại đơn vị mà còn có thể phổ biến
ở các trường PTDTBT vùng cao
khác. 3.2. Kiến nghị
14


Qua viêcc̣nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng tự lập tại
trường PTDTBT THCS Sơn Thủy tôi mạnh dạn đưa ra môṭsố kiến nghị sau:
Đối với Phòng giáo dục: Thường xuyên mở các chuyên đề bồi dưỡng cho
giáo viên về việc thực hiêṇrèn kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng tự lập cho học
sinh.
Đối với quản lý cấp trường: cần tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch giáo dục kỹ
năng sống đã đề ra. Có tổng kết đánh giá kinh nghiệm và có hướng khắc phục
hạn chế. Đa dạng hóa và tổ chức nhiều hình thức hoạt động để giáo dục kỹ năng
cho học sinh.
Đối với các thầy, cô giáo: cần quan tâm thực hiện, giúp đỡ, rèn kỹ năng
tự lập cho học sinh bán trú từ những hoạt động đơn giản, nhỏ nhất trong cuôcc̣
sống hàng ngày.
Từ kinh nghiệm trong việc giáo dục kỹ năng tự lập cho học sinh H’Mông ở

trường PTDTBT THCS Sơn Thủy, bản thân tôi rất mong nhận được sự ủng hộ,
góp ý của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, Hội đồng khoa học
ngành Giáo dục và Đào tạo Quan Sơn để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn
thiện hơn và sẽ được áp dụng rộng rãi, có hiệu quả.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 15 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Vũ Thị Huệ

15


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Lưu Thu Thủychủ biên)
2. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS - Tài liệu tập huấn thuộc dự án
Giáo dục THCS vùng khó khăn nhất.
3. Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động ngoài giờ lên lớp - NXB Giáo dục
Việt Nam.
4. Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh THCS-NXB Đại học QG
Hà Nôị
5. Mạng internet

16




×