Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế khủng hoảng tiền tệ mexico năm 1994 và bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.06 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG I. DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ

5

MEXICO 1994
1.1.

Tình hình kinh tế thế giới và Mexico trước khủng hoảng 1994

1.1.1. Những chuyển biến trong đầu tư quốc tế và thị trường tài

5
5

chính toàn cầu
1.1.2. Những chính sách kinh tế của Mexico trước năm 1988

6

1.1.3. Những cải cách về kinh tế tài chính ở Mexico từ năm 1988

7

1.2.

Diễn biến cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994



CHƯƠNG II. NGUYÊN NHÂN VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ GIẢI

11
14

THÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ MEXICO 1994
2.1.

Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994

14

2.1.1. Sự yếu kém nội tại của nền kinh tế

14

2.1.2. Bất ổn chính trị đầu năm 1994

17

2.1.3. Những mâu thuẫn trong các chính sách vĩ mô

19

2.2.

19

Mô hình kinh tế giải thích cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico

1994

2.2.1. Mô hình của Krugman

19

2.2.2. Mô hình Flood Gerber

22

CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ SAU KHỦNG HOẢNG

25

CỦA MEXICO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM
2


3.1. Biện pháp đối phó sau khủng hoảng của Mexico

25

3.1.1. Gói tài chính cứu trợ khẩn cấp

25

3.1.2. Thay đổi trong chính sách tài khóa

26


3.1.3. Thay đổi chính sách tiền tệ

27

3.2. Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam

28

3.2.1. Cán cân vãng lai

30

3.2.2. Cân đối kinh tế vĩ mô

31

3.2.3. Chế độ tỷ giá

31

3.2.4. Yếu kém trong quản lý và hiện tượng đầu cơ

32

3.2.5. Minh bạch hóa mọi thông tin tài chính tiền tệ

33

KẾT LUẬN


35

TÀI LIỆU THAM KHẢO

36

3


LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Mexico là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ
15 trên thế giới. Sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một
loạt cải cách giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng trở lại trong
khi Peso Mexico lại được neo vào đô la Mỹ đã dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so
với đô la Mỹ. Đầu thập niên 1990, hiện tượng này diễn tiến nhanh chóng.
Mexico thực hiện chương trình tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, thu hút
được rất nhiều các dòng vốn nước ngoài vào thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đến
năm 1994 đồng tiền Peso đã lâm vào tình trạng mất giá, chính phủ do phải chịu
thâm hụt cán cân thương mại khổng lồ, các dòng vốn quốc tế rút ra khỏi Mexico
trước sự yếu kém của nền kinh tế và những rủi ro về chính trị ngày một tăng cao
nên đã không thể giữ được tỷ giá neo giữa đồng Peso và đồng đô la Mỹ. Cuộc
khủng hoảng này không chỉ làm cho kinh tế Mexico chao đảo, mà còn ảnh
hưởng tiêu cực tới kinh tế các nước Mỹ Latin khác. Bên cạnh đó, năm 1994 đã
xảy ra hiện tượng lãi suất quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh
danh mục đầu tư của mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát
triển. Hai xu hướng trên đã kết hợp với nhau tạo nên sự rút vốn ồ ạt khỏi
Mexico. Có thể nói trong lịch sử, đây là cuộc khủng hoảng tiền tệ tồi tệ nhất kể
từ thập niên 30. Vậy nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là do đâu?
Chính phủ Mexico đã có những giải pháp như thế nào để giải quyết khủng hoảng

nền kinh tế nước nhà? Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam là gì? Để làm rõ
nhưng câu hỏi trên, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “Khủng hoảng tiền tệ
Mexico năm 1994 và bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam”. Do hạn
chế về nguồn tài liệu và thời gian nghiên cứu nên bài tiểu luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót nên rất mong nhận được những ý kiến đóng góp.


CHƯƠNG I: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ MEXICO
NĂM 1994
1.1. Tình hình kinh tế thế giới và Mexico trước khủng hoảng 1994
1.1.1. Những chuyển biến trong đầu tư quốc tế và thị trường tài chính
toàn cầu
Do có tác động của sự mở cửa nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài, mà
nhiều nước đang phát triển đã có những thành tựu đáng kể về thu hút vốn đầu tư
nước ngoài trong suốt nửa đầu của thập niên 90. Dòng vốn đổ vào những quốc
gia này là khoảng $40 tỷ trong năm 1990, đạt đến con số kỷ lục là 155 tỷ đô la
vào 1993. Tại những nền kinh tế mới nổi ở bán cầu Tây, dòng vốn càng được tập
trung nhiều hơn ở lĩnh vực lợi tức nhạy cảm, danh mục thanh khoản cao. Từ
1990-1994, những khoản đầu tư này chiếm đến 66% dòng vốn đổ vào và so với
đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ đạt 30%. Sự tăng lên mạnh mẽ dòng vốn đầu tư
vào những nền kinh tế mới nổi này là do những nguyên nhân chính sau đây:
• Các quốc gia đang phát triển đã tái cấu trúc những khoản nợ ngân hàng
thương mại và thực hiện đầy đủ những chính sách vĩ mô, đáng kể là sự cải cách
trong lĩnh vực tài chính như là dỡ bỏ những hàng rào trong lưu chuyển vốn giữa
các nước.
• Hàng rào biên giới quốc gia và giao dịch ngân hàng có chi phí thấp hơn
và ngày càng dễ tiếp cận hơn.
• Những nhà đầu tư thể chế - quĩ dự trữ, công ty bảo hiểm, quĩ hưu trí, các
ngân hàng và cơ quan chứng khoán đa dạng hóa danh mục đầu tư nước ngoài của
mình.


6


• Lãi suất đầu tư giảm ở những quốc gia công nghiệp phát triển, như Mỹ,
đã làm tăng tính hấp dẫn củanhững khoản đầu tư lợi suất cao của những nền
kinh tế mới nổi.
1.1.2. Những chính sách kinh tế của Mexico trước năm 1988
Từ giữa thập kỉ 70 cho đến cuối thập kỉ 80, Mexico lâm vào vòng tròn
luẩn quẩn của lạm phát và phá giá tiền tệ, khó có thể quay trở lại phát triển kinh
tế. Kiềm chế lạm phát và phục hồi nền kinh tế trong đó chính sách ổn định tỷ giá
là một ưu tiên hàng đầu đối với chính phủ nước này. Từ 1954 đến 1976, Mexico
duy trì tỷ giá cố định Peso/ đô la Mỹ là 12.5. Thời kì này đi cùng với kỉ nguyên
của sự phát triển đáng kể nền kinh tế với chỉ số lạm phát vừa phải. Tuy nhiên, từ
những năm 1972, đồng Peso suy yếu mạnh bởi thiếu hụt tài khoản vãng lai và
tăng lên của lạm phát. Cho đến tháng 12/1976, sức ép tăng lên của cán cân thanh
toán và sự tháo chạy của nguồn vốn ngoài tầm kiểm soát đã làm phá giá đồng
Peso. Cho đến cuối năm, tỷ giá này lên đến 21 Peso trên 1 đô la, tỷ lệ lạm phát là
60%. Mexico lâm vào cuộc suy thoái trầm trọng. Dưới sự quản lý của tổng thống
José Lopez Portillo (1976-82), đồng nội tệ càng bị mất giá hơn nữa, lên đến
27.25 Peso 1 đô la. Trong thời kì này, giá dầu tăng đột biến đã khiến chính phủ
Mexico mất khả năng trong thực hiện chính sách khôi phục kinh tế, phải vay 1
lượng lớn từ nước ngoài. Từ 1982, giá dầu trên thế giới giảm, nợ nước ngoài của
Mexico cũng giảm bớt. Đối mặt với sự giảm sút quỹ dự trữ ngoại hối và những
dòng vốn đầu tư khổng lồ, một lần nữa những nhà quản lý phải phá giá đồng
Peso. Lần này, đồng Peso bị phá giá xuống 500% so với đô la. Đất nước này lại
lao vào nền kinh tế thảm khốc và khủng hoảng tài chính. Lạm phát lên đến trên
60%, ngân hàng cạn kiệt dự trữ ngoại hối, và sang tháng 8, Mexico tạm thời
ngừng thanh toán gốc trên những khoản nợ nước ngoài. Vào tháng 9, hệ thống
ngân hàng được quốc gia hóa, và tỷ giá bắt đầu được điều chỉnh, và đến cuối

7


năm thì giảm xuống còn 160 Peso 1 đô la. Dưới sự điều khiển của tổng thống
Miguel de la Madrid (1982-88), Mexico đã thích nghi với chính sách tỷ giá kép –
một loại tỷ giá có điều khiển cho hàng hóa thương mại và những khoản nợ chính
thức, và 1 loại tỷ giá tự do cho những giao dịch khác. Tỷ giá có kiểm soát bị mất
giá theo từng ngày dưới sự suy xét cẩn thận của chính phủ Mexico. Dần dần, tỷ
giá có kiểm soát chuyển gần đến tỷ giá thả nổi. Cho đến cuối năm 1986, hai tỷ
giá này tương đương nhau, khoảng 920 Peso 1 đô la. Dưới thời của tổng thống
de la Madrid, việc thanh toán những khoản nợ khổng lồ được ưu tiên lớn.
Mexico trở thành nhà xuất khẩu vốn ròng. Nền kinh tế mất dần những nguồn tài
chính chủ yếu và phát triển kinh tế ngừng trệ với gánh nặng phá giá đồng nội tệ
và những khoản nợ trong và ngoài nước cũng như áp lực lạm phát đối với nền
kinh tế. Giữa năm 1987, Mexico lại đối mặt với khủng hoảng lạm phát với giá cả
tăng mạnh. Tháng 11, các ngân hàng Mexico ngừng can thiệp vào thị trường
ngoại hối, và tiền mặt giảm giá mạnh ở mức 3000 Peso trên 1 đô la. Lại 1 lần
nữa, thị trường chứng khoán ngừng trệ và chỉ số lạm phát lên đến 159%.
1.1.3. Những cải cách về kinh tế tài chính ở Mexico từ năm 1988
Từ năm 1988, chính phủ Mexico bắt đầu nỗ lực cải cách toàn diện để nền
kinh tế mở cửa, hiệu quả và cạnh tranh hơn.
• Hiệp định Pacto giúp ổn định tỷ giá được coi như một biện pháp
nhằm kiềm chế lạm phát
Ổn định tỷ giá là 1 trong những nội dung của hiệp định giữa chính phủ với
người làm công và khu vực doanh nghiệp để làm tăng lên sự đồng lòng của
người dân với những cải cách kinh tế. Hiệp định 3 bên này được biết đến với tên
gọi “Pacto”, cung cấp nền tảng cho chính sách kinh tế mới.

8



Theo như Pacto, từ tháng 3 đến tháng 12/ 1988, tỷ giá peso/đô la được cố
định. Tuy nhiên, trong năm 1989, tỷ giá cố định đã bị cấm và thay vào đó là 1 tỷ
giá linh hoạt hơn, cho phép sự phá giá dần của đồng peso so với đồng đô la. Hệ
thống linh hoạt này đã khiến cho đồng peso theo từng năm mất giá dần 16.7%
vào năm 1989, 11.4% năm 1990, và 4.5% năm 1991. Bắt đầu từ tháng 11/1991,
tỷ giá peso/đô la được cho phép dao động trong 1 giới hạn mở rộng từng ngày.
Giới hạn này cho phép tỷ lệ mất giá của đồng peso so với đồng đô la là từ 0.0002
- 3.05 peso trên 1 đô la.Tỷ lệ mất giá này vào năm 1992 là 2.9%. Tháng 10/1992,
giới hạn trần của tỷ lệ này là 0.0004 peso/đô la. Điều đó đã làm tỷ lệ mất giá này
vào năm 1993 là 4.5%. Vì vậy, từ cuối 1991 cho đến tháng 8/1994, tỷ giá
peso/đô la mất giá trong khoảng từ 3.08 – 3.24 pes o trên 1 đô la.
• Sự nâng giá đồng Peso
Chiến lược Pacto đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát, giảm chỉ số
lạm phát từ 159% năm 1987 xuống còn 8% năm 1993. Tuy nhiên, trong khi chỉ
số này giảm ở Mexico thì ở Mỹ, chỉ số lạm phát lại tăng tương đối. Vì vậy, tỷ giá
peso/đô la lại tăng dần lên, mặc dù ở thời kì trước, đồng peso bị phá giá. Điều
này đã gây ra những cách nhìn nhận khác nhau. Một số nhà phân tích kinh tế
tranh luận rằng, cho đến 1994, đồng peso được định giá cao và cần thiết phải phá
giá nó nếu muốn có 1 nền kinh tế phát triển. Mặt khác, những nhà tài chính chủ
chốt ở Mexico thì lại cho rằng pes o không bị định giá cao, bằng chứng là xuất
khẩu của Mexico vẫn tăng mạnh mẽ.
• Sự mở cửa đối với hoạt động đầu tư nước ngoài ở Mexico
Vào tháng 5 năm 1989, Mexico đã thiết lập một loạt các quy định mới về đầu
tư nước ngoài nhằm khắc phục những hạn chế trong việc sở hữu nước ngoài và
đầu tư vào Mexico. Những quy định mới đã giúp làm tăng khả năng đầu tư tới
9


100% sở hữu nước ngoài. Bên cạnh đó quy định mới không yêu cầu nhà đầu tư

phải được sự phê chuẩn của chính phủ Mexico. Từ năm 1989 đến đầu năm 1990
đã có sự thay đổi trong các quy định về quản lý đầu tư nước ngoài vào hóa dầu,
ngân hàng quốc doanh và bảo hiểm. Sau quyết định tái cổ phần hóa các ngân
hàng được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã làm giảm những rào cản của dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào các định chế tài chính như việc nâng tỷ lệ vốn góp
nước ngoài trong những công ty như môi giới nhà đất, tập đoàn tài chính và ngân
hàng lên tới 30%.
• Những cải cách của Mexico thu hút đầu tư
Những cải cách ở lĩnh vực tài chính đã thu hút nguồn vốn rất lớn đổ vào
Mexico vào những năm đầu thập niên 90, đặc biệt là 93 tỷ USD từ năm 1990 tới
năm 1993( theo IMF). Tuy nhiên dòng vốn nước ngoài 60% đi vào Mexico theo
hình thức đầu tư gián tiếp (tập trung chủ yếu vào khu vực tài chính tư) chỉ có 18%
theo hình thức đầu tư trực tiếp. Luật thị trường chứng khoán Mexico tháng 12 năm
1989 mở đường cho nguồn vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ được tiếp cận thị
trường vốn trong nước và ngay sau đó đã chiếm 6% tổng nguồn vốn. Từ năm 1990
đến năm 1993 thị trường vốn đã thu hút 23 tỷ USD đầu tư nước ngoài. Vào cuối
giai đoạn này 27% vốn trên thị trường vốn là của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ
việc lãi suất tăng, trái phiếu doanh nghiệp cũng trở nên hấp dẫn thu hút được 14 tỷ
trong cùng kỳ.

• Luật thương mại được nới lỏng
Trong suốt 10 năm trở lại đây thì Mexico đã từng bước thay đổi cải cách hệ
thống quản trị thương mại trong quốc tế và khu vực. Cuộc cải tổ này diễn ra vào
giữa năm 1985 và tới năm 1986 luật thương mại được sửa đổi mở đường vào
10


GATT( General Agreement on Taiffs and Trade). Vào tháng 12 năm 1987, luật
thuế ban hành giảm mức cao nhất của tất cả các loại thuế xuống 20%. Dẫn tới
hơn 90% sản phẩm quốc nội được bảo hộ bởi hệ thống giấy phép nhập khẩu

trước cải cách đã giảm nhanh xuống còn 20%.
• Nhiều các hiệp định thương mại được ký kết
Trong suốt 1 thập niên qua Mexico đã có nhưng bước tiến đáng kể trong việc
mở rộng thương mại quốc tế. Trước năm 1982, sự cạnh tranh với doanh nghiệp
nước ngoài gần như là không có bởi các rào cản thuế quan và phi thuế quan.
Nhưng kể từ năm 1986 khi chính thức trở thành thành viên của GATT, Mexico
từng bước gỡ bỏ các bảo hộ cho hàng hóa trong nước, đồng thời ký kết các hiệp
ước song phương và đa phương phát triển các mối quan hệ thương mại với
những quốc gia khác trong cùng tổ chức. Từ năm 1992, Mexico đã ký các hiệp
ước tự do hóa thương mại với các nước Châu Mỹ La tinh bao gồm: Chile, Cos ta
Rica, Salvador, Guatemala, Honduras và Nicaragua. Mexico cũng tăng cường
phát triển các mối quan hệ thương mại tốt đẹp với các khu vực kinh tế khác bên
ngoài Châu Mỹ La Tinh như: 11/1993 Mexico tham gia APEC – Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, 4/1994 Mexico trở thành thành viên thứ 25
của OECD tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Vào tháng 1 năm 1994, Mexico
có được 1 bước tiến quan trọng khi cùng với Mỹ và Canada thành lập khu
thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực tự do hóa thương mại lớn nhất với
380 triệu người sản xuất khoảng 8000 tỷ USD giá trị hàng hóa và dịch vụ. Nhờ
đó mà những nhà cung cấp dịch vụ tài chính của Mỹ đã tiếp cận được thị trường
Mexico với những quyền lợi như với những nhà đầu tư trong nước. Theo ITC
(international trade commission) NAFTA trong năm đầu tiên đạt được sự phát
triển mạnh mẽ về thương mại và tăng cao về vốn. Ngân hàng của Mexico đều
nhấn mạnh sự tăng trưởng vượt bậc trong tất cả những giao dịch thương mại
11


giữa Mexico và các nước thành viên. 50% kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ là
sang Mexico. Từ sau khi là thành viên của NAFTA Mexico bắt đầu tiến trình 15
năm từng bước xóa bỏ hàng rào thương mại lên hàng hóa dịch vụ và nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994
• Ngày 1 tháng 1 năm 1994, lực lượng vũ trang Zapatistas đã nổi dậy. Cuối
tháng 2, tỷ giá hối đoái giữa peso và dollar tăng đến kịch trần biên độ giao
động. Nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lạc quan về tình hình Mexico
và dòng vốn nước ngoài vẫn tiếp tục đổ vào.
• Tháng 3, ứng cử viên tổng thống Luis Donaldo Colos io bị ám sát đã tạo
nên những căng thẳng chính trị ở Mexico. Các nhà đầu tư nước ngoài trở
nên bất an và lo lắng cho tài sản của mình ở Mexico. Trước những lo ngại
về tình hình chính trị và kinh tế ở Mexico, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đã giảm nhu cầu về chứng khoán của Mexico. Peso chịu sức ép mất
giá và chính phủ đã tung khoảng 10 tỷ dollar dự trữ ngoại hối nhà nước ra
để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
• Tháng 4, lãi s uất trái phiếu chính phủ định danh bằng pes o có xu hướng
tăng. Lo ngại rằng điều này có thể gây tổn thương cho khu vực ngân hàng
còn non trẻ của đất nước và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái
kinh tế vào một năm có bầu cử tổng thống, nên chính phủ đã một mặt
dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi suất, một mặt tiến
hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng Peso sang định danh
bằng dollar.
• Một số học giả kinh tế đã cảnh báo về việc đồng peso được định giá quá
cao so với dollar. Nhưng đồng thời cũng có ý kiến phản đối việc điều
chỉnh tỷ giá vì lý do niềm tin của các nhà đầu tư chưa đủ mạnh để có thể
12


không bị hoảng loạn khi tỷ giá thay đổi mạnh. Chính phủ Mexico chọn
biện pháp vừa dùng dữ trữ ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá, vừa từng bước
nhỏ điều chỉnh tỷ giá.
• Tháng 8, tổng thống Ernes to Zedillo nhậm chức phải đương đầu với nhiều
khó khăn trong lĩnh vực kinh tế.Tuy nhiên ông vẫn duy trì các chính sách

tài chính, tiền tệ như trước.
• Cuối tháng 9, Tổng thư ký của đảng Institutional Revolution, Jos é
Francisco Ruiz Massieu bị ám sát. Cộng đồng thế giới cho rằng vụ ám sát
này đã càn chứng tỏ tình hình chính trị tại Mexico rất bất ổn.Các nhà đầu
tư thêm bất an.Một số các nhà đầu tư nước ngoài cùng các quỹ đã bắt đầu
rút vốn khỏi Mexico.
• Giữa tháng 10, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ tuyên bố mặc dù lo ngại về mức
dự trữ ngoại hối ít ỏi của Mexico, song Mexico không nên mong đợi chi
viện của nước ngoài. Tâm lý của các nhà đầu tư càng trở nên bất ổn. Cũng
trong thời gian đó, sau khi một số công ty lớn của Mexico công khai tình
trạng lợi nhuận của mình giảm sút. Thị trường chứng khoán Mexico chao
đảo. Áp lực mất giá peso càng tăng lên.
• Tổng thống mới nhậm chức không muốn phá giá đồng peso trong suốt
nhiệm kỳ của mình trừ khi việc phá giá này là không thể tránh được. Sự cố
gắng duy trì đồng peso được định giá cao đã gây ra cho nền kinh tế
Mexico nhiều vấn đề như nó đã không khuyến khích nước ngoài tiêu dùng
hàng hóa của Mexico , trong khi người Mexico lại thích tiêu dùng các sản
phẩm của nước ngoài. Điều này dẫn đến thâm hụt thương mại ngày càng
trầm trọng. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư ở Mexico cũng
nhận sự mất giá của đồng Peso nên đã bắt đầu chuyển việc nắm giữ các tài
sản bằng đồng pes o sang nắm giữ các tài sản bằng đồng dollar. Để giữ tỷ
giá của đồng nội tệ, có một cách đó là dùng tiền nước ngoài để mua lại
13


đồng nội tệ. Và hàng tỷ dollar trong quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico đã
được tung ra nhằm giữ giá đồng peso nhưng đã không thành công.
• Cuối tháng 10, thống đốc ngân hàng trung ương Mexico công khai rằng dữ
trữ ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ dollar.
• Ngày 20 tháng 12 năm 1994, trước áp lực phá giá đồng peso , tổng thống

Mexicon Ernes to Zedillo đã phải phá giá đồng peso thêm 15% . Bên cạnh
đó, chính phủ cũng đã can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có
hiệu quả mà trái lại làm cho quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico ngày càng
cạn kiệt. Đến ngày 22/12, chính phủ Mexico đã phải quyết định tuyên bố
thả nổi đồng peso.
• Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả
các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo pes o đã
lớn lên gấp nhiều lần khi tỷ giá giữa peso và dollar tăng lên). Vì thế, các
nhà đầu tư bán tháo các tài sản bằng đồng pes o. Điều này làm cho đồng
peso càng mất giá hơn nữa. Bên cạnh đó ,các khoản nợ nước ngoài đột
nhiên tăng lên đã khiến bảng cân đối tài sản của các xí nghiệp và ngân
hàng của Mexico xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế Mexico rơi vào khủng
hoảng thực sự.

14


CHƯƠNG II. NGUYÊN NHÂN VÀ MÔ HÌNH KINH TẾ GIẢI THÍCH
CUỘC KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ MEXICO NĂM 1994
2.1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico năm 1994
2.1.1. Sự yếu kém nội tại của nền kinh tế
Quá trình cải cách, mở cửa nền kinh tế của Mexico đã tạo nên một loạt
thách thức mới cho chính phủ Salinas. Trong đó, sự gia tăng thâm hụt cán cân
thương mại trở nên nổi cộm hơn bao giờ hết, đi cùng với đó là việc giảm tỷ lệ
tiết kiệm của khu vực tư nhân. Việc quốc hữu hóa cũng khiến cho hệ thống ngân
hàng của Mexico trở nên mong manh, mang đến sự hạn chế cho quá trình sử
dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ đồng Peso và để giảm thâm hụt tài khoản vãng
lai
• Thâm hụt cán cân thương mại kéo dài
Chính phủ Salinas đã tiến hành kích thích tăng trưởng kinh tế và tăng sức

cạnh tranh bằng cách khuyến khích thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất khẩu
hàng hóa của Mexico này đã tăng gần gấp đôi, từ $31 triệu trong năm 1986 đến
$61 triệu trong năm 1994. Mexico cũng đã thu hút được những khoản vốn đầu tư
nước ngoài rất quan trọng. Theo ngân hàng Trung ương Mexico, lượng vốn đầu
tư nước ngoài thu hút được là $102,8 triệu, trong đó $30,2 triệu là đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Mức độ đầu tư lớn này đã tạo nên sự tích lũy vốn đầu tư đáng
kể trong nền kinh tế Mexico. Trong thời gian này dự trữ ngoại tệ tăng từ $6,4
triệu lên $24,5 triệu. Tuy nhiên, việc cải cách này cũng đòi hỏi sự mở cửa thị
trường đối với các sản phẩm nước ngoài, trong năm 1990, tổng kim ngạch nhập
khẩu của Mexico đã vượt quá kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1990 đến 1994,
thâm hụt thương mại của Mexico tăng từ $1 triệu lên $18,5 triệu. Có thể nói,
chính dòng vốn đầu tư nước ngoài đã làm tăng tiêu dùng tư nhân đối với các mặt
15


hàng nhập khẩu. Do đó, thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mexico đã tăng
từ 1,4% GDP trong năm 1988 đến 7,7% GDP trong năm 1994.
• Tiết kiệm tư nhân giảm sút
Khi các cải cách kinh tế diễn ra đầu những năm 90, người dân Mexico bắt
đầu chuyển nhiều hơn thu nhập của họ từ tiết kiệm sang tiêu dùng. Theo dữ liệu
của Ngân hàng Trung ương Mexico, tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân năm
1989 vào khoảng 16% thì đến năm 1992 đã giảm xuống dưới 9% và đến năm
1994 chỉ tăng lên vào khoảng 12%. Lý giải cho tình trạng chuyển từ tiết kiệm
sang tiêu dùng này là do nhu cầu bị dồn nén sau nhiều năm khổ cực trong hầu
hết thập kỷ 80 và sự hấp dẫn của những sản phẩm ngoại có giá thành rẻ hơn, xuất
hiện ở Mexico khi nước này mở cửa thị trường. Sự giảm sút của tiết kiệm trong
nước cũng được phản ánh thông qua nhu cầu nhập khẩu tăng lên. Điều này đã
gây thêm áp lực lên tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Hơn nữa,
nhập khẩu chủ yếu hướng vào tiêu dùng thay vì đầu tư, khiến cho mức thâm hụt
tài khoản vãng lai trở nên kém bền vững hơn do ít có tiền đầu tư dành cho phát

triển lâu dài hơn.
• Sự lên giá của đồng Peso
Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn từ 1988 đến 1994, chính phủ Mexico đã
thực hiện neo tỷ giá của đồng peso với đôla Mỹ. Và việc neo tỷ giá này đã góp
phần bình ổn nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và kiềm chế lạm phát. Tuy
nhiên, việc neo tỷ giá trong dài hạn sẽ dẫn đến việc lên giá của đồng peso, ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu và làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế. Một trong những lý do của việc đánh giá quá cao giá trị đồng peso chính
là sự mất giá danh nghĩa được chính phủ Mexico cho phép trong giai đoạn này
đã không đạt tới mức chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Mexico. Mặc dù tỷ lệ lạm
16


phát của Mexico có giảm trong những năm này nhưng nó vẫn cao hơn tỷ lệ lạm
phát của Mỹ. Do đó, tỷ giá đồng peso đối với đồng đô la đã dần tăng trên thực tế
dù về danh nghĩa đồng pes o đã mất giá. Với đồng peso được định giá quá cao,
người dân Mexico có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn lượng mà họ có thể chi trả.
Trong khi đó, xuất khẩu lại bị tăng trưởng hạn chế do sự định giá cao này. Vì
vậy, sự tăng giá trị không ngừng và sự định giá quá cao đối với đồng peso trong
giai đoạn này đã dẫn đến tình trạng trầm trọng hơn của mức thâm hụt tài khoản
hiện tại.
Vào giữa năm 1994, hai nhà kinh tế đã cho rằng Mexico cần phải hành động
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm bù đắp cho việc định giá quá cao đồng peso.
Một lượng phá giá giá hối đoái 20% có thể giảm thâm hụt tài khoản hiện tại
xuống mức dễ quản lý hơn. Tuy nhiên, theo các quan chức bộ tài chính, quan
điểm này không được nhiều nhà kinh tế khu vực tư nhân ủng hộ vì họ cho rằng
chỉ cần có một sự điều chỉnh nhỏ về tỷ giá hối đoái. Các quan chức tài chính của
Mexico giải thích họ không bị thuyết phục bởi việc đồng peso bị định giá quá
cao vào thời điểm đó. Họ lấy dẫn chứng là tình hình xuất khẩu mạnh mẽ của
Mexico và sự gia tăng năng suất. Vì thế, chính phủ Mexico đã không sẵn sàng

cân nhắc đến việc kêu gọi phá giá tiền tệ.
• Hệ thống ngân hàng còn sơ khai
Kể từ sau cuộc quốc hữu hóa một loạt các ngân hàng vào năm 1982, hệ thống
ngân hàng Mexico đã bộc lộ rất nhiều các yếu kém. Điều đầu tiên phải kể đến là
việc quốc hữu hóa một số các ngân hàng đã làm giảm tính cạnh tranh trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng. Hơn nữa, các ngân hàng Mexico chưa có được hệ thống
các tiêu chí đánh giá độ tín nhiệm của khách hàng khi cung cấp các khoản vay.
Đặc biệt khi cuộc bùng nổ tín dụng tiêu dùng kể từ sau 1989, vấn đề về đánh giá
độ tín nhiệm này đã dẫn việc chồng chất các khoản tín dụng tiêu dùng quá hạn.
17


Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng liên tục tăng từ tháng 12/1991 đến tháng
3/1994 từ mức 3,5% lên 8,5% (số liệu IMF). Chính sự gia tăng các khoản nợ quá
hạn này đã làm cho tình hình bảng cân đối kế toán của các ngân hàng trở nên
ngày càng tồi tệ hơn. Và một hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều điểm yếu kém
như vậy chính là một yếu tố cản trở việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW
một cách hiệu quả, nhằm mục tiêu giảm thâm hụt thương mại.
2.1.2. Bất ổn chính trị đầu năm 1994
Đầu năm 1994, bất ổn chính trị đã gây nên lo lắng về sự ổn định của Mexico.
Trong khi toàn bộ nền kinh tế Mexico đang trải qua quá trình tái thiết lập bắt đầu
từ cuối những năm 80 thì hệ thống chính trị tại quốc gia này không hề có sự
chuyển biến. Tuy nhiên vào năm 1994, khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra thì
chính phủ vấp phải sức ép lớn từ các phe đối lập trong việc thay đổi một số yếu
tố liên quan giữa đảng cầm quyền và các đảng khác, nhằm thay đổi hệ thống bầu
cử tại Mexico để đem lại một cuộc bầu cử thực sự công bằng. Đầu năm 1994
chiến tranh du kích nổi dậy tại các bang miền nam thuộc Chiapas bày tỏ sự bất
bình của những người dân nông thôn nhằm yêu cầu thực hiện một cuộc cải tổ cả
hệ thống chính trị và xã hội. Với việc diễn ra cuộc nổi dậy của những người
Chiapas, và 2 vụ bắt cóc quy mô lớn xảy ra chỉ trong vài tháng đầu năm 1994 đã

dấy lên sự băn khoăn lo lắng cao độ của các nhà đầu tư về tình hình chính trị và
sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế Mexico.
• Sự điều hành cuộc bầu cử của Đảng cách mạng thể chế tại Mexico gây
phản đối của các Đảng đối lập
Một làn sóng ý kiến về cuộc bầu cử tổng thống tại Mexico lan rộng, hầu
hết đều tập trung vào Đảng CM thể chế, một đảng nắm quyền tại Mexico đã hơn
60 năm, liệu có thể tiến hành một cuộc bầu cử thực sự công bằng. Các đảng đối
18


lập cho rằng họ phải chịu quá nhiều tổn thất do sự lừa đảo sau khi tổng thống
Salinas lên nắm quyền vào năm 1988, năm mà Đảng CM thể chế giành chiến
thắng với số phiếu rất sát sao.
• Cuộc nổi loạn Chiapas gây tổn hại lớn tới hình ảnh của Mexico
Vào ngày 1/1/1994, cuộc chiến tranh du kích có trang bị vũ khí của đội
quân giải phóng mang tên Zapatista (EZLN) diễn ra và chiếm được vài thành
phố tại bang miền Nam thuộc Chiapas của Mexico. Đội quân này yêu cầu một
nền dân chủ thực sự và sự quan tâm cần thiết tới các vấn đề tồn tại của những
người nông dân địa phương. Cuộc tấn công xảy ra đúng vào thời điểm mà hiệp
định NAFTA đi vào có hiệu lực. Điều này đã giáng một đòn mạnh tới hình ảnh
của Mexico, một quốc gia đang tiến hành hiện đại hóa với sự ổn định và hầu như
không hề có xung đột và đang tìm kiếm con đường tham gia vào nền kinh tế thế
giới bằng việc cải tổ nền kinh tế quốc gia và tham gia vào hiệp định NAFTA.
Tuy nhiên chính phủ Mexico đã đáp lại bằng việc cử một đội quân liên
bang tới Chiapas đàn áp cuộc nổi dậy trong khi vẫn tìm mọi cách đàm phán để
đưa ra một thỏa thuận về cuộc xung đột này. Vào giữa tháng 1, Quốc hội Mexico
thông qua luật về ân xá cho bất kì ai liên quan đến những hành động bạo lực tới
thời điểm đó. Tổng thống Salinas ngay lập tức thay thế Bộ trưởng Bộ nội vụ,
nguyên là thống đốc Chiapas bằng ông Jorge Carpizo, một nhân vật được xem là
luôn bảo vệ cho quyền con người. Trước các động thái hòa giải, tổ chức EZLN

ngay lập tức đưa ra sự đồng ý về các điều kiện với chính phủ. Cả hai bên đều
đồng ý ngừng chiến nhưng tình hình vẫn rất căng thẳng suốt thời gian sau đó.
Vào 27/1/1994, hiệp ước về hòa bình công bằng và dân chủ được kí kết
giữa chính phủ và 8 Đảng chính trị khác, nhằm nỗ lực giải quyết các vấn đề
chính trị lớn hơn, bao gồm cả cải tổ lại chế độ bầu cử. Nhiệm vụ chủ yếu của quá
19


trình cải tổ này đó là tạo ra một hệ thống quyền lực bầu cử độc lập và phân bổ
đều tới tất cả các Đảng. Mỗi đảng được tiếp cận tới công chúng một cách công
bằng và hợp lí hơn, và ngăn cấm việc sử dụng các nguồn lực công cộng để hỗ trợ
cho quá trình tranh cử của bất kì đảng nào.
2.1.3. Những mâu thuẫn trong các chính sách vĩ mô
Chính phủ Mexico không hề nhận ra điểm yếu cơ bản của nền kinh tế
chính là sự mất cân bằng cán cân vãng lai. Trong suốt thời kì trước cuộc bầu cử
tổng thống vào tháng 8, giới cầm quyền Mexico luôn cố để giữ đà tăng trưởng
kinh tế bằng cách đẩy thêm áp lực lên sự thâm hụt của cán cân vãng lai. Và sự
mâu thuẫn giữa các chính sách tiền tệ, tài chính và tỷ giá được đẩy lên ngày một
rõ ràng.
2.2. Mô hình kinh tế giải thích cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994
2.2.1. Mô hình của Krugman
Mặc dù các nghiên cứu về khủng hoảng tiền tệ và cán cân thanh toán đã
được nghiên cứu trong những năm 70 của thế kỷ trước với sự khởi đầu và đặt
nền móng của GS Paul Krugman, nhưng các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài
chính trong vòng hơn 20 năm trở lại đây như khủng hoảng “tequila” của Mexico
(1994 - 1995), khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á (1997 - 1998), khủng
hoảng kinh tế tại Nga năm 1998, khủng hoảng Braxin và khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2008 đã cho thấy sự cần thiết phải phát triển các mô hình cảnh báo
sớm khủng hoảng tại các nước đang phát triển và mới nổi. Thực tiễn phát triển
kinh tế thế giới cho thấy khi quá trình toàn cầu hóa và dòng chu chuyển vốn trên

thị trường toàn cầu tăng lên, tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn không
kịp thời điều chỉnh kịp so với quá trình tự do hóa và cải cách ở các khu vực kinh
tế khác; nhiều thị trường mới nổi, các nền kinh tế chuyển đổi theo định hướng thị
20


trường xuất hiện; sự yếu kém trong công tác điều hành chính sách kinh tế vĩ mô
đã đặt nền kinh tế thế giới nói chung và các nước nói riêng đứng trước nguy cơ
khủng hoảng kinh tế và tiền tệ sâu sắc trong tương lai. Do đó, việc xây dựng các
mô hình cảnh báo và dự báo về nguy cơ khủng hoảng kinh tế, tiền tệ và hoạt
động ngân hàng và kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực là
hết sức cần thiết và cần được nghiên cứu một cách toàn diện để giúp tránh được
các cuộc khủng hoảng tiền tệ trong tương lai. Để hiểu rõ được các mô hình cảnh
báo sớm về rủi ro kinh tế vĩ mô và khủng hoảng tiền tệ (EWS), mô hình EWS đã
được phát triển trên thế giới và ứng dụng chúng rộng rãi.
Mô hình EWS thế hệ thứ nhất được xây dựng và phát triển bởi GS kinh tế
Krugman (1979) và được Flood và Garber (1984) cải biến sau đó. Theo
Krugman (1979), khủng hoảng tiền tệ dẫn đến từ thâm hụt ngân sách cao. Khi
chi tiêu Chính phủ tăng cao và được tiền tệ hóa nó thông qua việc tăng trưởng tín
dụng trong nước, nền kinh tế sẽ phải đối mặt với tình trạng lạm phát tăng cao và
đồng tiền trong nước bị mất giá, các nhà đầu tư và cư dân có xu hướng găm giữ
ngoại tệ. Khi đó, để duy trì tỷ giá tại mức đã ấn định (trong chế độ tỷ giá cố
định), Ngân hàng Trung ương (NHTW) sẽ buộc phải giảm dự trữ ngoại tệ cho tới
mức cạn kiệt. Kết quả là mức cân bằng tỷ giá được thiết lập trước đó không còn
bảo đảm được nữa và phá giá xảy ra do sức ép của thị trường tiền tệ và cạn kiệt
dự trữ ngoại hối chính thức. Theo quan sát của Krugman, trước thời điểm đồng
nội tệ bị phá giá, các nhà đầu cơ có thể phán đoán chính xác về khả năng mất giá
của đồng nội tệ khi quan sát các chỉ số kinh tế vĩ mô như mức chi tiêu của Chính
phủ và tốc độ tăng trưởng cung tiền. Do đó, các nhà đầu cơ sẽ bán nội tệ để mua
ngoại tệ để tránh những tổn thất khi mất giá xảy ra. Hành động đồng thời của họ

(bán nội tệ và mua ngoại tệ) trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô sẽ là một cuộc

21


tấn công đầu cơ vào nội tệ và khiến dự trữ ngoại hối sụt giảm nhanh hơn và mức
phá giá sẽ xảy ra sớm hơn.
Theo đó, mô hình cảnh báo thế hệ thứ nhất chỉ ra rằng sự mất cân đối kinh
tế vĩ mô là nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ Mexico năm 1994. Sự tăng
trong chi tiêu Chính phủ và được tiền tệ hóa nó thông qua hệ thống ngân hàng sẽ
khiến tăng trưởng tín dụng quá mức, gây mất giá thực tế đồng nội địa, thâm hụt
tài khoản vãng lai với quy mô lớn, hiệu quả đầu tư trong các dự án thấp, cũng
như sự yếu kém trong công tác giám sát hệ thống ngân hàng, tài chính. Kết hợp
với sự chênh lệch giữa những cam kết và tuyên bố của các nhà quản lý kinh tế
với khả năng giữ các cam kết đó sẽ làm suy giảm mức độ tin cậy của công chúng
vào công tác điều hành chính sách tiền tệ của Chính phủ. Tất cả các yếu tố nêu
trên sẽ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ.
Dựa trên mô hình tiền tệ đơn giản, lý thuyết của Krugman đã giải thích
tiến trình dẫn đến khủng hoảng tiền tệ khi chính phủ cố định tỷ giá hối đoái và
theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô không mang tính bền vững. Điểm then
chốt là việc cơ chế tỷ giá cố định sụp đổ và được thay bằng tỷ giá thả nổi là một
sự kiện tất yếu xảy ra sau một cuộc tấn công mang tính đầu cơ trước khi dự trữ
ngoại tệ cạn kiện. Đó hoàn toàn là kết quả của hành vi tối đa hóa lợi ích của các
nhà đầu tư, chứ không hề do các hành động phi lý trí.
Tuy vậy, phân tích ở trên có điểm yếu là dựa vào mô hình vĩ mô đơn giản,
trong đó giả định mọi đối tượng có khả năng dự đoán hoàn hảo. Việc giả định hai
loại tài sản là nội tệ và ngoại tệ có nghĩa là chính phủ chỉ có thể bảo vệ tỷ giá cố
định khỏi bị phá giá bằng cách trực tiếp bán dự trữ ngoại tệ. Những giả định đơn
giản của mô hình cho phép ta mô tả khá cụ thể quá trình diễn ra khủng hoảng,
nhưng rõ ràng nhiều yếu tố gây ra khủng hoảng khác (chứ không chỉ là thâm hụt

ngân sách) đã bị bỏ qua.
22


2.2.2. Mô hình của Obstfeld
Như đã trình bày, mô hình khủng hoảng tiền tệ của Krugman (1979) đưa
ra một cách giải thích khá thuyết phục về quá trình sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố
định khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt. Tuy vậy, trong rất nhiều cuộc khủng hoảng tiền
tệ (đặc biệt là đối với các nền kinh tế phát triển), chính phủ rõ ràng có đủ dự trữ
để bảo vệ tỷ giá, nhưng đã không làm như vậy. Ngược lại, do những mối quan
ngại về tác động của lãi suất cao và thất nghiệp nên chính phủ nhiều nước đã thả
nổi tỷ giá hối đoái khi bị các nhà đầu cơ tấn công. Obsfeld (1994) đã đưa ra một
cách giải thích khác về khủng hoảng tiền tệ và được gọi là lý thuyết khủng hoảng
tiền tệ thế hệ thứ hai.
Theo Obsfeld, việc quyết định bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định có cả lợi ích
và chi phí. Đứng trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, nếu chính phủ quyết định bảo
vệ tỷ giá cố định thì lợi ích có được sẽ là uy tín về chính sách trong dài hạn.
Nhưng việc bảo vệ tỷ giá tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế nội địa,
vì thường thì lãi suất phải tăng lên.
Lãi suất tăng, trước hết, làm suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây ra thất
nghiệp. Tác động nữa là đối với hệ thống ngân hàng. Lãi suất cao buộc các ngân
hàng phải trả lãi cao hơn cho tiền gửi. Những đối tượng vay nợ theo lãi suất thả
nổi sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ khó đòi và tình trạng vỡ nợ
vì thế gia tăng, làm ảnh hưởng tới khả năng vững mạnh về mặt tài chính của cả
hệ thống ngân hàng.
Đứng trước sự cân đối giữa lợi ích và chi phí, chính phủ có thể lựa chọn
bảo vệ tỷ giá hối đoái hay thả nổi tỷ giá.
Các nhà đầu cơ cũng có hai lựa chọn: hoặc tấn công vào đồng nội tệ hoặc
không. Nếu thấy tại một thời điểm nào đó việc bảo vệ tỷ giá cố định tạo nên
23



những chi phí kinh tế quá lớn, thì các nhà đầu cơ có thể suy đoán rằng chính phủ
sẽ thả nổi tỷ giá để có thể giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kỳ vọng
này làm các các nhà đầu cơ và cả nhiều nhà đầu tư khác đồng loạt bán đồng nội
tệ để mua vào ngoại tệ.
Điểm then chốt của mô hình Obsfeld là đa cân bằng có thể tồn tại và
khủng hoảng có thể mang tính ‘tự phát sinh’ (self-fulfilling). Kỳ vọng đầu cơ phụ
thuộc vào việc suy đoán về phản ứng của chính phủ; những phản ứng của chính
phủ lại phụ thuộc việc những thay đổi về giá cả và các chỉ số kinh tế khác tác
động thế nào tới tình hình kinh tế và chính trị; nhưng những thay đổi về giá cả và
các chỉ số kinh tế lại có thể xảy ra đơn giản là vì kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Những yếu tố và tác động xoay vòng này có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng mà
lẽ ra không thể xảy ra, nhưng lại xảy ra khi các đối tượng trên thị trường có kỳ
vọng như vậy.

Tóm lại: Các mô hình khủng hoảng tiền tệ trên đây cũng có thể được vận
dụng để giải thích cho cuộc khủng hoảng đồng peso của Mexico vào năm 1994
(hay còn được gọi là khủng hoảng tequila).
Sau một thập kỷ bị lãng quên, nền kinh tế Mexico cho thấy có nhiều dấu
hiệu phục hồi tăng trưởng và giá cả được ổn định từ vào đầu thập niên 1990:
chương trình ổn định giá được tiến hành khá thành công; tư nhân hóa tạo nguồn
thu cho chính phủ để giảm nợ nước ngoài của khu vực công; tự do hóa tài chính
làm tăng dòng vốn nước ngoài chảy vào; và triển vọng của Hiệp định Tự do
Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) tạo ra các kỳ vọng tích cực cho các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, các yếu tố kinh tế căn bản bắt đầu xấu đi nghiêm trọng từ năm
1993. Dòng vốn nước ngoài tăng đột ngột đã làm cho giá trị thực của đồng peso
24



bị lên giá tới 40% trong vòng 5 năm từ 1988 đến 1993. Thâm hụt cán cân thương
mại gia tăng từ mức 2,6% GDP vào giữa năm 1989 lên 5% vào năm 1993. Tăng
trưởng kinh tế giảm liên tục từ 5,1% năm 1990 xuống 3,6% năm 1992 và 2,0%
năm 1993.
Bắt đầu từ đầu năm 1994, dòng vốn nước ngoài chảy vào suy giảm. Kỳ
hạn các khoản nợ của chính phủ cũng rút ngắn lại nhanh chóng với nhiều khoản
nợ đáo hạn vào năm 1995. Dự trữ ngoại tệ giảm dần để bù đắp cho thâm hụt cán
cân thương mại. Ngân hàng trung ương quyết định là ngưng tác động của việc
mất dự trữ bằng cách tăng tín dụng nội địa. Chính sách này ngăn không làm
giảm mức cung tiền và giữ lãi suất ở mức thấp. Tuy nhiên, dự trữ giảm liên tục
và đến tháng 3/1994, tấn công đầu cơ xảy ra. Ước tính không chính thức cho
thấy để hỗ trợ tỷ giá peso-đô la, ngân hàng trung ương của Mexico đã sử dụng
lượng dữ trữ tới trên 50 tỷ USD. Mặc dù vậy, chính phủ cũng không ngăn được
sự sụp đổ của đồng nội tệ xảy ra vào cuối năm 1994.
Rõ ràng cuộc khủng hoảng peso năm 1994 chứa đựng sự không nhất quán
giữa chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ, từ đó làm mất dự trữ ngoại tệ và cuối
cùng là sự sụp đổ của đồng tiền, như được giải thích bởi mô hình của Krugman.
Nhưng cần lưu ý rằng dự trữ ngoại tệ suy giảm không phải do thâm hụt ngân
sách, mà do chính phủ lựa chọn dùng dự trữ để bù đắp thâm hụt cán cân thương
mại khi dòng vốn nước ngoài chảy vào giảm sút. Nguyên nhân tại sao ngân hàng
trung ương lại quyết định lựa chọn một chính sách như vậy có thể là do mối quan
ngại của chính phủ về tình trạng mong mạnh của hệ thống ngân hàng, vấn đề thất
nghiệp và tăng trưởng nếu quyết định thặt chặt tiền tệ và tăng lãi suất để bảo vệ
đồng tệ. Hơn thế nữa, rõ ràng dòng vốn nước ngoài cũng có một vị trí quan trọng
trong toàn bộ quá trình khủng hoảng xảy ra.

25


CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ SAU KHỦNG HOẢNG CỦA

MEXICO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM
3.1. Biện pháp đối phó sau khủng hoảng của Mexico
3.1.1. Gói tài chính cứu trợ khẩn cấp
Một thành phần quan trọng của các biện pháp ngắn hạn là giải cứu tài
chính của các tổ chức đa phương, chính phủ Mỹ và Canada trong hai tháng đầu
năm 1995. Nguồn lực của gói tài chính này gồm 20 tỷ USD của chính phủ Mỹ
trong các hình thức trao đổi hoặc tín dụng trung và dài hạn được đảm bảo bởi
quỹ Ổn định ngoại hối, 17.8 tỷ USD của IMF. Phần còn lại là của nguồn lực
được cung cấp bởi chính phủ Canada, Ngân hàng thế giới. Chính phủ Mexico
dùng quỹ này cho 2 mục đích cơ bản:
Tái tài trợ thương mại của các ngân hàng nước ngoài cho các khoản nợ:
đầu năm 1993, mức độ thâm hụt tương đương 6.5% tổng sản phẩm trong nước
(GDP). Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước
ngoài. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp
giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp tục
gia tăng trong năm 1994, lên tới 8% GDP. Biện pháp này cứu giúp được chính
phủ từng vay mượn ngắn hạn quá nhiều (dưới hình thức các trái phiếu kho bạc)
ra khỏi tình trạng phá sản.
Tăng dự trữ ngoại hối: trong năm 1994 xảy ra một số sự việc trong chính
phủ Mexico. Bắt đầu của cuộc nổi dậy Chiapas để phản ứng lại sự hình thành và
hoạt động của tổ chức NAFTA đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại đầu tư
vào một thị trường bất ổn về chính trị như Mexico, kèm theo đó là những mâu
thuận trong chính phủ dẫn đến quỹ dự trữ ngoại hối giảm 30 tỷ USD trong tháng
26


2 – 1994 xuống đến 17 tỷ USD trong tháng 4 và khoảng gần 12 tỷ USD trong
đầu tháng 12.
3.1.2. Thay đổi trong chính sách tài khóa

Nguồn tín dụng quốc tế đã đi kèm với điều kiện buộc Mexico phải chấp
nhận một kế hoạch quản lý tài chính, kiểm soát tiền lương, tiết kiệm và các chi
tiêu công cộng và phải giảm mức thâm hụt tài khoản vãng lai. Ngoài các chế độ
cải cách thương mại – tài chính, các nhà chức trách đã nghiêm túc lại trong việc
thay đổi các chính sách của nên kinh tế. Giảm bớt vai trò của nhà nước, nâng cao
vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Phạm vi cải cách bao gồm tư
nhân hóa, loại bỏ những quy định, thay đổi sắp xếp các cùng nông thôn giảm
đáng kể vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh tế.
Để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã ký một thỏa thuận với công đoàn và khu
vực tư nhân trong tháng 1 – 1995. Giá cả được quản lý hạn chế tăng giá để điều
chỉnh vởi chi phí cao hơn nhập khẩu đầu vào. Thắt chặt chính sách tiền tệ và tài
chính nhằm giảm thặng dư ngân sách. Do ban đầu ngân sách dự kiến cho năm
1995 được phê duyệt vào tháng 12 – 1994 trước thời kì khủng hoảng là 2.2% GDP,
sau đó ngân sách điều chỉnh dự kiến thâm hút đến mức 3.4% GDP trong năm 1995.

Ngoài các chế độ cải cách thương mại – tài chính, các nhà chức trách đã
nghiêm túc lại trong việc thay đổi các chính sách của nên kinh tế. Giảm bớt vai
trò của nhà nước, nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế.
Phạm vi cải cách bao gồm tư nhân hóa, loại bỏ những quy định, thay đổi sắp xếp
các cùng nông thôn giảm đáng kể vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh
tế.

27


×