Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4a trường tiểu học thọ thanh, huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.61 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Để có được những con người phát triển toàn diện đáp ứng với nhu cầu
phát triển của xã hội, đòi hỏi những người làm công tác giảng dạy chúng tôi
phải không ngừng nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi để có những biên pháp dạy
học mang lại hiệu quả ngày càng cao. Tôi cũng như các đồng nghiệp khác đều
nhận thức rõ “ Sản phẩm đào tạo của chúng tôi không phải chỉ là những con
người có tri thức, có tài năng mà phải là những con người phát triển toàn
diện. Ẩn trong những khối óc đầy tri thức là những tâm hồn đầy xúc cảm và
lòng nhân ái.
Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"
đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động và triển khai trong toàn ngành
trong nhiều năm qua. Phong trào thi đua đã tạo nên diện mạo mới trong các
trường học, góp phần gắn bó thầy, trò cộng đồng trong học tập, rèn luyện, trau
dồi kỹ năng sống và tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Các cấp chính
quyền, các ban ngành, đoàn thể địa phương đã thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ
có hiệu quả trong việc triển khai thực hiện phong trào.
Một trong 5 nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” đó là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Tôi thiết
nghĩ, đây là một nội dung quan trọng, gắn liền với các hoạt động giáo dục
trong nhà trường. Cùng với xu thế thế giới đang có sự thay đổi sâu sắc về mọi
mặt, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, tác động
đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số các chuẩn mực đạo đức, quy
tắc ứng xử, quy tắc sống cũng bị ảnh hưởng. Đặc biệt là thế hệ trẻ, các em dễ
dàng học theo, bắt chước một số thói hư, tật xấu du nhập từ thế bên ngoài, thế
giới trên mạng internet.
Học sinh sống trong xã hội phát triển cần phải được trang bị những kỹ
năng thích hợp để hòa nhập với cộng đồng, với xu thế toàn cầu hóa. Đối với
học sinh, đặc biệt là học sinh bậc Tiểu học cần phải được giáo dục, rèn luyện
kỹ năng sống, bởi vì các em là những chủ nhân tương lai của đất nước. Lứa


tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước
mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động,… Tuy nhiên,
nhiều người cho rằng, văn hoá giao tiếp học đường hiện đang xuống cấp rất
nghiêm trọng và tại các trường học vấn đề này cũng đang bị xem nhẹ. Nhà
trường quá tập trung vào giảng dạy kiến thức mà quên đi việc giáo dục nhân
cách, dạy làm người. Tình trạng thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh vi phạm
đạo đức học đường ngày càng gia tăng và mức độ nghiêm trọng đã đến mức
báo động. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có
nguyên nhân là do các em chưa được trang bị các kỹ năng sống cần thiết.
Với ý nghĩa đó, tôi thiết nghĩ, thời điểm hiện tại là một thời điểm thích
hợp để tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục Kĩ năng sống cho học
sinh lớp 4 ở trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân”. Nhằm mục
1


đích chính là nâng cao hiệu quả của phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực” và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm học.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

- Tìm hiểu cơ sở lí luận và pháp lý của đề tài: phân tích, đối chiếu với
thực trạng của nhà trường trong thời điểm hiện tại để qua đó tìm ra các biện
pháp, giải pháp mới hiệu quả hơn cho các hoạt động.
- Xác định được: Hoạt động giáo kỹ năng sống cho học sinh vừa mang
tính chiến lược,vừa mang tính cấp bách, là động cơ và cũng là nhiệm vụ của
nhà trường, các cơ quan đoàn thể, của cha mẹ học sinh thường xuyên và lâu
dài.
- Xây dựng mô hình để giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống
giúp cho học sinh có tinh thần và thái độ học tập tự giác, tích cực, sống có lý
tưởng và hoài bảo, ứng xử, hành động mang tính nhân văn. Nó còn giúp cho

học sinh có ý thức bảo vệ và rèn luyện cơ thể, không vi phạm tệ nạn xã hội.
- Đạt hiệu quả cao trong phong trào “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”
- Giáo dục Kĩ năng sống góp phần đạt được các mục tiêu của giáo dục,
đã được định hướng theo bốn trụ cột: Học để biết; Học để làm; Học để chung
sống cùng nhau và học để làm người.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Tìm hiểu nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học; nghiên cứu cách hình thành kiến thức
mới và vận dụng từng kĩ năng vào thực tế cuộc sống của trẻ; tiến hành thực
nghiệm cho học sinh cho học sinh lớp 4A, Trường Tiểu học Thọ Thanh,
huyện Thường Xuân.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã sử dụng linh hoạt một số
phương pháp sau:
- Phương pháp ngiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Sưu tầm, tra cứu tài
liệu, theo dõi các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát quá trình học tập trên lớp và
ngoài lớp của học sinh. Đặc biệt là các biểu hiện bên ngoài của các em trong
các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè, người thân, … để làm cơ sở nhận xét,
đánh giá.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Tiến hành điều tra qua một số
phiếu để nắm được tâm sinh lí của từng học sinh.
- Phương pháp tổng kết đúc rút kinh nghiệm.
- Phương pháp thực hành: Tiến hành soạn giảng thực nghiệm kĩ năng
sống tại lớp 4A, Trường Tiểu học Thọ Thanh.
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SKKN


Đây là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã phát triển từ sáng kiến: Một số
biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học theo
hướng tích cực ở lớp 3A, trường Tiểu học Thọ Thanh mà tôi đã thực hiện

2


và đạt loại C cấp tỉnh năm 2014. Tuy nhiên, ở đề tài này có thêm những điểm
mới sau:
- Thu hút, huy động được nhiều lực lượng trong và ngoài nhà trường
cùng tham gia giáo dục.
- Thống nhất giữa bồi dưỡng về nhận thức với thực tế công tác tổ chức
thực hiện và các nhiệm vụ đặt ra từ thực tiễn.
- Vai trò rèn luyện kỹ năng sống trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp được nâng lên chiếm một vị trí quan trọng trong công tác giáo dục.
- Vai trò của cha mẹ học sinh, các tổ chức xã hội,chính quyền đoàn thể,
thể hiện đậm nét,có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của các hoạt động giáo
dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
- Từng bước làm thay đổi quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục
và rèn luyện của học sinh.
- Tận dụng các thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục và kinh
nghiệm tiên tiến trong hoạt động này.
- Xây dựng được tập thể giáo viên đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm,
nhiệt tình, có kỹ năng phối hợp công tác tốt, yêu mến trẻ, cùng nhau hỗ trợ
nhau trong các hoạt động giáo dục.
- Dần hình thành lực lượng nòng cốt có năng lực trong học sinh của nhà
trường làm nhiệm vụ tư vấn rèn luyện kỹ năng sống cho các học sinh khác.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:


2.1.1. Cơ sở pháp lý:
Như chúng ta đã biết, bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn bộ
cuộc sống, học tập, hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi để học
sinh phát triển và bộc lộ hết khả năng của mình.
Chỉ thị 40 - CT/TW cuả Ban Bí thư nêu rõ: “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu , là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nồng cốt, có vai trò quan trọng…”
Chỉ thị 40/2008 - BGD - ĐT ngày 27/7/2008 về việc Phát động phong
trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các
nhà trường.
UNESCO đã đề xuất 4 trụ cột của việc học của thế kỷ XXI là: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định”. Với mục tiêu
học rộng như vậy, chúng ta thấy trong hành trang vào đời của các em học sinh
còn nhiều thiếu hụt, trong đó có sự thiếu hụt các kỹ năng sống.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất

3


nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Trong đó có đề cao vai
trò của giáo dục kỹ năng sống.
Trong Chiến lược Phát triển giáo dục 2011-2020 Ban hành kèm theo
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ, trong phần mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục đến năm 2020 có
nêu: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện

theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo
đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ
và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri
thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho
mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.
2.1.2. Những tài liệu có liên quan đến giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh.
- Tài liệu nhà trường về Qui ước xây dựng Trường học có nếp sống văn hóa.
- Chỉ thị 40/2008 - BGD - ĐT ngày 27/7/2008 về việc Phát động phong trào
thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà
trường.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục Việt Nam.
- Sổ tay THTT, HSTC - Bộ GD&ĐT, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.
- Tài liệu của Dự án Phòng chống buôn bán và bảo vệ trẻ em của Tổ chức
cứu trợ trẻ em Anh.
- Đổ Quốc Anh (chủ biên), Góp phần xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực, NXB Giáo dục Việt Nam 2010.
- Nguyễn Công Khanh, Giao tiếp ứng xử tâm lý tuổi học đường, Nhà xuất bản
Thanh niên, 2007.
- Lưu Thu Thủy (chủ biên), Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn, 2005.
- Lưu Thu Thủy (chủ biên), Bài tập thực hành Kĩ năng sống lớp 4, 2013.
- Tổ chức thực hiện giáo dục qua các hoạt động cụ thể như: các tiết
HĐNGLL, ngoại khóa.
2.1.3. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện:
Tham gia các lớp tập huấn cho cán bộ giáo viên hiểu về vai trò, tầm
quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh.

Nắm được các kỹ năng sống cần thiết đối với học sinh Tiểu học,
phương pháp rèn kỹ năng sống và đặc biệt lồng ghép với các bộ môn.
Các bài tập tình huống về kỹ năng sống và cách giải quyết. Kỹ năng tổ
chức các trò chơi, tổ chức câu lạc bộ…
Tổ chức rèn luyện kỹ năng sống hàng tuần qua các tiết HĐGDNGLL
và ngoại khóa.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

4


2.2.1. Những thuận lợi:
Đội ngũ giáo viên Trường Tiểu học Thọ Thanh đa số có trình độ
chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, yêu
và tâm huyết với nghề.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sát sao đến mọi hoạt
động của nhà trường
Năm học 2016 - 2017 Trường tiểu học Thọ Thanh có 17 lớp. Nhìn
chung các em học sinh đều ngoan ngoãn, chịu khó học tập. Được sự dìu dắt
tận tình của các thầy, các cô các em đều chăm ngoan. Hơn nữa các em đều
sống gần nhau nên có điều kiện giúp đỡ nhau trong việc học tập. Chính vì vậy
ở lớp tôi giảng dạy các em đề có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Ngay từ đầu năm học, tôi đã xác đinh rõ: Để các em thực hiện
tốt nhiệm vụ năm học thì một trong những việc làm cần thiết nhất là phải giáo
dục cho học sinh có kĩ năng sống tốt.
2.2.2. Những khó khăn:
Trường Tiểu học Thọ Thanh nằm ở phía trong của quốc lộ 47, kinh tế hộ
gia đình học sinh đa số là thuần nông, một số hộ kinh tế phụ thuộc vào con cái
đi làm thuê, làm nghề tự do trên mọi miền tổ quốc nên có thu nhập không ổn
định, vì vậy việc quan tâm đến chuyện học tập của con em mình là rất khó.

Điều kiện tiếp cận của học sinh với sách báo, các kênh truyền thông,
mạng internet còn hạn chế.
Nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo viên trong trường,
Hội cha mẹ học sinh, ban ngành đoàn thể chưa đúng mức về vị trí vai trò, tầm
quan trọng của việc giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong bối
cảnh của giáo dục cả nước thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới.
Giáo viên bộ môn như Mĩ thuật, Âm nhạc, Tiếng Anh, Thể dục, … đã
được tập huấn các địa chỉ, các bài phải tích hợp rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh, tuy nhiên việc đề cập đến vấn đề này trong các tiết học còn nhiều
hạn chế.
Trong các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt dưới
cờ việc lồng ghép giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh có thực hiện
tuy nhiên chưa đúng mức, chưa được xem trọng và hiệu quả đem chưa được
như mong muốn.
Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động văn nghệ, thể dục thể
thao, các cuộc thi: Nhà trường có phối hợp với Đội Thiếu niên Tiển Phong tổ
chức các hoạt động ngoại khóa theo kế hoạch của ngành và Hội đồng đội
huyện, tuy nhiên việc tổ chức các hoạt động này còn ít trong đó việc xác định
mục tiêu rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh chưa được chú trọng đúng mức
và đầy đủ.
2.2.3. Thực trạng ở lớp 4A, trường Tiểu học Thọ Thanh:
Học sinh lớp 4 là lớp nằm ở giai đoạn 2 của bậc Tiểu học. Ở lứa tuổi
này, các em đã bắt đầu có sự thay đổi về nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm
5


và các mối quan hệ xã hội khác. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, … nhưng các
em lại chưa có khả năng để từ chối, để tự bảo vệ mình. Đa số học sinh chưa
có nhận thức đúng về ý thức tự giác, tích cực trong học tập, chưa có ước mơ

hoài bão, định hướng trong tương lai còn rất mơ hồ, kỹ năng diễn đạt trình
bày trước đám đông còn rất kém, số đông học sinh ứng xử với nhau chưa thật
sự có văn hóa…. Vì vậy các em rất cần có được sự giáo dục toàn diện và
được rèn nhiều kĩ năng sống để các em thêm tự tin trong học tập và trong
cuộc sống hàng ngày.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

2.3.1. Tìm hiểu điều kiện sống, thấu hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi học sinh.
Ở sáng kiến này, tôi vẫn ưu tiên chọn công việc này cho biện pháp đầu
tiên vì tôi thiết nghĩ , mỗi giáo viên, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình,
muốn đề ra các biện pháp giáo dục phù hợp, đạt hiệu quả cao thì trước hết
phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học
sinh. Vì vậy, sau khi nhận lớp, cũng như mọi năm, tôi thường gặp gỡ giáo
viên chủ nhiệm của năm học trước để trao đổi về tình hình học sinh. Tôi ghi
chép tỉ mỉ, cụ thể vào sổ tay để tiện theo dõi và có hướng giải quyết riêng với
từng em. Ngoài ra, để xác định đặc điểm tâm lí của của từng đối tượng học
sinh trong lớp, tôi mạnh dạn đưa ra phiếu trắc nghiệm như sau:
Phiếu tìm hiểu mức độ, hành vi đạo đức của học sinh theo nhận xét
của cha mẹ.
Cách tiến hành: Đề nghị cha mẹ học sinh trả lời vào bản tự khai sau đây;
Câu 1: Trong gia đình học sinh có vâng lời và thực hiện công việc không?
a. Không bao giờ
b. Rất ít khi
c. Thường hay
d. Luôn luôn
Câu 2: Hành vi của học sinh khi ở nhà:
a. Thường xuyên tỏ ra hỗn láo, có hành vi xấu
b. Hay bộc lộ hành vi xấu, không quan tâm đến nhận xét
c. Bao giờ cũng nghịch ngợm nhưng có sửa chữa khi cha mẹ răn đe

d. Luôn luôn tốt, nghe lời
Câu 3: Về tính nhạy cảm và lòng vị tha đối với cha mẹ, họ hàng:
a. Thường xuyên hỗn láo, thô bạo
b. Hay tỏ ra thô lỗ, ích kỉ, nhẫn tâm
c. Không phải bao giơ cũng quan tâm, tốt bụng
d. Nhân hậu, quan tâm, tốt bụng
Câu 4: Về sự chăm chỉ lao động
a. Rất lười, lảng tránh việc nhà
b. Hay lảng tránh việc nhà, chỉ làm khi có yêu cầu
c. Không phải bao giờ cũng giúp người khác, chỉ làm khi có yêu cầu
d. Yêu thích công việc trong gia đình, giúp đỡ người lớn
6


Câu 5: Về đức khiêm tốn:
a. Rất kiêu căng, khoác lác, tự cao
b. Hay tỏ ra tự phụ, kiêu căng
c. Thỉnh thoảng tỏ ra kiêu căng
d. Bao giờ cũng tỏ ra khiêm tốn
Câu 6: Trẻ em có phê bình người khác không?
a. Chẳng phê bình ai, chỉ lựa theo ý kiến mọi người
b. Ít khi phát biểu ý kiến riêng của mình, ít khi phê bình người khác
c. Phê bình nhưng không phải bao giờ cũng đúng và hợp lí
d. Biết phê bình người khác đúng lúc và đúng chỗ
Câu 7: Về tự phê bình:
a. Dễ phản ứng khi người khác nhận xét
b. Không tiếp thu phê bình, nhận xét của người khác
c. Không chịu sửa chữa khi người khác phê bình hoặc nhận xét
d. Biết tự nhận thiếu xót, chú ý sửa chữa
Câu 8: Về học tập ở nhà:

a. Không chịu khó học bài, làm bài, tỏ ý không muốn học
b. Thiếu tinh thần trách nhiệm với bài tập về nhà
c. Không lo lắng đến việc học bài ở nhà
d. Tự nguyện và có trách với bài làm ở nhà
Câu 9: Thái độ với hoạt động xã hội:
a. Không thích hoạt động xã hội, không hoàn thành công việc xã hội
b. Thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc của lớp, của trường, bố
mẹ phải đôn đốc
c. Thường xuyên không muốn tham gia công việc của lớp, của trường
d. Tự nguyện tham gia và thích thú kể lại công việc đã làm
Câu 10: Thái độ với lớp học, với trường:
a. Không thích học ở lớp đó, có ý nghĩ không tốt về lớp, về trường
b. Thờ ơ với công việc của lớp, của trường
c. Thích lớp, thích trường nhưng ít tham gia hoạt động do lớp, trường
tổ chức.
d. Thích trường lớp, có dịp là làm việc tốt cho trường lớp
Cách xử lí: Nhận được các bản trả lời của cha mẹ, tôi tổng kết lại, tính điểm
cho từng em đạt được: a = 1 điểm; b = 2 điểm; c = 3 điểm; d = 4 điểm. Lấy
tổng số chia cho 10 (10 câu hỏi)
Mức độ biểu hiện các hành vi đạo đức muốn khảo sát như sau:
Từ 1 đến 1,4: Không thể hiện
Từ 1,5 đến 2,4: Thể hiện yếu
Từ 2,5 đến 3,4: Có thể hiện nhưng mờ nhạt
Từ 3,5 đến 4: Thể hiện rõ
Như vậy, bước đầu tôi đã nắm vững tình hình học sinh, nắm cụ thể đặc
điểm tâm lí của từng học sinh, tôi phân chia lớp thành từng nhóm đối tượng
theo đặc điểm tâm lí và theo lực học để có biện pháp giáo dục phù hợp.
7



2.3.2. Giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh trực tiếp trong tiết Hoạt
động ngoài giờ lên lớp.
“Muốn có cuộc sống an toàn, hạnh phúc và có chất lượng, ngoài việc
có tri thức, có sức khỏe, có đạo đức, … con người cần phải có các kĩ năng
sống. Nhưng kĩ năng sống không phải là có sẵn, con người không phải sinh ra
đã có kĩ năng sống. Kĩ năng sống chỉ được hình thành và phát triển trong quá
trình học tập, rèn luyện, thực hành trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày ở
trường, ở gia đình và ngoài xã hội” - Nhóm tác giả - Bài tập thực hành Kĩ
năng sống 4 - Nhà xuất bản Sư phạm - đã viết.
Bài tập thực hành Kĩ năng sống 4 chủ yếu giáo dục cho học sinh 7 kĩ
năng sống cơ bản thuộc 7 chủ đề sau:
- Chủ đề 1: Kĩ năng Tự phục vụ.
- Chủ đề 2: Kĩ năng Giao tiếp với mọi người và bạn bè.
- Chủ đề 3: Kĩ năng Ra quyết định và giải quyết vấn đề.
- Chủ đề 4: Kĩ năng Tự bảo vệ mình.
- Chủ đề 5: Kĩ năng Tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn.
- Chủ đề 6: Kĩ năng Kiểm soát cảm xúc.
- Chủ đề 7: Mục tiêu của tôi.
Để giúp các em rèn luyện kĩ năng sống có hiệu quả, dựa vào tài liệu
này, tôi đã thiết kế những dạng bài tập nhẹ nhàng, phong phú, đa dạng như:
xử lí tình huống, đóng vai, vẽ tranh, nối tranh, chơi trò chơi, …
Khi thực hiện các bài tập này, có bài các em sẽ thực hiện cá nhân, có
bài sẽ thực hiện theo nhóm nhỏ, có bài thực hiện theo nhóm lớn, có bài các
em phải thực hiện khi có sự hỗ trợ của cha mẹ, thầy cô giáo và những người
khác.
Cụ thể, tôi đã tiến hành giáo dục cho học sinh từng chủ đề như sau:
Chủ đề 1: Kĩ năng tự phục vụ
Đối với kĩ năng này, đầu tiên tôi đưa ra bài tập Xử lí tình huống nhẹ
nhàng để học sinh dễ tiếp cận: Ví dụ:
“Ngay sau khi đi học về, em không tìm thấy áo khoác đồng phục của mình.

Khi đó cả nhà đi vắng. Em sẽ lựa chọn cách giải quyết nào trong các lựa chọn
dưới đây? (Khoanh tròn vào chữ cái trước cách giải quyết em chọn)
a. Khóc.
b. Gọi điện ngay cho bố mẹ / anh chị nhờ giải quyết.
c. Suy nghĩ xem có thể mình đã đánh mất ở đâu.
d. Chờ bố mẹ về.
e. Không làm gì cả, coi đó là chuyện nhỏ.
Nếu em chọn (c) và nghĩ ra nơi đánh mất áo, em sẽ làm gì tiếp?
(Khoanh tròn vào chữ cái em chọn)
a. Quay lại ngay nơi đó.
b. Gọi điện cho người có trách nhiệm quản lí nơi đó.
c. Gọi điện cho bố hoặc mẹ đến nơi đó lấy áo.
d. Gọi điện cho bố hoặc mẹ chở đến nơi đó và lấy áo về.
8


e. Chờ bố mẹ về đưa em đến nơi đó lấy áo.”
Qua bài tập này, các em sẽ được thoải mái đưa ra sự lựa chọn cho mình
và giải thích cho các bạn hiểu vì sao mình lại lựa chọn cách giải quyết như
vậy. Bước đầu các em biết tự quyết định một công việc đơn giản phục vụ cho
bản thân.
Tiếp đến, tôi giao cho học sinh những bài tập giải quyết tình huống và
xử lí những tình huống khó hơn, chẳng hạn: Xử lí tình huống:
“ Trên đường đi học về, một người lạ mặt tìm cách làm quen và hỏi địa chỉ
nhà, số điện thoại, tên bố mẹ. Em sẽ lựa chọn cách giải quyết nào dưới đây?
(Khoanh tròn vào chữ cái trước cách giải quyết em chọn)
a. Cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của người đó.
b. Không tiếp chuyện.
c. Cung cấp thông tin không chính xác.
d. Hỏi tại sao người này cần có thông tin và nói sẽ cung cấp khi bố mẹ

đồng ý.
e. Cách khác: (Ghi cụ thể)………………………………………………..
Bài tập này khó đối với các em, tôi cho học sinh thảo luận và đưa ra ý
kiến theo nhóm lớn. Nhiều nhóm học sinh đã đưa ra những cách giải quyết
khác rất hay, rất ngộ nghĩnh.
Qua bài học, các em sẽ rút ra được bài học: Tự lập trong sinh hoạt hằng
ngày sẽ giúp em thích nghi tốt trong cuộc sống.
Chủ đề 2: Kĩ năng Giao tiếp với bạn bè và mọi người.
Khi giáo dục kĩ năng này cho học sinh, đầu tiên tôi đưa ra tình huống:
“Hùng, Tân và Sáng là ba bạn thân cùng học một lớp. Nghỉ hè, Hùng được bố
mẹ đưa về thăm quê ngoại. Tân được đi nghỉ mát ở biển cùng bố mẹ. Còn
Sang được cùng mẹ ra hải đảo thăm bố đang đóng quân ở đó. Sau hè, gặp lại
nhau ở trường, ba bạn rất mừng rỡ và tranh nhau kể về kì nghỉ hè của mình, ai
cũng thi nhau nói, chẳng ai chịu nghe ai…
Em hãy đoán xem kết quả cuộc nói chuyện của ba bạn sẽ như thế nào? Họ có
hiểu được về kì nghỉ hè của nhau không? Vì sao?”
Học sinh suy nghĩ và đưa ra các ý kiến giải quyết tình huống khác
nhau, và cuối cùng các em cũng đưa ra được kết luận đầu tiên: Trong giao
tiếp, người nói phải có người nghe.
Tiếp đó, tôi cho học sinh chơi một trò chơi vui có tên “Truyền tin bí
mật”: Cách chơi như sau:
Chia lớp thành hai đội chơi có số người bằng nhau. Mỗi đội gồm
khoảng 10 người đứng thành hang dọc. Đầu tiên, bạn đứng thứ nhất của mẫu
đội sẽ lên nhận mẩu tin từ cô giáo, đọc nhanh trong 10 giây. Sau đó, bạn này
truyền tin cho bạn thứ hai đứng kế tiếp đằng sau bằng cách ghé vào tai nói
nhỏ. Bạn thứ hai nhận tin xong truyền tiếp cho bạn thứ ba của nhóm. Cứ như
vậy cho đến khi tin được truyền đến cho người cuối cùng của nhóm. Người
cuối cùng của nhóm sẽ nói to tin mình đã nhận được. Nhóm nào truyền tin
nhanh và đúng, nhóm đó sẽ thắng cuộc.
9



Học sinh chơi trò chơi: “ Truyền tin”
Học sinh chơi trò chơi xong, tôi sẽ đặt ra cho các em một số câu hỏi
như: Em nghĩ gì khi thực hiện trò chơi này? Làm thế nào để truyền tin được
chính xác? Người truyền tin phải làm gì? Người nhận tin phải làm gì? Từ đó
giúp các em liên hệ thực tế và rút ra được kết luận: Trong cuộc sống hàng
ngày, không nên nói chuyện của người này với người khác, khi chúng ta kể
câu chuyện với thêm một người, nội dung câu chuyện sẽ không còn đúng như
lúc ban đầu và sẽ dẫn đến những hiểu lầm tai hại.
Tiếp theo, tôi cho học sinh làm bài tập sau: Hãy quan sát các tranh dưới
đây và nhận xét về việc làm của các bạn nhỏ trong mỗi tranh:

Tranh bài tập 5, trang 12/Bài tập thực hành Kĩ năng sống 4
Bài tập này tôi cho các em làm vào phiếu theo nhóm nhỏ, mục đích là
để các em đưa ra được kết luận: Niềm vui sẽ được nhân đôi, nỗi buồn sẽ vơi
nửa nếu được cảm thông và chia sẻ. Từ đó cho các em liên hệ thực tế xem
mình đã làm được những việc gì để cảm thông và chia sẻ với người khác.
10


Chủ đề 3: Kĩ năng Ra quyết định và giải quyết vấn đề.
Với chủ đề này, đầu tiên tôi cũng cho học sinh khởi động bằng trò chơi
“Cờ ca rô người” Cách chơi như sau:
Nhóm chơi gồm 10 bạn, mỗi đội 5 bạn. Đặt tên cho mỗi đội. Chọn một
bạn khác làm người điều khiển. Người điều khiển xếp 9 chiếc ghế thành 3
hàng và quay về cùng một phía. Người điều khiển gọi tên lần lượt 2 bạn của
mỗi đội và yêu cầu các bạn tự chọn chỗ ngồi. Những bạn kế tiếp phải quyết
định chọn được chỗ ngồi sao cho đồng đội của mình phải có ba người ngồi
thẳng hàng liên tiếp nhau (ngang, dọc, chéo). Thời gian suy nghĩ để ra quyết

định là một phút. Đội nào có được hàng thẳng đầu tiên sẽ chiến thắng.

Học sinh chơi trò chơi: “Cờ ca rô người”
Sau trò chơi, tôi đặt câu hỏi với học sinh:
- Việc ra quyết định có khó khăn gì không?
- Ra quyết định có cần suy nghĩ và cân nhắc kĩ lưỡng không?
- Để chọn được một quyết định, em cần thực hiện những bước nào?
Học sinh trả lời và bước đầu hiểu được trước khi đưa ra quyết định cần
phải suy nghĩ thật thấu đáo.
Cuối cùng, tôi cho học sinh liên hệ thực tế và rút ra kết luận: Trong
cuộc sống, cần phải biết lựa chọn phương án tối ưu và kịp thời, đúng lúc có
thể giúp các em đạt được nhiều thành công.
Chủ đề 4: Kĩ năng Tự bảo vệ mình.
Khi dạy kĩ năng này, tôi khởi động cho học sinh bằng trò chơi: “Chanh
chua - cua cắp”
Cách chơi: Người chơi đứng thành vòng tròn, tay trái xòe ra, ngón trỏ
của tay phải để vào lòng bàn tay trái của bạn đứng phía bên phải mình. Khi
người quản trò hô “Chanh”, tất cả đứng yên và hô “Chua” Còn khi người điều
11


khiển hô “Cua” thì tất cả hô “Cắp” và tay trái nắm ngay lại đồng thời rút
nhanh ngón tay trỏ ra khỏi bàn tay của người bên cạnh. Ai chậm sẽ bị “cua
cắp”

Học sinh chơi trò chơi: “Chanh chua, cua cắp”
Học sinh chơi trò chơi: “Chanh chua- cua cắp”, tôi nhận xét trò chơi và
cho các em thảo luận trong nhóm đôi và trả lời câu hỏi sau: Để khỏi bị cua
cắp cần phải làm gì?
Tiếp đó tôi đưa ra nhiều tình huống sát với thực tế cuộc sống để học

sinh nhận biết được tình huống nào là an toàn, tình huống nào là không an
toàn và giải thích vì sao tình huống đó lại không an toàn.
Cuối cùng, tôi cho học sinh đóng vai tình huống sau: Em hãy cùng các
bạn đóng vai thực hành cách ứng xử cần thiết khi em cảm thấy sợ hãi do có
người muốn đụng chạm, hay xâm hại tình dục em (dù là người lạ, người quen
hay là người thân).
Từ đây, tôi giúp các em liên hệ thực tế và đưa ra kết luận: Tự bảo vệ là
một kĩ năng sống rất quan trọng để giúp trẻ em tự bảo vệ danh dự, thân thể,
nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của bản thân; Kĩ năng tự bảo vệ bao gồm
cả việc chúng ta biết nhận dạng các tình huống có nguy cơ, biết tránh xa các
tình huống có nguy cơ và biết ứng phó phù hợp khi rơi vào những tình huống
đó; Trẻ em có quyền được bảo vệ và tự bảo vệ. Pháp luật luôn đứng về phía
trẻ em và trừng trị những kẻ xâm hại tình dục trẻ em, buôn bán, bắt cóc trẻ
em…
Chủ đề 5: Kĩ năng Tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn.
Khi dạy kĩ năng này cho học sinh, tôi phát cho mỗi em 1 hình vẽ hai
bàn tay và yêu cầu các em viết tên những người mà em tin cậy, sẵn sàng giúp
đỡ em lúc khó khăn trên mỗi ngón tay, sau đó chia sẻ “bàn tay tin cậy” của
mình với bạn bên cạnh.
Sau đó, tôi cho học sinh làm bài tập sau: Em hãy cho biết những địa

12


chỉ nào dưới đây là đáng tin cậy, có thể giúp đỡ trẻ em khi gặp khó khăn hoặc
bị quấy rối, xâm hại cơ thể hay bị buôn bán, bắt cóc?
(Đánh dấu + vào trước những địa chỉ mà em lựa chọn)
Cha, mẹ.
Người thân trong gia đình.
Bạn bè thân thiết.

Các thầy, cô giáo.
Cán bộ y tế của các bệnh viện, trung tâm y tế địa phương, phòng y tế.
Ban giám hiệu nhà trường.
Cán bộ y tư vấn của các Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Trung
tâm tư vấn tâm lí.
Các số điện thoại: Cảnh sát (113), chữa cháy (114), cấp cứu (115), chỉ dẫn
(1080).
Đường dây nóng bảo vệ trẻ em.
Ban biên tập các báo: Thiếu niên Tiền phong, Phụ nữ, Tiền phong, An
ninh, Tuổi trẻ, …
Địa chỉ khác: (Nếu có)…………………………………………………..
Học sinh làm bài xong, tôi chốt lại và liên hệ: Trên đây là tất cả những
địa chỉ đáng tin cậy, có thể giúp đỡ em khi gặp khó khăn hoặc bị quấy rối,
xâm hại cơ thể hay bị buôn bán, bắt cóc.
Cuối cùng, tôi cho các em thực hành đóng vai đến các địa chỉ tin cậy để
tìm kiếm sự hỗ trợ trong các tình huống không an toàn.
Qua bài học, học sinh của tôi đã hiểu được rằng: Việc tìm kiếm sự hỗ
trợ, giúp đỡ khi gặp khó khăn là rất cần thiết. Chúng ta cần phải xác định
được đâu là những địa chỉ tin cậy để có thể nhờ giúp đỡ. Không nên nản chí
nếu bị từ chối mà phải tiếp tục tìm đến các địa chỉ khác.
Chủ đề 6: Kĩ năng Kiểm soát cảm xúc.
Với kĩ năng này, đầu tiên tôi kể cho học sinh nghe 2 câu chuyện: “Cô
bé bán diêm” và “Vết thương”, xem các bức tranh minh họa truyện và điền
các từ mô tả cảm xúc vào bên dưới mỗi bức tranh.
Tiếp theo, tôi tổ chức cho các em làm việc cá nhân: Viết một lá thư cho
người bạn của em, kể về một lần em có cảm xúc tích cực (ví dụ: vui vẻ, hạnh
phúc, …) hoặc một lần em có cảm xúc tiêu cực (ví dụ: buồn chán, giận dữ,…)
và cho biết em đã làm gì mỗi lần đó. Thông qua mỗi bức thư các em viết, tôi
bước đầu hiểu được cảm xúc thật của từng học sinh trong lớp.
Cuối cùng, tôi cho các em về nhà hỏi người lớn trong gia đình mình về

những việc họ đã làm để thư giãn khi gặp điều khó khăn hoặc giận dữ. Ghi lại
những thông tin đó và chia se cùng các bạn trong nhóm.
Ở bài này tôi muốn học sinh hiểu được rằng: Cần kiểm soát cảm xúc
hợp lí để không ảnh hưởng xấu đến bản thân và những người xung quanh.
Chủ đề 7: Mục tiêu của tôi.
Ở chủ đề này, tôi cho học sinh làm bài tập: Hồi tưởng
Đánh dấu + vào
trước những yêu cầu cần thiết khi đặt mục tiêu)
13


Mục tiêu phải rõ ràng, cụ thể, trả lời những câu hỏi như: Ai? Sẽ thực hiện
cái gì? Vào thời gian nào? Bằng cách nào?...
Mục tiêu phải có tính khả thi.
Xác định được những thuận lợi đã có.
Xác định được những khó khăn có thể gặp phải trong quá trình thực hiện
mục tiêu.
Xác định được những việc cần làm để thực hiện mục tiêu.
Xác định được những người có thể hỗ trợ hoặc giúp đỡ.
Xác định rõ mốc thời gian hoàn thành.
Chia mục tiêu thành từng giai đoạn với các mốc thời gian thực hiện cụ thể.
Nhờ người khác đặt hộ mục tiêu cho mình.
Phải kiên định, quyết tâm trong việc thực hiện mục tiêu đề ra.
Từ bỏ mục tiêu ngay nếu gặp khó khăn.
Tiếp đó, tôi cho các em nhớ lại một thành công của em trong cuộc sống
và cho biết:
a. Em đã làm để có được thành công đó?
b. Em mất bao lâu để có được thành công?
c. Em đã có những thuận lợi gì?
d. Những khó khăn nào em đã gặp phải? Em vượt qua những khó khăn

này bằng cách nào?
e. Em đã có sự giúp đỡ của ai? Bằng cách nào?
Và cuối cùng, các em phải làm bài tập khó “Đặt mục tiêu”: Hãy thực
hành đặt một mục tiêu cho mình (có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn)
theo các mục tiêu sau:
Đặt mục tiêu
1. Mục tiêu của tôi là: …………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
2. Tôi sẽ thực hiện mục tiêu này trong khoảng thời gian : ………………
…………………………………………………………………………………
3. Tôi muốn hoàn thành mục tiêu này vào : ngày … tháng … năm ……
4. Những thuận lợi đã có :
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
5. Những khó khăn tôi có thể gặp phải:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Những biện pháp tôi cần làm là:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Những người có thể hỗ trợ, giúp đỡ:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
14


Mục tiêu của tôi là sau bài học, các em sẽ có kĩ năng đặt mục tiêu giúp
các em sống có định hướng, có kế hoạch thực tế và dễ thực hiện mục tiêu đặt
ra. Một mục tiêu khả thi là mục tiêu phải phù hợp với hoàn cảnh bản thân, xác
định đúng những thuận lợi, khó khăn và những việc cần làm cho từng giai

đoạn thực hiện, kiên định và có quyết tâm chính là động lực quan trọng cho
việc thực hiện được mục tiêu.
Trên đây là 7 kĩ năng sống mà các em học sinh lớp 4 đã được học trên
lớp. Các em tiếp thu bài học rất nhanh, nắm vững các kĩ năng và vận dụng tốt
trong cuốc sống hang ngày.
2.3.3. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
Năm học 2008-2009, Bộ giáo dục và Đào tạo phát động phong trào
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng
sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện, phong trào đã có sức lan tỏa
mạnh mẽ cả chiều sâu lẫn chiều rộng, mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành
giáo dục và cho xã hội. Ngay từ năm đầu tiên Bộ phát động phong trào, tôi đã
tích cực hưởng ứng. Muốn phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” ở mỗi trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên phải tích cực “xây
dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Có nhiều “lớp học thân thiện, học
sinh tích cực” thì mới có “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra môi trường học tập thân thiện,
an toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh cảm thấy “Mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”. Xây dựng được “lớp học thân thiện” thì sẽ có “học
sinh tích cực”. Xây dựng được lớp học thân thiện, học sinh tích cực thì sẽ hạn
chế được tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học, sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh.
Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” được tôi
tiến hành từng bước như sau:
Trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp
Lớp học thân thiện phải có cây xanh, phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và
được trang trí đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tôi
hướng dẫn và cùng với học sinh thực hiện các công việc sau đây:
Trồng cây xanh trong lớp học.
Trang trí lớp đẹp, hài hòa đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao.

Phần trang trí lớp, tôi giao trực tiếp cho từng tổ: mỗi tổ phải sưu tầm tranh
ảnh liên quan đến các môn học và chọn 5 bài vẽ đẹp nhất để trưng bày. Tranh,
ảnh các em sưu tầm được dán vào giấy khổ lớn theo từng môn học (Lịch sử,
Địa lí, Khoa học, Mĩ thuật) và được bao bên ngoài bằng giấy bóng trong suốt.
Sau đó đóng lên vách tường xung quanh lớp.
Xây dựng mối quan hệ thầy - trò
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn - ban ơn; bề trên - kẻ
dưới; giảng giải - ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ
phân công - hợp tác. Thầy thiết kế - trò thi công. Thầy làm mẫu, giao việc 15


trò làm theo. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh”. Do vậy, mọi yêu cầu tôi
đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò
phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới
thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không
phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là
quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc - học trò làm; tôi hướng dẫn - học trò
thực hiện. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm
nhiều. Làm việc như thế nào thì đạo đức, ý thức sẽ kèm theo như thế ấy. Làm
đến nơi đến chốn thì y thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn.
Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự
hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi
đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi
theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua
loa trước mặt học sinh.
Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và
tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp
giúp đỡ các em sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc
phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc
phạm sẽ làm tan nát tâm hồn trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét

thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người
đến nhà vận động.
Xây dựng mối quan hệ bạn bè.
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia
đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy. Nếu
các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với
nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu;
ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không
phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Là một giáo viên chủ
nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè
đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng
môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất
lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng
giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi
sự hợp tác của nhiều học sinh.
Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp
không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao
đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó
phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó
giảng hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại.
2.3.4. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục
Trong nhà trường, tôi luôn giữ vững mối quan hệ với các đồng nghiệp,
cùng với hội cha mẹ học sinh, hội khuyến học của lớp làm tốt công tác xã hội
16


hoá giáo dục. Để làm được điều đó, tôi đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ
chức tuyên truyền cho phụ huynh và học sinh về chủ trương, nội dung xã hội
hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước một cách thường xuyên với các hình

thức sinh động, đa dạng như trong hội nghị phụ huynh, trong các buổi sinh
hoạt lớp. Đặc biệt tranh thủ sự hỗ trợ của Tầm nhìn thế giới. Từ đó đã tạo
được sự đồng thuận sâu sắc và ý thức trách nhiệm của mỗi người dân và cộng
đồng xã hội trong việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Hiểu rõ bản
chất xã hội hóa giáo dục; thấy vai trò, nhiệm vụ, vị trí của mình để tham gia
công tác giáo dục theo khả năng, điều kiện và chức năng cho phép. Tạo ra
phong trào học tập sâu rộng theo nhiều hình thức. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của ba môi trường: Nhà trường, gia đình và xã hội, luôn lấy hoạt động
giáo dục trong nhà trường làm trung tâm. Xây dựng môi trường sống trong
gia đình lành mạnh. Phối hợp chặt chẽ với nhà trường chăm lo giáo dục con
em mình. Không khoán trắng trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm, cho nhà
trường và xã hội. Cùng với hội khuyến học nhà trường vận động đóng góp,
góp phần không nhỏ trong việc khuyến học, khen thưởng, động viên kịp thời
cho học sinh.
2.3.5. Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành
mạnh
Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở
thích của hầu hết các học sinhTiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh
hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà
chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng sống ở mỗi em sẽ được hình thành
và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối
với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em
phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng
tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết
nối, đoàn kết các em lại với nhau.
Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ,
tôi có thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh
hoạt ngoài giờ lên lớp.
Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa.
Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập

thể, biểu diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,...
Trong các tiết Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em
chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng
tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị
bệnh,... và đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các
hoạt động này, các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống
cần thiết.
Kết hợp với Tổng phụ trách Đội và các giáo viên khác tổ chức các
hoạt động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
17


Giáo dục ngoài giờ lên lớp được qui định trong chương trình chính
khóa, không bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp.
Nhưng nếu các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì
sẽ mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức không khéo
léo thì sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt
động chiếm nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham
gia trái buổi, mỗi tuần một buổi.
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Thi
kéo co, nhảy bao bố, rung chuông vàng, hái hoa dân chủ, thi tìm hiểu về An
toàn giao thông,.. Nội dung thi được tôi soạn bằng chương trình powerPoint
nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần tham gia.

Tổ chức các sân chơi bổ ích cho học sinh
- Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ
tranh chào mừng các ngày lễ lớn.
- Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập
và làm một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè.

- Thực hiện tốt các đợt văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam
20/11; 08/3; ... trong các đợt thi đua đó, lớp tôi luôn đạt được giải cao trong
trường.
18


2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này với học sinh lớp
mình phụ trách, tôi đã thu được nhiều kết quả khả quan:
Tất cả học sinh đều được tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính
tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin; được rèn luyện
khả năng sẵn sàng học tập ở trường và hiệu quả ngày càng cao.
Các em có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự
lập; kĩ năng nhận thức; kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các
hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của mình; ngoài ra có các em còn được
rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua
các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục, và các môn học khác.
Tất cả các em đều được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc,
giao tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở
trường cũng như ở gia đình.
Các em được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức
khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ
phát triển.
Kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng đạt được của học sinh lớp 4A,
trường Tiểu học Thọ Thanh sau mỗi chủ đề như sau:
- Kĩ năng Tự phục vụ: 90%
- Kĩ năng Giao tiếp với mọi người và bạn bè: 90%
- Kĩ năng Ra quyết định và giải quyết vấn đề: 85%
- Kĩ năng Tự bảo vệ mình: 100%

- Kĩ năng Tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn: 100%
- Kĩ năng Kiểm soát cảm xúc: 85%
- Mục tiêu của tôi : 80%
Sau khi được tiếp thu các kiến thức về Kĩ năng sống, học sinh đi học
đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến
lớp, các em có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn
bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
3. KẾT LUẬN
Nhờ việc áp dụng và kết hợp linh hoạt các biện pháp nêu trên trong
giảng dạy, tôi đã thu được những kết quả ban đầu rất khả quan trong việc giáo
dục Kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học Thọ Thanh. Học sinh
lớp 4A của tôi đã nắm vững các kiến thức Kĩ năng sống đã được học và áp
dụng tốt trong đời sống hàng ngày. Các em đã bớt đi sự sợ sệt, e dè mỗi khi
gặp các tình huống xấu, mà đã biết tự tin tìm cách giải quyết. Đây cũng chính
là động lực để tôi tiếp tục theo đuổi ý tưởng của mình.
Trang bị kĩ năng sống cho học sinh không phải chuyện đơn giản, không
thể ngày một ngày hai là thành công, mà phải thực hiện xuyên suốt, luôn cập
nhật và đổi mới hình thức tổ chức để lôi cuốn các em vào các hoạt động. Mỗi
một giáo viên có một sự kiên trì áp dụng các biện pháp dạy học tích cực, cùng

19


với tấm lòng thương yêu học sinh, có trách nhiệm với sản phẩm mình làm ra,
(đó là nhận thức của học sinh) thì sẽ đạt được kết quả như mong muốn.
Những công việc tôi làm đều bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một
giáo viên chủ nhiệm lớp, từ tình yêu đối với học trò của mình. Thành công tôi
đạt được phần lớn đều do sự nỗlực của bản thân. Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng
luôn nhận được sự động viên khích lệ của cán bộ quản lí nhà trường, sự chia
sẻ đóng góp từ các giáo viên trong tổ chuyên môn.

Nhưng mọi sản phẩm làm ra cho dù tốt đến mấy, chất lượng cao đến mấy
cũng không thể hoàn hảo tuyệt đối. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng vậy.
Tuy tôi đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của tất cả mọi người.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thường Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép của người khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Người viết:

Tống Thị Hà

20



×