Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.64 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Thịnh
SKKN thuộc môn: Tập làm văn

THANH HÓA NĂM 2017
1


MỤC LỤC

Thứ tự các phần

Tên từng mục

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài
2.Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu


4. Các phương pháp nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng
3. Các biện pháp để dạy tốt văn
tả cảnh ở lớp 5

1
2
3
3
3
4
5– 14

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh
nghiệm

14-15

PHẦN NỘI DUNG

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15
16
17


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc
gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Goki từng nói:
2


“Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Vì vậy, bồi dưỡng hứng thú học
tập rất quan trọng. Hứng thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu
không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị mất đi.
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh thích
học từ đó học sinh ý thức được lợi ích của việc học để có động cơ học tập. Ngay
từ những ngày học sinh đến trường, chúng ta cần làm cho các em thích học rồi
dần dần HS mới nhận thức về lợi ích của việc học một cách tích cực và thiết
thực. Chẳng hạn “ Con mà biết chữ thì thật là thú vị. Cô có thể viết cho con lời
nhắn, con có thể đọc truyện, …”, “ Con làm được một đồ chơi đẹp, vẽ được một
bức tranh đẹp, làm thế nào để mẹ và cô biết là của con. Hãy học để viết tên lên
đồ chơi và tranh nhé!”,“ Và đây là một căn nhà đầy đồ chơi. Chìa khoá để mở
có ghi một chữ, ai biết đọc sẽ mở được ngay.”, “ Còn đây là một vương quốc
thật diệu kì dành cho những người biết đọc, viết”, …
Không có con đường nào khác để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của
HS với tiếng Việt và Văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ
đẹp và khả năng kì diệu của chính đối tượng học tập tiếng Việt, văn chương.
Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến
hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Đó có thể là một lời vào bài hấp dẫn
cho giờ Tập đọc. Đó có thể là việc lựa chọn ngữ điệu nói cho giờ Luyện từ và
câu hay mối quan hệ hợp tác tích cực giữa thầy và trò, hoặc hình thức tổ chức
dạy học hấp dẫn…
Bởi thế, dạy tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng

đồng và đời sống mỗi con người. Những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội,
văn hoá giáo dục, thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học nói chung đã
dẫn tới những yêu cầu mới trong dạy Tiếng Việt ở nhà trường, đặc biệt là đối với
bậc Tiểu học.
Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Những
kiến thức mà các em được tiếp thu ở Tiểu học là cơ sở quan trọng để các em học
lên các bậc học cao hơn. Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học chủ đạo.
Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học được chia thành nhiều phân môn như:Tập đọc,
Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn.
Trong các phân môn nói trên, Phân môn Tập làm văn là một môn có tầm
quan trọng trong tất cả các môn học vì chúng quyết định về nhiều mặt. Trong tất
cả các môn học đều phải sử dụng đến hành văn để làm: Lịch sử, Địa lí, Khoa
học, Toán và các phân môn khác, …Môn Tập làm văn có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Nó là phân môn hội tụ đầy đủ nhất các yếu tố: nghe, nói, đọc, viết và là
thước đo sự vận dụng kết quả học tập của các phân môn học khác. Trong quá
trình vận dụng các kĩ năng, kiến thức được hoàn thiện và nâng cao dần. Phân
môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và
viết) của đề bài ra. Nhờ vậy tiếng Việt trở thành một công cụ sinh động trong tư
duy phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh. Nó còn có tầm
quan trọng cho đến cả sau này khi học sinh không còn học trong mái trường nữa
thì môn Tập làm văn vẫn theo là hành trang để đi vào đời cho các em như: học
3


sinh có làm văn tốt thì ăn nói mới lưu loát được, muốn có một bài “diễn thuyết”
giỏi mang tính thuyết phục thì cũng phải có hành văn tốt. Vậy có thể nói môn
Tập làm văn có tầm ảnh hưởng rất lớn trong cả một thế hệ con người. Vậy thì
ngay trong nhà trường phải dạy như thế nào để các em có thể lĩnh hội môn này
một cách tốt nhất, làm sao để phát huy khả năng của học sinh, phát huy ngôn
ngữ của học sinh đó là một vấn đề mà mỗi người giáo viên chúng ta cần phải suy

nghĩ dạy như thế nào để có chất lượng.
Hơn nữa, tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói dùng
trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam. Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm
lĩnh tri thức. Đối với học sinh Tiểu học, biết nói cho đúng, đủ, rõ nghĩa là đã
khó; để nói hay, nói có cảm xúc và cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống và
viết thành những bài văn thì lại càng khó khăn hơn nhiều. Cái khó ấy lại chính là
cái đích cuối cùng mà phân môn Tập làm văn đòi hỏi người học cần đạt tới. Kiến
thức Tập làm văn ở Tiểu học tập trung nhiều trong chương trình Tập làm văn lớp
4 - 5 với các kiểu bài như: trao đổi ý kiến; kể chuyện; miêu tả; …Trong đó khó
nhất đối với học sinh là miêu tả. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy học
sinh có thể làm tốt các kiểu bài ở thể loại văn miêu tả như: tả đồ vật, tả con vật,
tả người; nhưng trong chương trình Tập làm văn lớp 5 - khi làm văn tả cảnh, thì
học sinh còn nhiều lúng túng; câu văn thường ngắn ngủn, què quặt, thiếu bộ
phận, thiếu hình ảnh; diễn đạt rối rắm, thiếu cảm xúc. Các bài viết thường rơi
vào tình trạng liệt kê, kể mà không tả, khô cứng. Hơn nữa, học sinh lại ngại học
Tập làm văn. Do vậy, khi dạy kiểu bài này đòi hỏi giáo viên phải có nhiều sáng
tạo cũng như sự nhạy bén, linh hoạt trong quá trình lên lớp tạo hứng thú cho các
em học tập. Chuẩn bị thật công phu các tình huống có thể gặp ở học sinh.
Chính vì những khó khăn này nên tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài
“Một số biện pháp gây hứng thú cho học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả.” trước
hết là giúp nâng cao chất lượng Tập làm văn cho lớp tôi phụ trách. Sau đó, mục
tiêu quan trọng hơn là góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp
5 nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy- học văn tả cảnh lớp 5.
- Thực trạng dạy- học văn tả cảnh ở lớp 5.
- Một số biện pháp dạy - học văn tả cảnh lớp 5.
- Tìm ra những khó khăn, sai sót mà giáo viên và học sinh thường mắc phải khi
dạy học kiểu bài tập làm văn tả cảnh. Qua đó đưa ra giải pháp khắc phục có hiệu

quả cho quá trình dạy học kiểu bài này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Dạy - học nội dung kiểu bài tả cảnh ở lớp 5.
4


2. Phạm vi nghiên cứu.
- Biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 làm tốt văn tả cảnh.
- Các tiết Tập làm văn về bài văn tả cảnh ở lớp 5.
- Thực trạng dạy-học văn tả cảnh của giáo viên, học sinh lớp 5B trường Tiểu học
Quảng Thịnh nơi tôi công tác trong thời gian qua, đặc biệt là năm học 20162017.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí luận.
- Đọc các tài liệu giáo dục có liên quan đến tâm lí học sinh, tài liệu, sách giáo
khoa liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Đọc và tìm hiêu về một số phương pháp dạy Tiếng việt, các tài liệu Bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
- Phỏng vấn học sinh các vấn đề có liên quan.
- Đọc và phân tích các bài văn của học sinh.
- Trao đổi về phương pháp dạy với các giáo viên trong khối.
1.4.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người
đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó

xung quanh ta. Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử
dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh
động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy
nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được
miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn
đạt khác nhau. Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung
quanh ta như dòng sông, cánh đồng, hàng cây... Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc
biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh
động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật
với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét
riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết

5


về phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện
pháp nghệ thuật tu từ được học.
2.2. THỰC TRẠNG.
2.2.1. Thuận lợi:
- Kiểu bài tả cảnh các em cũng đã được làm quen từ lớp 2,3. Lên lớp 4,5 các em
lại tiếp tục rèn kỹ năng làm văn từ dễ đến khó (Rèn kỹ năng viết đoạn, liên kết
đoạn) rất phù hợp nhận thức của học sinh tiểu học. Đặc biệt trình tự tả cảnh cũng
giống nhau ở lớp 4. Đối tượng của bài văn tả cảnh trong chương trình lớp 5 hầu
hết là những cảnh vật quen thuộc, gần gũi với các em học sinh vùng nông thôn
như dòng sông, cánh đồng, vườn cây, đêm trăng, … vì vậy các em dễ quan sát
hơn. Học sinh lớp 5 lớn hơn so với các lớp dưới nên nhận thức tốt hơn, có khả
năng tưởng tượng phong phú hơn, biết nhìn nhận và thâu tóm những hình ảnh
vào tri thức và nhớ có hệ thống hơn so với các em lớp dưới. Gần như đa số các
em đã biết sử dụng dùng từ đặt câu, viết như thế nào cho trọn vẹn ý, các em lĩnh

hội nhanh và đã biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài văn của mình.
- Ban giám hiệu hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học
đặc biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Đa số học sinh trong lớp có ý thức ham học hỏi, ngoan, biết vâng lời, có ý thức
tìm tòi.
- Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Học sinh sống ở vùng nông thôn gần gũi với thiên nhiên, đồng ruộng, vườn
cây, dòng sông, đêm trăng …
- Bản thân là giáo viên nhiều năm liền giảng dạy lớp 5, yêu nghề, nhiệt tình, tâm
huyết với nghề mà mình đã chọn.
2.2.2. Khó khăn:
* Đôi với hoc sinh:
- Phần lớn học sinh không thích học phân môn Tập làm văn vì môn này khó nó
đòi hỏi sự sáng tạo và năng khiếu của các em.
- Thói quen tập ghi chép những hình ảnh, cảm xúc của mình về cảnh là một thói
quen đòi hỏi sự kiên trì và mất nhiều thời gian. Nếu như chỉ lơ là trong một thời
gian ngắn thói quen đó sẽ dần mất đi. Khả năng quan sát của các em học sinh lớp
5 và sự lựa chọn chi tiết để quan sát và miêu tả chưa được tinh tế lắm. Các
6


em hầu như chưa biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật
miêu tả khi quan sát. Nhiều học sinh ở nông thôn chưa hề được ra thành phố, có
em chưa từng được đến công viên, vườn bách thú hay những danh lam thắng
cảnh khác… vì vậy khi làm bài, nhiều học sinh không hề nắm được đặc điểm đối
tượng mình đang tả mà phải tưởng tượng qua lời mô tả hết sức chung chung của
giáo viên nên viết không chân thực. Do vậy bài văn khó có thể truyền cảm cho
người đọc.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên khi viết văn thường bị lặp lại từ, lời

văn chưa lưu loát, diễn đạt chưa trôi chảy, thiếu hình ảnh, cảm xúc.
- Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy tiện.
- Một số học sinh làm theo văn mẫu hoặc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã
hướng dẫn lập. Chưa biết tích hợp các phân môn khác như: Tập đọc, Luyện từ
và câu, Chính tả, Khoa học, Lịch sử và Địa lý vào Tập làm văn. Chưa sáng tạo
trong khi dùng từ đặt câu.
* Đôi với giao viên:
- Hiện nay, thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho phân môn Tập làm văn còn rất
ít.( nếu như không muốn nói là không có)
- Bản thân giáo viên đôi khi chưa đầu tư đúng mức cho các tiết dạy Tập làm văn.
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để dẫn dắt, hướng dẫn học sinh thâm nhập vào
thực tế để các em hiểu về thiên nhiên, cảnh vật… xung quanh các em.
* Đối vớớ́i sách giáo khoa:
Hiện nay theo phân phối chương trình trong sách giáo khoa có 19 tiết tả
cảnh, trong đó có 13 tiết lý thuyết kết hợp thực hành, còn lại là kiểm tra và trả
bài. Nội dung tả cảnh tập trung vào các cảnh: Một buổi trong ngày, một hiện
tượng thiên nhiên, trường học, cảnh sông nước,…Với các nội dung trên, yêu
cầu viết lại chủ yếu là đoạn văn. Do đó, với mỗi cảnh học sinh ít được viết hoàn
thiện một bài văn hoàn chỉnh ngay trên lớp để thầy cô và bạn bè trực tiếp góp ý.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy, không
gây hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số biện
pháp giúp các em biết cách lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả như sau.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ DẠY TỐT VĂN TẢ CẢNH Ở LỚP 5:
Biện pháp 1: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh
các em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dòng sông,
một cánh đồng, một góc phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính
7



nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong
văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa
một cách công phu. Tả là mô phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối
tượng có hình ảnh…chứ không thể là liệt kê các chi tiết.
Văn tả cảnh mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào,
dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn tả cảnh không bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét,
tưởng tượng, đánh giá hết sức tinh tế và phong phú. Chẳng hạn khi tả trăng nhà
thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ
thơ, rất đổi hồn nhiên trong sáng:

Trăng hồng như quả chín
Lơ lửng mà không rơi…
hay
Trăng tròn như quả bóng
Bạn nào đá lên trời.
Còn đối với nhà văn Nam Cao thì vành trăng và ánh sao lại được nhìn
nhận, được cảm theo một cách hoàn toàn khác:
“Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao, là cái đĩa bạc trên cái thảm
nhung da trời. Trăng tỏa rộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những
tâm hồn khao khát ngụp lặn”.
Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để
học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối; bệnh công thức sáo rỗng. Mỗi cảnh đều
nằm trong một khung không gian và thời gian, đó là cái nền cho cảnh vật được
miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này, nhưng đặc biệt cần tập
trung tả nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với cảnh khác. Khi tả cảnh các
em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh động.
Biện pháp 2: Dạy học sinh nắm vững thể loại và cấu tạo bài.
Văn tả cảnh ở lớp 5 thường yêu cầu học sinh tả những cảnh nhỏ gần nơi các
em đang sống: Ngôi nhà em ở, quang cảnh trường em, con đường đưa em tới

trường, dòng sông với rất nhiều kỉ niệm…

8


Điều quan trọng là giúp học sinh xác định được: Đối tượng miêu tả là gì?
Trọng tâm miêu tả của cảnh? Khi xác định được như vậy các em sẽ miêu tả đúng
trọng tâm không bị lạc đề khi miêu tả.
Giáo viên cần giúp cho học sinh nắm vững bài văn tả cảnh gồm cấu trúc 3
phần. Học sinh dựa vào cấu trúc 3 phần đó để xây dựng nội dung đoạn văn, bài
văn.
* Bố cục bài văn gồm ba phần:
• Mở bài: Giới thiệu chung về cảnh vật (cảnh vật đó ở đâu? Em tả nó vào lúc
nào? Nét nổi bật nhất của cảnh vật đó là gì?).
• Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu
tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng những biện pháp nghệ thuật để
lột tả hình ảnh một cách sinh động.
• Kết bài: Nêu cảm nghĩ của người viết về cảnh vật (sự yêu thích, sự gắn bó).
* Hướớ́ng dẫn học sinh viết các đoạn văn.
• Đoạn mở bài: Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc đến với
bài viết của mình. Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị, chân
thành, tự nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo gây
ấn tượng, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Chẳng hạn cũng mở bài cho bài văn tả con đường có thể mở bài trực tiếp:
“Từ nhà em đến trường có thể đi theo nhiều ngã đường. Nhưng con đường
mà em thích đi hơn cả là con đường Nguyễn Trường Tộ”.
Nhưng cũng có thể vào bài gián tiếp:
“Tuổi thơ em có biết bao kỉ niệmgắn bó với cảnh vật của quê hương. Đây là
dòng sông nhỏ đầy ắp tiếng cười của bon trẻ chúng em mỗi buổi chiều hè. Kia
là triền đê rộn rã tiếng hat của thanh niên nam nữ những đêm trăng sang.

Nhưng gần gũi, thân thiết nhất với em vẫn là con đường từ nhà đến trường - con
đường đẹp đẽ suôt những năm thang hoc trò của em.”
Như vậy, cũng là giới thiệu con đường từ nhà đến trường mỗi người lại có
một cách giới thiệu riêng. Với học sinh, sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng
của từng em trong cách suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy nhiên chúng ta không
nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo một cách nào, mà chỉ dẫn cho

9


học sinh cách vào bài phải bám sát yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không
rườm rà nhưng cũng không thô kệch vô duyên.
• Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết
theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể
hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ
thuật mà người viết vận dụng để tả.
Khi liên kết câu văn, đoạn văn các em cần vận dụng các cách liên kết đã học ở
Luyện từ và câu như: liên kết bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ, lặp từ,… Tuy
nhiên khi sử dụng những cách liên kết này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng
không đúng gây rườm rà.
• Đoạn kết bài: Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng rất quan trọng bởi
đoạn kết bài thể hiện được rất nhiều tình cảm của người viết với đối tượng miêu
tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết
luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài
không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người
đọc. Vì vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở
rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình.
Biện pháp 3: Dạy kĩ năng quan sát.
Một yêu cầu cơ bản để viết tốt bài văn tả cảnh đó là học sinh phải có kĩ năng
quan sát. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa

hình ảnh, nội dung miêu tả.
2.3.1 Quan sát đối tượng miêu tả:
Trươc hết phải tập cho hoc sinh quan sat, vì hoc sinh thường không có thói
quen quan sat. Phải có công quan sat để tìm ra những nét nổi bật, độc đao của
đôi tượng của quan sat.
+ Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả
các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…
+ Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật
kĩ.
+ Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác có
ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
+ Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật
xung quanh.

10


+ Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
+ Có thể quan sát trực tiếp cảnh thực, qua video máy chiếu hoặc hồi tưởng bằng
trí nhớ.
Học sinh phải biết cách quan sát và chọn lọc các chi tiết quan sát được. Mọi
kết quả quan sát được thể hiện trong bài văn tả cảnh của các em. Quan sát tinh
vi, thấu đáo bài viết sẽ đặc sắc hấp dẫn. Quan sát hời hợt phiến diện bài viết sẽ
khô khan. Khi quan sát chúng ta có thể quan sát trực tiếp cảnh vật hoặc hồi
tưởng lại những cảnh vật mà mình đã từng quan sát.
Kĩ năng quan sát chủ yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thông
thường học sinh đã sử dụng kĩ năng này nhiều lần và thường là không tự giác, sơ
lược đơn giản. Điều quan trọng là giáo viên giúp học sinh khi học văn tả cảnh
biết tự giác, chủ động có định hướng, mục đích khi quan sát.
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lựa chọn trình tự quan sát. Tốt nhất là

mỗi em tự tìm một trình tự quan sát thích hợp. Trường hợp học sinh yếu gặp khó
khăn giáo viên có thể gợi ý trình tự quan sát.
Thông thường có một số trình tự quan sát cảnh vật tương ứng với trình tự miêu
tả:
- Trình tự không gian: Từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc
ngược lại, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới , từ ngoài vào trong...
- Trình tự thời gian: Quan sát theo diễn biến thời gian từ bắt đầu đến kết thúc, từ
mùa này sang mùa khác, tháng này sang tháng khác, tuần này sang tuần khác…..
Dù quan sát theo trình tự nào thì học sinh cũng phải biết dừng lại ở bộ phận chủ
yếu, trọng tâm của cảnh để quan sát kĩ lưỡng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát. Đây là thao tác
quan trọng nhất và có tính chất quyết định. Thông thường các em chỉ dùng mắt
để quan sát giáo viên cần hướng dẫn các em dùng mũi để ngửi hương thơm của
cây cỏ, dùng tai để nghe âm thanh của sự vật, dùng làn da để cảm nhận hơi thở,
cảm nhận làn gió thổi, không khí....
Khi quan sát học sinh cần phải biết thu nhận đặc điểm đặc sắc hay độc đáo ở
cảnh vật do từng giác quan mang lại.
Học sinh thu nhận các cảm xúc, các liên tưởng, hồi tưởng, so sánh do các đặc
điểm của cảnh vật mang lại. Học sinh tìm tòi các từ ngữ thích hợp để diễn đạt
các điều thu nhận trên.

11


2.3.2. Lựa chon hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả.
+ Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát.
+ Căn cứ vào nội dung ghi chép được.
+ Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và
khác biệt của đối tượng để miêu tả.
Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên

hình ảnh tổng thể về đối tượng có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó
mật thiết với đối tượng.
Biện pháp 4: Dạy kĩ năng lập dàn ý.
- Kĩ năng lập dàn ý có vai trò hết sức quan trọng đây là khâu quyết định của việc
xây dựng nội dung bài văn. Muốn lập được dàn ý giáo viên phải hướng dẫn học
sinh hai công việc chính đó là chọn lọc ý và sắp xếp thành dàn ý. Những điều
các em quan sát thu thập được bao gồm cả thô lẫn tinh. Điều quan trọng khi lập
dàn ý là các em biết lựa chọn tinh và loại bỏ thô. Dựa vào đâu để lựa chọn? giáo
viên cần định hướng cho các em đâu là trọng tâm đâu là thứ yếu.
Ví dụ: Khi tả hồ sen thì trọng tâm là tả hồ, tả sen còn cảnh bầu trời, cảnh vật
quanh hồ là phụ.
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn các em cần biết sắp xếp nội dung theo từng
phần dàn ý có thể là theo thứ tự không gian hoặc thứ thự thời gian (theo thứ tự
nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ gần đến xa, …)
- Với học sinh yếu kém giáo viên có thể cho học sinh lập dàn ý theo mức độ từ
dễ đến khó.
Mức độ 1: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát và câu hỏi định hướng.
Mức độ 2: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát.
Biện pháp 5: Dạy học sinh kĩ năng dựng đoạn trong bài tả cảnh.
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã chọn cho phù hợp.
Cách làm này giúp các em không tả dài dòng mà các em nắm bắt được cái thần,
cái hồn, cái dáng vẻ đặc biệt của cảnh; bằng ngôn ngữ làm thể hiện lên trước
mắt người đọc một khung cảnh rất thực, sống động. Nói ít gợi nhiều không có
nghĩa làm các em chỉ viết vài câu rồi chấm hết một bài văn mà khi tả
12


cảnh không nên lan man, cái nào cũng tả. Cần phải biết chọn lọc những đặc
điểm nổi bật của cảnh. Khi tả cảnh các em cần chú ý:
+ Tả bao quát toàn cảnh, nêu khung cảnh chung của cảnh vật và nêu cảm

tưởng, cảm nhận chung của em về cảnh vật.
+ Tả từng bộ phận của cảnh theo một trình tự nào đó. Chú ý đặc điểm của cảnh
vật về đường nét, màu sắc, âm thanh, quy mô, chỉ ra những nét riêng, vẻ riêng
của cảnh.
Ví dụ: Quan sát một ngày mùa ở làng quê, nhà văn Tô Hoài đã ghi lại:
“Có lẽ bắt đầu từ những đêm sương sa thì bóng tôi đã hơi cứng lại và sang
ngày ra thì trông thấy màu trời có hơi vàng hơn thường khi. Màu lúa chíndưới
đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt màu vàng hoe….”.
Đó chính là vẻ đẹp của một làng quê khi vào mùa; một quang cảnh rất trù phú,
được mùa của bà con nông dân. Hay cũng một ngày mùa, Nguyễn Thị Ngọc Tú
đã ghi lại:
“Nắng lên, nắng chan mỡ gà trên những canh đồng lúa chín. Rất đều, rất gon
nhẹ cac xã viên cúi lưng xuông, Một tay nắm khóm lúa, một tay cắt giật. Một
nắm, hai nắm,…xoèn xoẹt … xoèn xoẹt … lúa chất dồn thành từng đông… ”
Ở những nét nổi bật, tiêu biểu của cảnh người đọc dễ dàng nhận thấy một
không khí làm việc hăng say; một cảnh ngày mùa bội thu và cũng đầy vất vả
của bà con nông dân.
Từ dàn ý đã lập được học sinh sẽ sử dụng ngôn ngữ phát triển ý để dựng thành
đoạn và bài. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh viết bài văn tả cảnh thành nhiều
đoạn, mỗi đoạn tả một bộ phận của cảnh. Như vậy các đoạn đều có nội dung tập
trung miêu tả cảnh định tả. Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn, giáo viên phải hướng
dẫn các em đảm bảo có sự liên kết chặt chẽ về ý nghĩa giữa các câu trong đoạn để
cùng tả những đối tượng có quan hệ mật thiết với nhau trong cảnh. Sự liên hệ của
các câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết phép lặp, phép thế, phép nối,
phép liên tưởng…. Đoạn nào không đảm bảo các yêu cầu trên sẽ
trở nên lộn xộn. Các đoạn văn trong bài liên kết với nhau thành một bài văn
hoàn chỉnh. Có nhiều cách liên kết đoạn văn như dùng từ ngữ thay thế, dùng câu
nối…Trong đoạn văn luôn có câu chủ đề hoặc câu kết đoạn. Câu chủ đề thường
đứng ở đầu đoạn diễn dịch tóm tắt toàn bộ nội dung đoạn. Câu kết đoạn thường
đứng ở cuối đoạn quy nạp.


Thường thì trong văn tả cảnh khi miêu tả theo trình tự thời gian người ta hay
dùng các từ chỉ thời gian để liên kết đoạn. Còn miêu tả theo thứ tự không gian
13


thì dùng các từ chỉ vị trí. Khi xây dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh giáo viên
cần hướng dẫn học sinh dựa vào nội dung dàn ý phát triển đoạn thì nội dung các
đoạn không bị lặp dàn ý, đồng thời nội dung phong phú xúc tích.
Biện pháp 6: Dạy kĩ năng tích lũy vôn từ, sử dụng từ ngữ, hình ảnh làm
giàu thêm trí tưởng tượng trong văn tả cảnh.
6.1.Tích lũy vôn từ.
- Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: trong giao tiếp hàng ngày; qua đọc sách,
báo; qua xem, nghe truyền hình, truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo
cung cấp…
- Ghi chép lại dùng để miêu tả. Ví dụ như:
+ Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mươt, xanh rì, xanh mơn mởn, xanh
non, xanh la mạ, xanh biết, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê, khẳng
khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xac, trơ trụi, lac đac, xào xạc, lả tả,…
+ Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn xoẹt, lach
cach, cót két, phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tach, đồm độp, loong
boong, loảng xoảng,…
+ Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngot, chan chat, nồng
nồng, cay xè, ngai ngai, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngot mat,… Ngôn
ngữ góp phần làm cho bài văn tả cảnh trở nên sinh động và tạo hình. Khi hướng
dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ tả cảnh giáo viên cần hướng dẫn các em sử dụng
tính từ chỉ màu sắc, hình khối, tính chất… các từ tượng thanh và tượng hình, các
phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ… Nếu học sinh biết sử dụng khéo chúng ta sẽ
phối hợp với nhau, đan cài vào nhau dệt nên bức tranh phong cảnh
bằng ngôn từ nhiều màu sắc, có góc cạnh.

Sự sống của bài văn nằm trong hình ảnh. Khi sử dụng hợp lí các biện pháp tu
từ sẽ giúp cho hình ảnh trở nên sống động gợi cảm, gợi hình. Thông qua việc sử
dụng ngôn từ và hình ảnh học sinh có thể bộc lộ cảm xúc của mình khi viết
khiến bài văn chân thực và đặc trưng riêng của cá nhân mỗi học sinh.
Muốn giúp học sinh biết sử dụng ngôn từ, lựa chọn hình ảnh phù hợp khi tả
cảnh giáo viên phải giúp học sinh tích lũy vốn từ thông qua việc học các phân
môn khác của Tiếng Việt. Việc tích lũy ấy chẳng khác nào dòng sông chắt chiu
dần từng hạt phù sa để rồi có một bãi bồi màu mỡ hứa hẹn cho một vụ mùa bội
thu cây trái, của đối tượng cần miêu tả.
Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái
đẹp còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên
14


sinh động, ấn tượng hơn. Đặc biệt kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả
và các biện pháp nghệ thuật tu từ còn lúng túng. Học sinh thường không có thói
quen lập dàn ý mà viết ngay vào bài làm, nhớ đâu viết đó, viết rồi gạch bỏ, viết
lại. Một số học sinh khi làm bài còn vay mượn ý của người khác, các em thường
sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định
như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì,
không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có
cảm xúc về nó. Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu trí
tưởng tượng của các em khi tả.
6.2. Giúp hoc sinh sử dụng từ ngữ, hình ảnh làm giàu thêm trí tưởng tượng
trong văn tả cảnh.
- Tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung; văn tả cảnh nói riêng là rất quan
trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng
tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được điểm tương đồng
với đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu
tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình đối với cảnh sẽ tả. Tưởng tượng làm

cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống động hơn và gần gũi
với con người hơn.
* Tưởng tượng thế nào?
+ Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
+ Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng,
những ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
+ So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Đây là
một trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói riêng
được hay hơn. Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự vật như
con thuyền, cánh diều, quả bóng, cái đĩa,… Tả chiếc lá bàng ta có thể so sánh
với cái quạt, chiếc bánh đa,… Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể so
sánh với những đốm lửa hồng bập bùng; tả những quả bàng xanh tại sao ta lại
không so sánh với những chú rùa con bé xíu; tả cây cột đèn tín hiệu giao thông
sao lại không tưởng tượng nó với cây kẹo mút khổng lồ…?
+ Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
+ Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
Ví dụ:
“May tuôt to lù lù đứng giữa sân kho, kêu tành tạch. Người ta nhét những ôm
lúa vào miệng nó. Nó nhằn nhằn một thoang rồi phì rơm ra”.(tả một ngày mùa).
Hay tả nắng, Trần Mai Hạnh ghi lại:
15


“Nắng rồi. Hàng thang mưa tầm, mưa tã mới có một ngày nắng đây. Chiếc ao
choàng đục trắng mà bầu trời đang khoac dầm dề cả thang nay đã bị cuôn
phăng đi…”.
Hay tả dòng sông, Nguyễn Trọng Tạo viết:
“Dòng sông mớớ́i điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướớ́t tha.
Trưa về trời rộng bao la

Áo xanh sông mặc như là mớớ́i may.”
+ Ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào
bài viết của mình.
Ngoài ra, còn có những “bí quyết” khác dùng để viết văn tả cảnh hay nữa đó
là sử dụng từ đồng nghĩa để tả. Nó giúp ta miêu tả chính xác, cụ thể biểu hiện
muôn màu, muôn vẻ của sự vật, hiện tượng. Chúng ta hãy đọc bài văn “Quang
cảnh ngày mùa” (SGK TV5 tập 1 trang 10) của nhà văn Tô Hoài để thấy rõ giá
trị của từ đồng nghĩa trong văn tả cảnh.
Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn, các sự vật, hiện tượng trở nên vô cùng sinh
động. Tác giả miêu tả một cảnh vật rất quen thuộc với mọi người; quang cảnh
làng mạc ngày mùa. Nhưng người đọc không hề thấy khô khan, tẻ nhạt. Vì sao
vậy? Đó là bởi tài quan sát và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là sử dụng
từ đồng nghĩa chỉ màu sắc để tả. trong bài văn, chỉ riêng về màu vàng thôi đã có
hơn mười sắc độ khác nhau dành cho từng sự vật. Có màu vàng đậm của lúa đã
chín (vàng xuộm); có màu vàng nhạt, tươi, ánh lên của những ngày nắng đẹp
giữa mùa đông (vàng hoe); có màu vàng của quả chín, giợi cảm giác ngọt ngào
(vàng lịm); có màu vàng đậm, trải trên mặt của lá mít, lá chuối (vàng ối). Như
vậy, nhờ sử dụng từ đồng nghĩa để miêu tả mà không cần nhiều câu chữ, nhà
văn Tô Hoài đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh phong cảnh thật đẹp,
toàn màu vàng - màu đặc trưng của mùa gặt.
Hay trong cuốn hồi kí Bác Hồ, hai nhà văn Hoài Thanh và Thanh Tịnh đã tả
phong cảnh quê bác như sau: “Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác
với cánh đồng quê Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ màu xanh; xanh pha vàng
của ruộng mía, xanh mướt của lúa chiêm đang thời con gái, xanh đậm của
những rặng tre; đây đó một vài cây phi lao xanh biếc và nhiều màu xanh khác
nữa.” Cách sử dụng từ đồng nghĩa chỉ màu xanh như vậy góp phần gợi tả vẻ đẹp
nên thơ và tràn trề sức sống của cảnh vật trên quê Bác.
16



Giúp các em tích lũy vốn từ, biết lựa chọn từ ngữ thích hợp để đặt câu văn có
hình ảnh, tạo nên những đoạn văn hay, diễn đạt trôi chảy. Biết cách sắp xếp ý khi
viết bài, xây dựng bố cục rõ ràng, khoa học. Có thói quen sử dụng các biện pháp
tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; có khả năng giao cảm với đối tượng
miêu tả, cảm xúc tự nhiên, tình cảm chân thành.
Biện pháp 7: Chuyển kể thành tả.
Làm văn miêu tả là phải quan sát như đã nói. Nhưng khi làm bài, các em
thường kể lại chứ không phải là tả, làm cho bài văn khô khan, nhạt nhẻo.
Ví dụ:
+ Quanh thân cây có rất nhiều quả.
+ Trên canh đồng, em trông thấy rất nhiều người đang gặt lúa.
+ Buổi sang, em nghe thấy tiếng chích chòe trong vắt. v.v..
Những câu văn như trên nặng về kể. Vậy chúng ta có thể diễn đạt lại như sau:
+ Quanh thân cây, chi chít những quả là quả.
+ Trên canh đồng, cac bac xã viên cắt lúa nhanh thoăn thoắt.
+ Buổi sang, tiếng chích chòe trong vắt.
Đây mới chính là những câu văn miêu tả. Như vậy, khi viết các em chỉ cần bỏ
bớt những cụm từ như: nó có, em trông thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, nghĩ
rằng, .v.v.. rồi thêm vào những từ láy, tính từ gợi tả, câu văn sẽ nhẹ nhàng, sinh
động; đối tượng được miêu tả sẽ trực tiếp hiện ra.
Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết Trả bài Tập làm văn.
Tiết Trả bài tập làm văn giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết
lần sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn.
Tuy nhiên, ở tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ
càng, bớt xén thời gian để dạy môn khác.
Vậy, muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên cần phải:
- Nhận xét, đánh giá bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho
học sinh.

17



- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu; lỗi
diễn đạt; lỗi chính tả;… ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay.
- Nhận xét ưu điểm, nhược điểm; thống kê số lỗi.
- Chữa lỗi cho học sinh theo từng loại như đã thống kê khi nhận xét, đánh giá.
- Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.4.1. Đối vớớ́i học sinh:
Học sinh nắm vững các kiến thức về kiểu bài văn tả cảnh, đồng thời mở rộng
thêm, hiểu biết thông qua quan sát hàng ngày, sách báo, phim ảnh, .... Luôn tìm
tòi, trau dồi khả năng quan sát, hình dung, so sánh, liên tưởng điều đó làm cho
bài văn của các em thêm sinh động hấp dẫn hơn.
Qua những biện pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên sau phần tập làm văn về
thể loại tả cảnh, kết hợp với bài kiểm tra định kì, tôi thực hiện khảo sát để kiểm
tra hiêụ quả việc áp dụng kinh nghiệm trên vào thực tế.
Kết quả như sau: Sĩ số lớp 5B: 28 em
Nội dung, yêu cầu

Số lượng Tỷ lệ%

Nắm được thể loại, yêu cầu của đề bài.

28

100

Kĩ năng quan sát tìm ý.

26


92,8

Lập dàn ý và viết bài văn miêu tả cảnh.

28

100

Lập được dàn ý chi tiết và viết được bài văn hay, sử
dụng từ ngữ chính xác, hình ảnh sinh động

8

28.5

Lập được dàn ý và viết được bài văn theo đúng trình tự
dàn ý đã lập

13

43.5

Lập được dàn ý và viết được bài văn nhưng ý còn lộn
xộn, hình ảnh, từ ngữ chưa phong phú, chưa sinh động:

7

25


18


2.4.2. Đối vớớ́i bản thân:
Với cách thức dạy Tập làm văn tả cảnh ở Tiểu học nói trên, bản thân tôi phải
có kế hoạch một cách có hệ thống, phải kiên trì, bền bỉ, lâu dài, không thể nóng
vội. Khi học sinh đã hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, biết quan sát đối tượng,
tích lũy được vốn từ miêu tả, biết xây dựng bố cục bài văn; cách diễn đạt, biết
tưởng tượng và sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn, được sửa lỗi kĩ
càng trong tiết trả bài thì viết văn tả cảnh trở nên dễ dàng hơn; học sinh hứng thú
học hơn rất nhiều, chất lượng bài viết của học sinh được nâng cao. Dạy Tập làm
văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào trong bài dạy, giáo viên và học
sinh càng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dòng cảm xúc, cùng hòa
chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cùng cảm nhận đối tượng với niềm say mê,
thích thú. Muốn vậy, người giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo trước khi lên
lớp; phải nổ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu và
sáng tạo mới cho giáo viên được những giờ dạy văn tả cảnh mới mẻ, sâu sắc,
sinh động đem lại hiệu quả cao.
2.4.3 Đối vớớ́i giáo viên:
Không ngừng học hỏi, tìm tòi để nâng cao hiểu biết cũng như tìm ra cách
truyền đạt kiến thức tốt nhất đến học sinh. Tạo cơ hội cho học sinh mở rộng hiểu
biết về các cảnh vật ở mọi giờ học: trong giờ hoạt động ngoại khóa bằng cách
thông qua hệ thống câu đố về cảnh, trong giờ địa lí, lịch sử địa phương, trong giờ
khoa học, tập đọc... Bài văn tả cảnh còn là kết quả của các bài văn tả: cây cối, đồ
vật, con vật, con người,.. cùng những hoạt động của nó. Chính vì vậy không nên
tách rời văn tả cảnh với các dạng văn miêu tả đã học.
Trong quá trình dạy học phải tạo thói quen cho học sinh ghi chép những
điều mình quan sát được cũng như những tình cảm, cảm xúc tức thời trước một
đối tượng miêu tả. Bên cạnh việc tạo cho học sinh thói quen tốt, giáo viên phải
là người sát sao trong việc duy trì thói quen đó.


3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học trên
trong thực tế tôi nhận thấy các em học sinh của lớp mình dạy có rất nhiều tiến
bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn hơn, biết thực hiện làm
một bài văn miêu tả cảnh theo trình tự các bước một cách độc lập và thành thói
19


quen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi
về chính tả, dùng từ đặt câu... đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng
những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho bài văn trở
nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm văn có cảm
xúc hơn, câu văn chau chuốt hơn...

3.2. Kiến nghị:
Nhà trường nên tổ chức các chương trình ngoại khóa, cho học sinh thăm
quan, dã ngoại để các em có thêm nhiều hiểu biết về cảnh. Điều đó sẽ rất tốt cho
các em khi viết văn.
Trang bị máy chiếu cho các lớp để giáo viên có điều kiện khai thác các tư liệu
trên mạng, chuẩn bị bài giảng chu đáo, phong phú trình chiếu hình ảnh, video
sinh động, hấp dẫn học sinh học tập hơn. Học sinh hiểu rõ về cảnh điều đó sẽ
giúp các em cụ thể hóa và không mơ hồ về đối tượng miêu tả. Học sinh dêc viết
văn hơn. Bài văn tả cảnh đúng thực tế, gần gũi với các em, lời văn chân thật,
sinh động. Đặc biệt là các em phát huy được tính độc lập, sáng tạo riêng.
Trên đây là là kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh đối với học sinh
lớp 5B mà tôi đã trực tiếp giảng dạy và đã được áp dụng có hiệu quả. Tuy nhiên
trong quá trình nghiên cứu và áp dụng còn có nhiều hạn chế do có những khó
khăn nhất định. Tôi rất mong nhận được sự tham gia, đóng góp ý kiến của các

thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp, hội đồng khoa học trường, hội đồng khoa học
ngành để tôi làm tốt nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp trồng người.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 11tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của
người khác.
Người viết

20


Nguyễn Thị Hường

TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT

Tên tài liệu

Nhà xuất bản

1

Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 tập 1,
tập 2.


NXB giáo dục Việt Nam

2015

2

Sách GV Tiếng việt 5 – tập 1, 2

NXB giáo dục Việt Nam

2006

3

Chuyên đề Giáo dục Tiểu học Tập 35

NXB giáo dục Việt Nam

2008

4

Rèn kỹ năng Tập làm văn qua các bài
văn chọn lọc

NXBGiáo dục Việt Nam

2012

5


Luyện tập làm văn 5

NXBGiáo dục Việt Nam

2013

6

Bài tập luyện viết văn miêu tả ở Tiểu
học- Tập 1,2

NXBGiáo dục Việt Nam

2004

7

Cảm thụ văn cho HS tiểu học

NXB Hà Nội

2008

8

Những bài làm văn mẫu lớp 5 – tập 1,2 NXB tổng hợp TP
Hồ Chí Minh

2009


9

Luyện tập làm văn lớp 5

2006

NXBGiáo dục Việt Nam

Năm
xuất bản

21


10
Thông tin trên mạng

22



×