Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN kinh nghiệm dạy giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.2 KB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Môn Toán ở Tiểu học có một tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua môn Toán
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học. Rèn cho học sinh kĩ
năng tính toán, kĩ năng đổi đơn vị, kĩ năng giải toán có lời văn… Đồng thời qua
dạy toán giáo viên hình thành cho học sinh phương pháp học tập, khả năng phân
tích tổng hợp, óc quan sát, trí tưởng tượng tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo,
tư duy.
Hiện nay, giáo dục tiểu học đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt động dạy
học trên lớp “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả”. Để đạt được yêu cầu đó, giáo viên
phải có phương pháp và hình thức dạy học để vừa nâng cao hiệu quả cho học
sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ
nhận thức của học sinh, để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói
chung và của ngành giáo dục bậc tiểu học nói riêng.
Trong chương trình Toán lớp 5 những bài toán về "Chuyển động đều"
chiếm một số lượng tương đối lớn. Đây là một dạng toán tương đối khó đối với
học sinh. Học tốt dạng toán này giúp học sinh rèn kĩ năng đổi đơn vị đo thời
gian, kĩ năng tính toán, kĩ năng giải toán có lời văn. Bên cạnh đó ta còn thấy các
bài toán chuyển động đều có rất nhiều kiến thức được áp dụng vào thực tế cuộc
sống. Vì thế bài toán chuyển động đều cung cấp một lượng vốn sống hết sức cần
thiết cho một bộ phận các em học sinh không có điều kiện học tiếp bậc phổ
thông cơ sở mà phải nghỉ học để bước vào cuộc sống lao động sản xuất. Mặt
khác: việc hình thành , rèn luyện, củng cố các kĩ năng giải toán "Chuyển động
đều" gần như là chưa có nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn, sai
lầm khi giải loại toán này. Vì thế rất cần phải có phương pháp cụ thể đề ra để
dạy giải các bài toán "Chuyển động đều" nhằm đáp ứng các nội dung bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên; bồi dưỡng, nâng cao khả
năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh. Đó là những cuốn sách viết về
loại toán chuyển động đều, nhưng những cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở mức
độ hệ thống hóa các bài tập (chủ yếu là bài tập khó) cho nên sách chỉ được dùng


làm tài liệu tham khảo cho học sinh giỏi, còn lại những tài liệu khác thì toán
"Chuyển động đều" được đề cập đến rất ít, chưa phân tích một phương pháp cụ
thể nào trong việc dạy giải loại toán này.
Vậy làm thế nào để giúp học sinh học tốt dạng toán chuyển động đều? Đó
là câu hỏi đặt ra cho không ít giáo viên Tiểu học. Qua thực tế giảng dạy nhiều
năm tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp " Dạy giải toán chuyển động đều
cho học sinh lớp 5 ".
II. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giải toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5,
trường Tiểu học Đại Lộc – xã Đại Lộc – huyện Hậu Lộc – tỉnh Thanh Hóa.
Giúp học sinh hình thành kỹ năng, sử dụng thành thạo và vận dụng một
cách linh hoạt các kiến thức trong giải toán chuyển động đều.

1


III. Đối tượng nghiên cứu
1. Đối tượng:
- Các bài toán dạng "Chuyển động đều".
- Các phương pháp dạy giải toán có lời văn.
- Các bài toán làm sai của học sinh khi giải toán dạng "Chuyển động
đều". - Học sinh lớp 5 trường tiểu học.
2. Phạm vi:
- HS lớp 5, trường Tiểu học Đại Lộc – xã Đại Lộc – huyện Hậu Lộc – tỉnh
Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu, xử lý đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
1. Phương pháp thực nghiệm, kiểm tra:
Sử dụng để khảo sát kỹ năng giải toán ở học sinh lớp 5.
2. Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn.

Sử dụng để điều tra thái độ học tập, hứng thú học tập với môn học tập, trình độ
nhận thức, tư duy, nguyên nhân tư cách giảng dạy của giáo viên.
3. Phương pháp dạy toán ở tiểu học.
4. Phương pháp phân tích - tổng hợp.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Ở độ tuổi đầu cấp Tiểu học, tri giác của các em còn gắn liền với hoạt đông
thực tiễn (rờ, nắn, cầm, bắt), nhưng với học sinh lớp 5, tri giác của các em
không còn gắn với hoạt động thực tiễn, các em đã phân tích được từng đặc điểm
của đối tượng, biết tổng hợp các đặc điểm riêng lẽ theo quy định. Tuy nhiên, do
khả năng chú ý chưa cao nên các em vẫn hay mắc sai lầm khi tri giác bài toán
như: đọc thiếu đề, chép sai hay nhầm lẫn giữa các bài toán na ná giống nhau.
Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn rất bỡ ngỡ
trước một số thao tác tư duy như: so sánh, phân tích, suy luận… Khả năng khái
quát thấp, nếu có thì chỉ có thể dựa vào dấu hiệu bên ngoài.
Học sinh tiểu học thường ghi nhớ một cách máy móc do vốn ngôn ngữ
còn ít. Vì thế các em thường có xu hướng học thuộc lòng từng câu, từng chữ
nhưng không hiểu gì. Ở các em, trí nhớ trực quan hình tượng phát triển mạnh
hơn trí nhớ lôgic. Cho nên các em giải các bài toán điển hình như toán chuyển
động đều một cách máy móc dựa trên trí nhớ về phép tính cơ bản. Khi gặp bài
toán nâng cao học sinh rất dễ mắc sai lầm. Trí nhớ của các em không đủ để giải
quyết các mâu thuẩn trong bài toán.
Tuy nhiên, học sinh lớp 5 đã biết phối hợp sử dụng tất cả các giác quan để
ghi nhớ một cách tổng hợp. Bước đầu có nhiều biện pháp ghi nhớ tốt hơn các tài
liệu hoặc kiến thức đã học. Ngôn ngữ của học sinh lớp 5 đã phát triển mạnh mẽ
về ngữ âm, ngữ pháp và từ ngữ. Riêng học sinh lớp 5 đã nắm được một số quy

tắc ngữ pháp cơ bản. Tuy nhiên, khi giải toán do bị chi phối bởi các dữ kiện, giả
thiết nên trình bày bài giải thường mắc sai lầm như: sai ngữ pháp, chưa rõ ý,
lủng củng. Có em chưa hiểu từ dẫn đến hiểu sai đề và làm lạc đề.
Toán chuyển động đều là dạng toán có liên quan và ứng dụng trong thực tế,
học sinh phải tư duy, phải có óc suy diễn và phải có đôi chút hiểu biết về thực tế
cuộc sống. Toán chuyển động luôn bao gồm: Vật chuyển động, thời gian, vận
tốc, quãng đường. Là dạng toán dùng câu văn.
Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần bồi dưỡng năng khiếu
toán học: Là một trong những thể loại toán điển hình có tính mũi nhọn, bài toán
chuyển động đều đặc biệt quan trọng. Nó góp phần không nhỏ trong việc phát
hiện học sinh năng khiếu qua các kì thi, bởi vì đi sâu tìm hiểu bản chất của loại
toán này ta thấy nó là loại toán phức tạp, kiến thức không nặng nhưng nhiều bất
ngờ ở từng bước giải. Gần đây, loại toán này được sử dụng khá rộng rãi trong
việc ra các đề thi và các tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên và học sinh.
Qua giải bài toán chuyển động đều, không chỉ tạo được sự hứng thú say mê
ở mỗi học sinh, mà còn tạo cho các em một phong cách làm việc khoa học chính
xác, cần mẫn và sáng tạo. Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần cung
cấp vốn hiểu biết về cuộc sống cho học sinh tiểu học: Các kiến thức trong toán
chuyển động đểu rất gần gũi với thực tế hàng ngày như làm thế nào để tính được
quãng đường, thời gian, vận tốc ... Chính những bài toán chuyển động đều sẽ
đáp ứng được những yêu cầu đó cho các em.

3


Như vậy, đi sâu tìm hiểu vai trò của việc dạy giải toán chuyển động đều, ta
thấy rằng quá trình dạy giải toán nói chung và dạy giải toán chuyển động đều
nói riêng góp phần không nhỏ vào việc phát triển và hình thành nhân cách toàn
diện cho học sinh.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.Thực trạng:
Trong chương trình giảng dạy và qua việc dự giờ một số đồng nghiệp khi
dạy và học dạng toán Chuyển động đều, tôi nhận thấy một thực tế như sau:
* Về phía học sinh: Học sinh tiếp cận với toán chuyển động đều còn bỡ
ngỡ gặp nhiều khó khăn. Các em chưa nắm vững hệ thống công thức, chưa nắm
được phương pháp giải theo từng dạng bài khác nhau. Trong quá trình giải toán
học sinh còn sai lầm khi đổi đơn vị đo thời gian. Học sinh trình bày lời giải bài
toán không chặt chẽ, thiếu lôgíc. Học sinh còn mắc một số sai lầm khi giải toán
chuyển động đều. Đó là:
+ Sai lầm do học sinh chưa đọc kĩ đề bài, thiếu sự suy nghĩ cặn kẽ về dữ
liệu và điều kiện đưa ra trong bài toán.
+Khi giải toán, học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh
hoạt.
+ Vốn ngôn ngữ của học sinh còn nhiều hạn chế nên diễn đạt chưa tường
minh.
*Về phía giáo viên:
+ Do thời gian phân bố chương trình toán Chuyển động đều ít nên việc
mở rộng vốn hiểu biết và khả năng tư duy cho học sinh còn hạn chế trong quá
trình dạy học.
+ Khi dạy, giáo viên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh cách giải theo
từng dạng bài; không chú ý quan tâm rèn kĩ năng giải toán một cách toàn diện
cho học sinh.
+ Một số giáo viên còn phụ thuộc vào sách, chưa biến tri thức của sách
thành của mình. Trong quá trình dạy còn máy móc, không làm rõ bản chất toán
học nên gây khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp thu.
Để thấy rõ tình hình thực trạng của việc dạy và học toán chuyển động đều
cũng như những sai lầm mà học sinh thường mắc phải, tôi đã tiến hành khảo sát
trên 2 lớp 5A và 5B.
Tôi chọn lớp 5A là lớp tiến hành dạy thực nghiệm, lớp 5B là lớp đối chứng.
2. Kết quả của thực trạng:

Trước khi dạy thực nghiệm năm học này, năm học trước (2014 – 2015),
tôi đã ra đề khảo sát ở lớp 5 thời điểm tuần 28. Đề bài như sau:
Câu 1: Một người đi xe đạp trong 30 phút với vận tốc 12,5 km/giờ. Tính
quãng đường đi được của người đó.
Câu 2: Quãng đường AB dài 190 km. Hai ô tô khởi hành cùng một lúc.
Một xe đi từ A đến B với vận tốc 50 km/giờ. Một xe đi từ B đến A với vận tốc
45km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi sau mấy giờ hai ô tô gặp nhau ?
Với đề bài trên tôi thu được kết quả như sau:

4


Lớp

Sĩ số

5A
5B

27
28

Mức 1
SL
TL
10 37%
8 32%

Hoàn thành
Mức 2

Mức 3
SL
TL
SL
TL
7
25,9% 7 25,9%
7
25%
9 28,8%

Chưa hoàn
thành
SL
TL
3
11,2%
4
14,2%

Tôi nhận thấy bài làm của học sinh đạt kết quả không cao, số lượng học
sinh chưa hoàn thành chiếm tỉ lệ còn cao. Đa số học sinh chưa nắm vững cách
giải của bài tập 2.
Học sinh lúng túng chưa nhận ra dạng điển hình của toán chuyển động
đều. Một số em còn sai lầm không biết đổi 30 phút ra đơn vị giờ để tính quãng
đường mà đã tính ngay: (Độ dài quãng đường là: 30 x 12,5 = 375 ( km ) ).
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy vấn đề cần giải quyết đặt ra là giáo viên
phải tìm cách khắc phục yếu kém cho học sinh, kiên trì rèn kĩ năng cho các em
từ đơn giản đến phức tạp.

Chú trọng thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
1. Rèn kĩ năng đổi đơn vị đo cho học sinh.
Tôi nhận thấy một sai lầm mà nhiều học sinh mắc phải khi giải toán
chuyển động đều đó là các em chưa nắm vững cách đổi đơn vị đo thời gian.
Hầu hết các bài toán chuyển động đều yêu cầu phải đổi đơn vị đo trước
khi tính toán. Tôi chủ động cung cấp cho học sinh cách đổi như sau:
* Giúp học sinh nắm vững bảng đơn vị đo thời gian, mối liên hệ giữa
các đơn vị đo cơ bản.
1 ngày = 24 giờ.
1 giờ = 60 phút.
1 phút = 60 giây.
* Cách đổi từ đơn vị nhỏ ra đơn vị lớn.
VD: 30 phút = …..giờ
- Hướng dẫn học sinh nhận biết là đổi từ đơn vị nhỏ ra đơn vị lớn ta làm
phép chia: .Vì 1giờ = 60 phút, nên ta lấy 30 : 60 = 0,5
Vậy 30 phút = 0,5 giờ.
* Cách đổi từ đơn vị lớn ra đơn vị nhỏ.
3
VD: Đổi 4 giờ = ….. phút.
- Hướng dẫn học sinh nhận biết là đổi từ đơn vị lớn ra đơn vị nhỏ ta làm
phép
3
nhân: .Vì 1giờ = 60 phút, nên ta lấy 4 x 60 = 45.
3
Vậy 4 giờ = 45 phút.
* Cách đổi từ km/giờ sang km/phút sang m/phút.
VD: 120 km/giờ = …..km/phút = ……m/phút.

5



Bước 1: Thực hiện đổi từ km/giờ sang km/phút.
- Thực hiện đổi 120 km/giờ = …….km/phút.
- Tỉ số 2 đơn vị giờ và phút là 60.
120:60=2
* Vậy 120 km/giờ = 2 km/phút.
Ghi nhớ cách đổi: Muốn đổi từ km/giờ sang km/phút ta lấy số phải đổi
chia cho 60.
Bước 2: Thực hiện đổi từ km/phút sang m/phút.
- Đổi 2 km/phút = ….m/phút.
- Vì 1km = 1000 m , nên 2 x 1000 = 2000.
* Vậy 2 km/phút = 2000 m/phút.
Ghi nhớ cách đổi: Muốn đổi từ km/phút sang m/phút ta lấy số phải đổi
nhân với 1000.
Vậy 120 km/giờ = 2 km/phút = 2000 m/phút.
* Cách đổi từ m/phút sang km/phút, sang km/giờ.
Ta tiến hành ngược với cách đổi trên.
Ví dụ: 2000 m/phút = …..km/phút = ….km/giờ.
- Vì 1km = 1000 m, nên 2000 : 1000 = 2
Vậy 2000 m/phút = 2 km/phút.
- Lại có 1 giờ = 60 phút, nên 2 x 60 = 120.
Vậy 2 km/phút = 120 km/giờ.
Vậy 2000 m/phút = 2 km/phút = 120 km/giờ.
2. Cung cấp cho học sinh nắm vững các hệ thống công thức.
Trong phần này tôi khắc sâu cho học sinh một số cách tính và công thức sau:
* Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian.
Công thức: v = s
- v: Vận tốc.
t


- s: Quãng
đường.
- t: Thời gian.
* Muốn tính quãng đường ta lấy vận tốc nhân với thời gian.
s = v x t- s: Quãng đường.
- v: Vận tốc.
- t: Thời gian.
* Muốn tính thời gian ta lấy quãng đường chia cho vận tốc.
t= s
- t: Thời gian.
v

- s: Quãng
đường.
- v: Vận tốc.
Đồng thời tôi giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng vận
tốc quãng đường, thời gian.
- Khi đi cùng vận tốc thì quãng đường tỉ lệ thuận với thời gian (Quãng
đường càng dài thì thời gian đi càng lâu ).

6


- Khi đi cùng thời gian thì quãng đường tỉ lệ thuận với vận tốc (Quãng
đường càng dài thì vận tốc càng lớn )
- Khi đi cùng quãng đường thì thời gian tỉ lệ nghịch với vận tốc ( Thời
gian ngắn thì vận tốc nhanh, thời gian dài thì vận tốc chậm ).
3) Nhận dạng các bài toán về chuyển động đều
Ta chia bài toán chuyển động đều ở lớp 5 làm hai loại như sau:
3.1) Loại đơn giản (giải trực tiếp bằng công thức cơ bản): có 3 dạng bài

toán cơ bản như sau:
Dạng 1: Cho biết vận tốc và thời gian chuyển động, tìm quãng đường.
Công thức giải: Quãng đường = vận tốc x thời gian.
Ví dụ: Một người đi xe đạp trong 15 phút với vận tốc 15,2km/giờ. Tính
quãng đường đi được của người đó?
Giải:
Đổi 15 phút = 0,25 giờ
Quãng đường người đó đi được là:
15,2 x 0,25 = 3,8 (km)
Đáp số : 3,8 km
Dạng 2: Cho biết quãng đường và thời gian chuyển động, tìm vận tốc.
Công thức giải: Vận tốc = quãng đường : thời gian
Ví dụ : Một người đi xe máy đi trong 3 giờ được 105km. Tính vận tốc của
người đi xe máy.
Giải:
Vận tốc của người đi xe máy là:
105 : 3 = 35 (km/giờ)
Đáp số: 35 km/giờ
Dạng 3: Cho biết vận tốc và quãng đường, tìm thời gian.
Công thức giải: Thời gian = quãng đường : vận tốc.
Ví dụ: Vận tốc bay của một con chim đại bàng là 96km/giờ. Tính thời gian
con
đại bàng đó bay được 72 km?
Giải:
Thời gian con đại bàng đó bay được 72 km là:
72 : 96 = 0,75 (giờ)
Đổi: 0,75 giờ = 45 phút
Đáp số: 45 phút
* Chú ý: Phải chọn đơn vị đo thích hợp trong các công thức tính. Chẳng
hạn nếu quãng đường chọn đo bằng km, thời gian đo bằng giờ thì vận tốc phải

đo bằng km/giờ. Nếu thiếu chú ý điều này học sinh sẽ gặp khó khăn và sai lầm
trong tính toán.
3. 2) Dạng phức tạp (giải bằng công thức suy luận)
Từ các dạng toán cơ bản ta có 5 dạng toán phức tạp sau ( giải bằng công
thức suy luận - dành cho các tiết luyện tập, thực hành)
Dạng 1: Hai động tử chuyển động ngược chiều nhau (xa nhau, gần nhau)

7


- Quãng đường = Tổng vận tốc x thời gian.
+ Công thức: s = (v1+v2) x t.
- Thời gian = Quãng đường : Tổng vận tốc.
+ Công thức: t = s : (v1+v2)
- Tổng vận tốc = Quãng đường : thời gian.
+ Công thức: (v1+v2)= s : t
Ví dụ: Một xe tải đi từ A đến B với vận tốc 45km/giờ, cùng lúc đó một xe
khách đi từ B đến A với vận tốc 60km/giờ. Biết quãng đường AB dài 262,5km.
Hỏi sau bao lâu hai xe gặp nhau và điểm gặp nhau cách B bao nhiêu km?
Để giải được bài toán này, học sinh phải vận dụng công thức suy luận tính
thời gian gặp nhau của hai động tử chuyển động đều ngược chiều:
t = s : (v1 + v2)
Muốn vận dụng được những công thức suy luận này thì học sinh phải nhận
dạng được bài toán. Tôi đã hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng cách :
- Xác định xem bài toán có mấy chuyển động.
- Biểu diễn các chuyển động trên sơ đồ đoạn thẳng.
- Xét xem các động tử đó chuyển động cùng chiều hay ngược chiều.
- Vận dụng công thức suy luận để tính.
Giải:
Tổng vận tốc của hai xe là:

45 + 60 = 105 (km/giờ)
Thời gian hai xe gặp nhau là:
262,5 : 105 = 2,5 (giờ)
Điểm hai xe gặp nhau cách B là:
60 x 2,5 = 150 (km)
Đáp số: 2,5 giờ và 150 km.
* Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để hai động tử gặp nhau,
ta có câu thơ:
" Dẫu có xa xôi chẳng ngại chi,
Tôi - Bạn hai kẻ ngược chiều
đi, Vận tốc đôi bên tìm tổng số,
Đường dài chia tổng chẳng khó gì !"
Dạng 2: Hai động tử chuyển động cùng chiều đuổi kịp nhau.
- Tìm khoảng cách của 2 động tử cùng chiều đuổi kịp nhau ta lấy hiệu vận
tốc nhân với thời gian đuổi kịp, ta xây dựng các công thức:
+ s = (v2 – v1) x t.
+ t = s : (v2 – v1)
+ (v2 – v1)= s : t.
Ví dụ: Xe máy đi từ A đến B lúc 5 giờ với vận tốc 32km/giờ. Đến 6 giờ 15
phút một ô tô cũng bắt đầu đi từ A đến B với vận tốc 52 km/giờ. Hỏi sau bao lâu
2 xe gặp nhau và điểm gặp nhau cách A bao nhiêu km?
Với bài toán này, học sinh phải vận dụng công thức suy luận tính thời
gian gặp nhau của hai động tử chuyển động đều cùng chiều: t = s : (v2 – v1)

8


Muốn vận dụng được những công thức suy luận này thì học sinh phải nhận
dạng được bài toán. Tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán như sau:
Giải

Thời gian xe máy đi trước ô tô là :
6 giờ 15 phút – 5 giờ = 1 giờ 15 phút (hay 1,25 giờ)
Xe máy đi trước ô tô quãng đường là :
32 x 1,25 = 40 (km)
Hiệu vận tốc của hai xe là :
52 – 32 = 20 (km/giờ)
Thời gian 2 xe gặp nhau là :
40 : 20 = 2 (giờ)
Điểm 2 xe gặp nhau cách A là :
52 x 2 = 104 (km)
Đáp số : 2 giờ và 104 km.
- Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để động tử thứ 2 đuổi kịp
động tử thứ nhất, ta có câu thơ sau:
" Trên đường kẻ trước với người sau,
Hai kẻ cùng chiều muốn gặp nhau,
Vận tốc đôi bên tìm hiệu số,
Đường dài chia hiệu khó chi đâu !"
Dạng 3: Vật chuyển động trên dòng sông.
- V xuôi dòng = V riêng + V dòng nước.
- V ngược dòng = V riêng – V dòng nước.
- V dòng nước = (V xuôi dòng + V ngược dòng) : 2.
Ví dụ: Một con thuyền đi với vận tốc 7,2km/giờ khi nước lặng, vận tốc
của dòng nước là 1,6km/giờ.
a, Nếu thuyền đi xuôi dòng thì sau 3,5 giờ sẽ đi được bao nhiêu km?
b, Nếu thuyền đi ngược dòng thì cần bao nhiêu thời gian để đi được quãng
đường như khi xuôi dòng trong 3,5 giờ?
Với bài toán này, Tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán như sau:
Giải
Vận tốc của thuyền khi xuôi dòng là :
7,2 + 1,6 = 8,8 (km/giờ)

Quãng đường con thuyền đi sau 3,5 giờ là:
8,8 x 3,5 = 30,8 (km)
Vận tốc của thuyền khi đi ngược dòng là:
7,2 - 1,6 = 5,6 (km/giờ)
Thời gian của thuyền khi đi ngược dòng là:
30,8 : 5,6 = 5,5 (giờ)
Đáp số: a) 30,8 km
b) 5,5 giờ
Dạng 4: Vật chuyển động có chiều dài đáng kể.
- Chuyển động của vật co chiều dài đáng kể là L chạy qua các vật trong

9


các trường hợp.
+ Vật chuyển động qua cột mốc: Thời gian qua cột mốc bằng chiều dài
vật chia vận tốc vật ( t = L : v)
+ Vật chuyển động qua cầu có chiều dài là d ta có:
Thời gian đi qua = ( L + d) : v vật.
Ví dụ: Một đoàn tàu chạy ngang qua một cột điện hết 8 giây. Với cùng
vận tốc đó, đoàn tàu chui qua một đường hầm dài 260m hết 1 phút. Tính chiều
dài và vận tốc của đoàn tàu?
Với bài toán này, tôi đã hướng dẫn học sinh phân tích bài toán như sau:
- Đoàn tàu chạy qua cây cột điện, tức là chạy qua 1 điểm ( từ toa đầu đến
hết toa cuối) thì đoàn tàu chạy được một quãng đường bằng chiều dài của đoàn
tàu.
Quãng đường

Cột điện


Suy ra: Thời gian đoàn tàu qua cây cột điện bằng độ dài của đoàn tàu chia
cho vận tốc của tàu.
- Đoàn tàu chạy qua một đường hầm chính là đoàn tàu chạy được một
quãng đường bằng độ dài đường hầm cộng với độ dài đoàn tàu.
Quãng đường

Đường hầm

Vậy thời gian để đoàn tàu chui qua một đường hầm bằng thời gian vượt
qua cột điện cộng với thời gian đi được đoạn đường bằng chiều dài đường hầm.
Từ suy luận, phân tích đề như trên, tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán
như sau:
Giải
Thời gian đoàn tàu đi được đoạn đường dài 260m là:
1 phút – 8 giây = 52 giây
Vận tốc của đoàn tàu là:
260 : 52 = 5 (m/giây)
5 m/giây = 18 km/giờ
Chiều dài đoàn tàu là:
5 x 8 = 40 (m)
Đáp số: 18 km/giờ và 40m
Dạng 5: Bài toán chuyển động dạng “Vòi nước chảy vào bể”
- Với loại toán này thường có 3 đại lượng chính là Thể tích của nước ta coi
tương tự như tính với quãng đường s; Thể tích này thường tính theo lít hoặc

10


m3 hay dm3;
Lưu lượng nước vận dụng công thức tính tương tự như với vận tốc v; Đại

lượng này thường tính theo đơn vị lít/phút hoặc lít/ giây hay lít/giờ. Thời gian
chảy của vòi nước vận dụng tính tương tự như thời gian trong toán chuyển động
đều.
Cách giải loại toán này ta phải áp dụng các công thức sau:
- Thể tích = Lưu lượng x Thời gian; Thời gian = Thể tích : Lưu lượng;
Lưu lượng = Thể tích : Thời gian.
Ví dụ: Một cái bể rộng chứa được 5130 lít nước. Lúc 6 giờ 20 phút cho
hai vòi chảy vào bể, vòi thứ nhất mỗi phút chảy được 50 lít nước, vòi thứ hai
mỗi phút chảy được 45 lít nước.Hỏi đến mấy giờ thì đầy bể.
Với bài toán này, tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán như sau:
Giải
Trong 1 phút cả hai vòi chảy vào bể được số lít nước là:
50 + 45 = 95 (lít)
Thời gian để hai vòi chảy đầy bể là:
5130 : 95 = 54 (phút)
Thời điểm bể nước đầy là:
6 giờ 20 phút + 54 phút = 7 giờ 14 phút
Đáp số: 7 giờ 14 phút
4. Hướng dẫn học sinh giải toán theo 4 bước.
Toán chuyển động đều là loại toán có lời văn tương đối trừu tượng đối với
học sinh Tiểu học. Đây là những bài toán góp phần rất lớn trong việc rèn khả
năng tư duy sáng tạo cho học sinh. Để đạt được điều đó khi hướng dẫn học sinh
giải, tôi đã hướng dẫn học sinh qua 4 bước:
Bước 1: Tìm hiểu đề
Bước 2: Xây dựng chương trình giải ( Tìm lời giải)
Bước 3: Thực hiện chương trình giải ( Trình bày lời giải)
Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết quả.
Đối với từng bước tôi cụ thể hóa như sau:
a. Tìm hiểu đề :
Ở bước này học sinh xác định được bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu

tìm gì ? Tôi hướng dẫn học sinh ghi nhớ đề toán bằng cách :
- Đọc kĩ đề bài.
- Xác định dữ kiện đã cho và yếu tố phải tìm.
- Tóm tắt bài toán bằng kí hiệu hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng.
- Dựa vào tóm tắt để đọc lại đề toán cho.
b. Xây dựng chương trình giải :
Đây chính là bước tìm lời giải và cũng là bước rất quan trọng. Ở bước này
vai trò của người giáo viên rất quan trọng. Giáo viên là người đóng vai trò là
người gợi mở cho học sinh những nút thắt cần thiết và tổ chức cho học sinh thảo
luận tích cực để tìm lời giải.
Học sinh Tiểu học thường ghi nhớ không lâu và khả năng tư duy trừu tượng

11


còn hạn chế nên trong quá trình hướng dẫn học sinh, giáo viên có thể sử dụng sơ
đồ để phân tích : A
A1
A2
A3 ...
B (Định nghĩa, giả thiết, tính
chất...)
(Trong đó B là giả thiết, A là kết luận).
c. Thực hiện chương trình giải :
Ở bước này học sinh tự giải bài toán, giáo viên lưu ý học sinh trình bày bài giải
đầy đủ, lập luận chặt chẽ...
d. Kiểm tra, đánh giá kết quả :
- Học sinh tự thử kết quả dựa vào giả thiết của bài toán.
- Hướng dẫn học sinh tìm thêm cách giải khác (nếu có).
- Bổ sung thêm giả thiết hoặc thay đổi giả thuyết, kết luận, thay đổi số

liệu
thành bài toán khác có thể suy luận dựa vào chương trình giải của bài toán vừa
làm nhằm phát triển tư duy sáng tạo, óc phân tích tổng hợp cho học sinh.
- Khái quát hóa, cụ thể hóa (nếu có), củng cố cách giải, củng cố dạng
toán...
Ví dụ 1: Hai người ở 2 thành phố A và B cách nhau 130 km. Họ ra đi
cùng lúc và ngược chiều nhau. Người thứ nhất đi xe máy từ A với vân tốc 40
km/giờ, người thứ 2 đi xe đạp từ B đến vận tốc 12 km/giờ. Hỏi sau bao lâu họ
gặp nhau và chỗ gặp nhau cách A bao nhiêu km ?
* Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
- Đọc bài toán (đọc to, đọc thầm)
- Nắm bắt nội dung bài toán:
+ Bài toán cho biết cái gì ? (đi ngược chiều, s = 130 km, v1 = 40 km/h,
v2 = 12 km/h)
+ Bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? (thời gian đi để gặp nhau, khoảng
cách từ chỗ gặp nhau đến A)
- Xác định dạng của bài toán: Đây là bài toán đi ngược chiều, cùng lúc,
tìm thời gian, chỗ gặp (dạng 1)
* Tìm cách giải bài toán:
- Tóm tắt bài toán: Bước đầu học sinh mới học giải toán, giáo viên làm
mẫu và hướng dẫn học sinh tóm tắt các bài tập kế tiếp giáo viên chỉ định hướng,
kiểm tra học sinh tự tóm tắt.
130km

A
40km/giờ

B
12km/giờ


- Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt (không nhìn đề mà
nhìn vào tóm tắt, học sinh tự nêu bài toán theo sự hiểu biết và ngôn ngữ của
mình)
- Lập kế hoạch giải bài toán:
+ Sau khi 2 xe gặp nhau, tức là cả 2 xe đã đi được quãng đường bao nhiêu
? (130km)

12


+ Để biết được 2 xe gặp nhau sau mấy giờ trước tiên ta cần biết gì ? (mỗi
giờ cả 2 xe đi được bao nhiêu km (tức là tổng vận tốc của 2 xe))
+ Việc tính tổng vận tốc của 2 xe được thực hiện như thế nào ?
(40 + 12 = 52 (km/h)
Như vậy ta có bài toán: Cả 2 xe: đi 52 km hết 1 giờ,
đi 130 km hết … giờ?
Đây là phép so sánh tỉ lệ thuận giữa thời gian và quãng đường.
+ Vậy việc tính thời gian 2 xe gặp nhau được thực hiện như thế
nào ? (130 : 52 = 2,5 (giờ))
+ Khoảng cách từ chỗ gặp nhau đến A được tính như thế nào ?
(40 x 2,5 = 100 (km))
- Trình bày bài giải:
Giải
Mỗi giờ cả 2 xe đi được là:
40 + 12 = 52 (km)
(hoặc: tổng vận tốc của 2 xe là: 40 + 12 = 52 (km/giờ))
Thời gian để 2 xe gặp nhau là:
130 : 52 = 2,5 (giờ)
Chỗ gặp nhau cách A là:
40 x 2,5 = 100 (km)

Đáp số: 2,5 giờ; 100 km
- Kiểm tra lại kết quả:
+ Sau 2,5 giờ 2 xe gặp nhau tức là mỗi xe đi trong thời gian là 2,5
giờ. Vậy quãng đường người thứ nhất đi được là: 40 x 2,5 = 100 (km)
quãng đường người thứ hai đi được là: 12 x 2,5 = 30 (km)
quãng đường 2 người đi được là:
100 + 30 = 130 (km).
+ Vậy 130km là quãng đường 2 người đã đi đúng với dữ kiện đầu bài.
Ví dụ 2. Lúc 6 giờ sáng một người đi xe máy lên tỉnh họp với vận tốc 40
km/giờ. Đến 7 giờ một người đi ô tô đuổi theo với vận tốc 60 km/giờ. Tìm thời
điểm để hai người gặp nhau.
* Tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung bài toán.
- Đọc bài toán, nêu cách hiểu về thuật ngữ "Thời điểm"
- Nắm bắt nội dung bài toán
+ Bài toán cho biết cái gì ? (đi cùng chiều, đuổi nhau, v1 = 40 km/h, v2 =
60 km/h, xe máy xuất phát lúc 6 giờ, ô xuất phát lúc 7 giờ)
+ Bài toán yêu cầu phải tìm cái gì ? (thời điểm 2 người gặp nhau)
- Xác định dạng của bài toán: Đây là dạng toán cùng chiều đuổi nhau,
không cùng lúc, tìm thời điểm gặp nhau). Có thể chuyển về dạng toán đuổi nhau
coi là cùng lúc với người đi ô tô.
* Tìm cách giải bài toán.
- Tóm tắt bài toán:
40 km/h, lúc 6 giờ
gặp nhau lúc ….. giờ ?

60 km/h, lúc 7 giờ

13



- Cho học sinh diễn đạt bài toán qua tóm tắt (không nhìn đề mà nhìn vào
tóm tắt)
- Lập kế hoạch giải bài toán.
+ Muốn biết được lúc nào hai xe gặp nhau (thời điểm gặp nhau) ta phải làm
gì? (phải tính được khoảng thời gian cần thiết để đuổi kịp nhau)
+ Muốn tính được thời gian đi để hai người đuổi kịp nhau, ta phải biết cái
gì? (khoảng cách giữa hai xe khi ô tô xuất phát)
Ngoài ra còn phải biết gì nữa ? (cứ mỗi giờ hai xe gần nhau thêm bao nhiêu km
(tức hiệu vận tốc))
+ Khoảng cách giữa hai xe khi ôtô xuất phát được tính như thế nào?
(40 x (7 - 6 ) = 40 (km)).
+ Hiệu vận tốc của 2 xe được tính như thế nào ? (60 - 40 = 20 (km/h))
+ Thời gian đi để hai xe gặp nhau được tính như thế nào?
(40 : 20 = 2 (giờ) )
+ Làm thế nào để tính được thời gian hai xe gặp nhau?
(7 + 2 = 9 (giờ))
- Trình bày bài giải:
Giải
Khoảng cách giữa hai người khi ô tô xuất phát là:
40 x (7 - 6 ) = 40 (km)
Cứ mỗi giờ hai người gần nhau thêm là:
60 - 40 = 20 (km)
Thời gian đi để hai người gặp nhau là:
40 : 20 = 2 (giờ)
Thời điểm hai người gặp nhau là:
7 + 2 = 9 (giờ)
Đáp số: 9 (giờ)
- Kiểm tra, đánh giá kết quả.
+ Học sinh nhận xét kết quả, đổi chéo vở để kiểm tra bài lẫn nhau.
+ Học sinh thử lại kết quả dựa vào các dữ liệu đề bài đã cho.

5. Bồi dưỡng khả năng lập luận cho học sinh.
5.1: Vận dụng mối tương quan giữa 3 đại lượng: quãng đường, vận
tốc và thời gian.
Ngay từ khi dạy kiến thức cơ bản, khi học sinh đã vận dụng thành thạo
các công thức tính vận tốc, quãng đường, thời gian, tôi đã hướng dẫn các em
nắm vững quan hệ giữa các đại lượng này :
- Trên cùng quãng đường, vận tốc tỉ lệ nghịch với thời gian.
- Cùng vận tốc thì quãng đường tỉ lệ nghịch với thời gian.
- Cùng thời gian thì quãng đường tỉ lệ nghịch với vận tốc.
Khi dạy toán nâng cao, tôi luôn hướng dẫn học sinh vận dụng mối quan
hệ này để đưa bài toán về dạng toán điển hình.

14


Ví dụ : Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 12km/giờ. Người đó
lại đi tiếp từ B đến C với vận tốc 16km/giờ. Quãng đường AB dài hơn quãng
đường BC là 2km.Thời gian đi quãng đường AB nhiều hơn thời gian đi quãng
đường Bclà 1 giờ 5 phút.Tính quãng đường AB ?
Ở bài toán này ta đã biết sự chênh lệch về thời gian đi trên hai quãng
đường AB và BC, biết vận tốc đi trên hai quãng đường này. Thoạt đầu học sinh
rất dễ nhầm lẫn đưa ngay bài toán về dạng điển hình mặc dù quãng đường AB
và BC khác nhau. Trong quá trình dạy, tôi luôn hướng dẫn học sinh muốn đưa
một bài toán về dạng điển hình thì phải xét xem trong 3 đại lượng có đại lượng
nào thay đổi hay không hoặc phải biến đổi thế nào để có một đại lượng bằng
nhau rồi mới vận dụng quan hệ tỉ lệ giữa các đại lượng để đưa bài toán về dạng
toán điển hình.
Đối với bài này tôi gợi mở, giúp đỡ các em biến đổi để quãng đường đi
với hai vận tốc khác nhau sẽ bằng nhau bằng cách thêm 2km vào quãng đường
BC. Tôi hướng dận học sinh như sau :

-Học sinh vẽ sơ đồ tóm tắt bài toán :
B

C

A

D
2km

H: Em có nhận xét gì về quãng đường AB và BC? (Quãng đường AB dài
hơn quãng đương BC là 2km)
H: Giả sử người đó đi 2 km nữa thì tới D, so sánh quãng đường AB và
BD ? (bằng nhau)
H: Vận tốc đi quãng đường CD là bao nhiêu? (16 km/giờ)
H: Thời gian đi quãng đường CD là bao nhiêu? (
2 : 16 = 0,125 giờ = 7,5 phút)
H: Thời gian đi quãng đường AB có quan hệ thế nào với thời gian đi
quãng đường CD? (nhiều hơn)
H: Để tính được tỉ số giữa 2 thời gian ta dựa vào đâu? (Dựa vào tỉ số 2
vận tốc)
Từ đó học sinh dễ dàng giải tiếp bài toán điển hình tìm hai số khi biết hiệu
và tỉ số của chúng để tìm thời gian đi quãng đường AB rồi tính quãng đường
AB.
Giải :
Đổi 1 giờ 5 phút = 65 phút
Giả sử người đó đi thêm 2 km nữa thì đến D. Lúc đó quãng đường AB
bằng quãng đường BD. Ta có sơ đồ sau :
B


C

A

D
2km

Thời gian đi quãng đường CD là:

2 : 16 = 0,125 giờ = 7,5 phút

15


Thời gian đi quãng đường AB nhiều hơn thời gian đi quãng đường BD là:
12 : 16 = . Vậy vận tốc trên AB = vận tốc trên BD.
Trên 2 quãng đường bằng nhau AB và BD, vận tốc tỉ lệ nghịch với thời gian nên
thời gian đi quãng đường AB = thời gian đi trên quãng đường BD.
57,5 phút

Ta có sơ đồ:
Thời gian đi AB:
Thời gian đi BD:
Thời gian đi quãng đường AB là: 57,5 x 4 = 230 (phút) = giờ
Quãng đường AB là:
12 x = 46 (km)
Đáp số: 46 km
5. 2: Xác định mối quan hệ giữa các yếu tố trên sơ đồ đoạn thẳng
Rất nhiều bài toán chuyển động đều trong quá trình giải phải sử dụng đến
sơ đồ đoạn thẳng để phục vụ cho việc tìm cách giải của bài toán.

Ví dụ: Cùng một lúc An đi từ A đến B còn Bình đi từ B đến A. Hai người
gặp nhau tại C cách A 2km rồi họ lại tiếp tục đi. An đến B rồi quay lại A ngay,
Bình dến A rồi quay lại B ngay. Hai người gặp nhau lần 2 tại D cách B 1km.
Tính quãng đường AB và cho biết ai đi nhanh hơn?
Đối với bài toán này, việc đầu tiên tôi cho học sinh xác định rõ những cái
đã biết:
- An đi từ A đến B rồi quay lại A; Bình đi từ B đến A rồi quay lại B.
- Họ gặp nhau 2 lần: Lần 1 tại C cách A 2km, lần 2 tại D cách B 1km. Sau
đó tôi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tóm tắt bài toán để tìm cách giải
như sau: An
C

A

D

B

Bình

H: Nhìn vào sơ đồ cho biết An đi những quãng đường nào? Bình đi những
quãng đường nào?
(An đi: AB + BD; Bình đi: AB + AD)
H: Cả hai bạn đi được những quãng đường nào?
(AB + BD + AB + AD = AB + AB + AB = 3 x AB)
H: Khi gặp nhau lần 2, hai bạn đã đi mấy lần quãng đường AB? (3 lần).
H: Cứ mỗi lần 2 bạn đi được 1 lần quãng đường AB thì An đi được mấy
ki-lo-mét? (2km).
H: Vậy đến khi gặp nhau lần 2 thì An đi được mấy km? (2 x 3 = 6 km).
H: Quãng đường An đi được có quan hệ như thế nào vớ i quãng đường

AB? (nhiều hơn 1km).
H: Muốn tính quãng đường AB ta làm như thế nào?
( 6 - 1 = 5 km).
H: Muốn biết ai đi nhanh hơn ta làm như thế nào? (So sánh quãng đường
mỗi người đi được sau khi gặp nhau lần đầu).
Sau đó học sinh tự giải bài toán.

16


Qua quá trình dạy học tôi thấy nhiều bài toán chuyển động đều hết sức phức
tạp. Việc giáo viên hướng dẫn học sinh giải vô cùng quan trọng. Giáo viên chỉ đóng
vai trò là người tổ chức hướng dẫn, học sinh tìm tòi cách giải, giáo viên chỉ định
hướng, gợi mở cho học sinh chứ tuyệt đối không làm thay học sinh.
IV. Hiệu quả nghiên cứu:
1. Kết quả của thực trạng:
Tôi đã tiến hành áp dụng dạy học tính cực để dạy giải các bài toán chuyển
động đều ở lớp 5A và lấy kết quả đối chứng với lớp 5B (khi dạy loại toán này
mà không áp dụng phương pháp dạy học nêu trên) sau khi cả hai lớp học xong
bài quãng đường, vận tốc, thời gian và các tiết luyện tập.
Tôi ra đề kiểm tra như năm học trước và thu được kết quả như sau:

Lớp

Sĩ số

5A
5B

27

28

Mức 1
SL
TL
14 51,9%
10 35,7%

Hoàn thành
Mức 2
SL
TL
8 29,6%
13 39,4%

Mức 3
SL
TL
5 18,5%
6 21,4%

Chưa hoàn
thành
SL
TL
0
0%
1
3,5%


Kết quả trên cho thấy việc áp dụng dạy học tích cực để dạy giải các bài
toán về chuyển động đều bước đầu thu được kết quả tốt.
Học sinh tiếp thu đồng đều và sâu sắc hơn về bài toán. Số lượng học sinh
chưa hoàn thành chiếm tỉ lệ thấp.
- Trong quá trình làm bài học sinh ít mắc sai lầm hơn.
Điều này chứng tỏ rằng: nếu được sự quan tâm đúng mức, cùng với sự
hướng dẫn chu đáo, hợp lý thì chất lượng việc giải các bài toán chuyển động đều
sẽ được nâng lên.
Tuy nhiên với năng lực học sinh còn nhiều hạn chế nên không ít em đứng
trước nhiệm vụ giải toán còn cảm thấy bị quá sức. Do đó kết quả thu được ở trên
chỉ phản ánh thực tế khách quan ở mức độ nhất định.
Như vậy việc áp dụng dạy học tích cực để dạy giải các bài toán về chuyển
động đều cho học sinh lớp 5 là một giải pháp có tính hiệu quả cao. Nó có tác
dụng giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận.
Hơn nữa nó còn giúp các em tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhiên xét, so
sánh, phân tích, tổng hợp và từ đó áp dụng những kiến thức về toán chuyển
động đều vào thực tế cuộc sống.
2. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho bản thân
Trong quá trình làm đề tài, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Muốn dạy tốt môn toán, giúp HS hiểu, làm tốt các bài tập trước hết giáo
viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy, các biện pháp tính,
đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo trong
dạy học toán.
Muốn có giờ dạy học tốt, GV phải thực sự phải có lòng yêu nghề mến trẻ
không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo tìm tòi cái

17


mới để dạy. Có như vậy bài giảng mới thành công.

Để đảm bảo mục tiêu của GV hiện đại, trong quá trình dạy học, người GV
phải dạy cho HS những kỹ năng quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch
giải quyết vấn đề đó, rèn cho HS tính kiên nhẫn, tinh thần say mê dưới sự gợi
mở của thầy.
Trong đánh giá, việc kiểm tra tay đôi hoặc để HS tự kiểm tra bài mình và
bài bạn là một điều hết sức quan trọng.
Trong quá trình ấy, người GV sẽ trực tiếp chỉ ra cho HS được cái hay
trong khi làm bài tập toán đồng thời cũng là cơ hội cho HS tự đánh giá, nhận xét
kết quả làm việc của mình, của bạn.
Dạy học là “Nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Chính vì vậy,
GV phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho HS
bởi nếu như vậy sẽ không bao giờ phát triển hết khả năng và sức sáng tạo của
các em, hãy luôn tâm sự để có thể trở thành người bạn lớn mà các em có thể
chia sẻ mọi vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống.

18


C. KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Nhìn chung lại, nội dung và phương pháp dạy - học toán ở Tiểu học nói
chung và dạy – học Toán 5 nói riêng là rất phong phú và phức tạp. Nó đòi hỏi
chúng ta phải nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, vượt khó. Coi các em học sinh như
con em mình, gần gũi với học sinh, thông cảm với học sinh, biết chia sẻ với gia
đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Biết động viên, khuyến khích các em kịp
thời và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em học tập.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã tích góp, chắt lọc và áp dụng
trong những năm công tác. Tôi rất mong hội đồng khoa học cùng đồng nghiệp,
bạn đọc góp ý thêm cho kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn và phổ biến rộng
rãi hơn.

2. Kiến nghị, đề xuất
a. Đối với giáo viên
Chương trình Tiểu học hiện nay đang có xu hướng giảm tải cho HS, điều
đó làhợp lý. Xong trong bất kỳ lớp học nào cũng có đầy đủ đối tượng HS tiếp
thu bài nhanh, chậm. Nên tăng cường những bài toán có yêu cầu cao hơn với HS
tiếp thu bài nhanh.
Mỗi bài dạy có đặc điểm riêng, đặc trưng riêng. Vì vậy mà GV phải chú ý
đến đặc trưng này thì mới có thể có được những bài dạy tốt.
Khi dạy các tiết lý thuyết GV đặt mình vào vị trí của HS. Hãy dựa vào
những gì đã có để xây dựng tình huống có vấn đề. Không nên dạy theo cách
truyền đạt kiến thức một chiều mà hãy đưa ra những câu hỏi hợp lý lôi cuốn HS
vào bài học. Nên tăng cường những câu hỏi mà HS phải phán đoán suy luận, lựa
chọn và giải thích.
Sau mỗi bài học hình thành kiến thức mới HS cần được luyện tập vận
dụng kiến thức đã học, củng cố thêm kiến thức cũ, giúp HS nắm bài chắc và sâu
hơn. Hãy xâu chuỗi những bài tập có liên quan và cho HS tự tìm ra các đặc
trưng của những nhóm bài cũng như sự khác biệt giữa các nhóm.
Đối với tiết ôn tập, GV cần liên kết các kiến thức qua các bài đã học, tìm
ra một số bài tập có tính tổng hợp củng cố kiến thức.
Vận dụng nhiều hình thức kiểm tra khác nhau để đánh giá tình hình học
và hiểu của học sinh.
b. Đối với học sinh
Cần tích cực hoạt động , thảo luận những nội dung giáo viên đưa ra để tự
tìm ra những kiến thức cần ghi nhớ.
Nên tạo cho bản thân sự ham hiểu biết bằng cách nghiên cứu bài học
trước khi đến lớp và ghi những câu hỏi thắc mắc, những điều chưa lý giải được
hỏi để giáo viên lý giải hoặc cho cả lớp thảo luận tìm ra lời giải đáp. Như vậy sẽ
tạo cho HS thế chủ động, sáng tạo, đồng thời rèn tư duy, kỹ năng giải toán cho
HS.
Trên đây là những ý kiến của tôi đưa ra, có thể còn nhiều hạn chế. Rất

mong sự đóng góp ý kiến của cấp lãnh đạo và của bạn đồng nghiệp để phương

19


pháp giảng dạy của tôi được nâng cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Mai Thị Ngần

20



×