Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

(Luận án tiến sĩ) Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 167 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG
HỎI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG
HỎI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 9222024

Hà Nội, năm 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu.....................3
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4
5. Những đóng góp của luận án .........................................................................5
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn .............................................................................5
7. Bố cục của luận án ...........................................................................................6
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................8

1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu nghĩa tình thái và phương tiện
biểu hiện tình thái trong tiếng Anh và tiếng Việt....................................... 8
1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu hành động hỏi trong tiếng Anh
và tiếng Việt ................................................................................................. 17
1.3. Cơ sở lí luận của luận án ..................................................................... 19
1.3.1. Lí thuyết hành động ngôn từ ............................................................... 19

1.3.2. Hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp ............ 30
1.3.3. Hành động hỏi ...............................................................................31
Chương 2: PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH
ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ..............46

2.1.

Khái quát về hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt ..... 46

2.1.1. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh ........................... 46
2.1.2. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt ........................... 51
2.2.

Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp
tiếng Anh ............................................................................................ 56


2.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi
trực tiếp tiếng Anh .............................................................................. 56
2.2.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành
động hỏi trực tiếp tiếng Anh ..................................................................... 69
2.3.

Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp
tiếng Việt ............................................................................................ 77

2.3.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi
trực tiếp tiếng Việt .............................................................................. 77
2.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở
hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt ...................................................... 85

2.4.

Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình
thái ở hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt ...... 92

2.4.1. Tương đồng ......................................................................................... 92
2.4.2. Khác biệt ............................................................................................. 93
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH
ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT .............. 97

3.1.

Khái quát về hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt........... 97

3.1.1. Nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh........................... 97
3.1.2. Nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Việt......................... 108
3.2.

Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp
tiếng Anh và tiếng Việt ................................................................... 115

3.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi
gián tiếp tiếng Anh ............................................................................ 115
3.2.2. Các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái nhận thức và tình thái đạo
nghĩa ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh ....................................... 124
3.3.

Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp
tiếng Việt .......................................................................................... 130



3.3.1. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái hành động ngôn từ ở hành động
hỏi gián tiếp tiếng Việt...................................................................... 130
3.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong
hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt.................................................... 132
3.4.

Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình
thái ở hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt .... 142

3.4.1. Tương đồng ....................................................................................... 142
3.4.2. Khác biệt ........................................................................................... 143
KẾT LUẬN. ............................................................................................... 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những sắc thái tình cảm, những cung bậc cảm xúc khác nhau của người
nói và người nghe trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ chính là tình thái.
Tình thái trong ngôn ngữ là một mảng kiến thức rất rộng và ở bất kì ngôn ngữ
nào, tình thái cùng với cách thức diễn đạt tình thái đều rất phong phú, đa dạng.
Trên thế giới và cả ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về tình thái và các phương tiện truyền tải tình thái đặc biệt là dưới góc nhìn
của ngữ dụng học. Tình thái là một phạm trù liên hệ với việc diễn đạt sự bắt
buộc sự cho phép, sự cấm đoán, sự cần thiết, tính khả hữu, khả năng. Không thể
tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó
của tính tình thái. Tình thái không những là linh hồn của câu, của văn bản mà
còn là của cả hoạt động giao tiếp. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi
chúng ta biết vận dụng những phương tiện biểu hiện tình thái. Viêc vận dụng

những phương tiện biểu hiện tình thái giúp người nói người nói tạo dựng phát
ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao tiếp của
người nói. Bởi vậy nghiên cứu về tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình
thái là một đề tài thú vị, ngày càng được mở rộng chú trọng và phát triển giúp
chúng ta hướng tới thành công trong giao tiếp, ứng xử.
Trong quá trình giảng dạy, thụ đắc ngôn ngữ thực tế, theo quan sát của
chúng tôi, người học thường hay mắc lỗi sử dụng ngôn ngữ nhất là khi muốn
truyền tải sắc thái tình cảm, thái độ được bộc lộ qua cách đặt câu hỏi, cách trả lời
nhằm thỏa mãn ý định của họ khi giao tiếp. Do đó việc nghiên cứu về tình thái
và phương tiện biểu hiện tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt ở
một mức nào đó sẽ giúp người học sử dụng đúng, sử dụng linh hoạt phương tiện
biểu hiện nghĩa tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt nhằm nâng
cao hiệu quả thực hành ngôn ngữ.
1


Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng đã có những đề tài trong và ngoài nước
tập trung nghiên cứu về lĩnh vực tình thái và xoay quanh việc xác định nghĩa tình
thái và phân loại nghĩa tình thái, các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái, phạm
vi nghiên cứu quan hệ của nghĩa tình thái trong câu hỏi hay câu cầu khiến, ý
nghĩa tình thái và phương tiện tình thái cú pháp học ở các ngôn ngữ, tuy nhiên
trong phạm vi tư liệu chúng tôi có được cũng chưa có công trình nào trực tiếp
quan tâm chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cách biểu đạt ý nghĩa
tình thái của hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt biểu hiện không chỉ
bằng câu hỏi mà còn bằng các kiểu câu khác như câu mệnh lệnh, câu trần thuật ở
bậc luận án tiến sĩ.
Vì những lí do đã nêu ở trên, việc nghiên cứu các phương tiện biểu hiện
nghĩa tình thái trong hành động ngôn từ hỏi của luận án này là cần thiết, giúp
mang đến một cái nhìn bao quát hơn về vấn đề tình thái trong ngôn ngữ đáp ứng
nhu cầu học thuật mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Luận án ở chừng mực nào

đó có thể đóng góp thêm cho việc biên soạn tài liệu tham khảo phục vụ cho học
tập giảng dạy chuyên sâu, nâng cao hiểu biết cho những ai quan tâm đến lĩnh
vực nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án này được thực hiện với mục đích là nghiên cứu các phương
tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt mà
thực chất ở đây là nghiên cứu về các đặc trưng tình thái và phương tiện
biểu hiện tình thái trong hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp
tiếng Anh và tiếng Việt nhằm tìm hiểu những tương đồng và dị biệt của
phương tiện biểu hiện loại nghĩa này về phương diện ngữ nghĩa- ngữ dụng ở
cả hai ngôn ngữ. Đồng thời những kết quả sau khi nghiên cứu của luận án có
thể được vận dụng trong thực tế giảng dạy và dịch thuật ngoại ngữ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào việc tìm hiểu những
vấn đề sau:

2


1. Lí thuyết hành động ngôn từ (speech act theory), hành động hỏi, tình
thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa và các
phương tiện biểu hiện trong các ngôn ngữ.
2. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong
tiếng Anh và tiếng Việt.
3. Miêu tả những phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi
trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt
4. Nhận xét về sự tương đồng và khác biệt về nghĩa tình thái và phương
tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình
thái đạo nghĩa ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những phương tiện biểu hiện

nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt, nghĩa là trong khuôn
khổ của luận án này, chúng tôi tập trung khảo sát các phương tiện biểu hiện
nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong
tiếng Anh và tiếng Việt.
Nguồn ngữ liệu của luận án được tổng hợp từ trên tập hợp nguồn các
câu hỏi song ngữ Anh -Việt, nguồn các câu trần thuật, các câu mệnh lệnh
song ngữ Anh -Việt dùng để hỏi do một nhóm tác giả xử lí ngôn ngữ tự nhiên
thuộc trường đại học Stanford (The Stanford Natural Language Processing
Group) tiến hành ghi âm lại lời thoại trong các video TED talks (corpus song
ngữ Anh-Việt: các tác phẩm văn học như
“ Gone with the Wind” (Cuốn theo chiều gió) của Margaret Mitchell, “The
Da Vinci Code” (Mật mã Da Vinci) của Dan Brown, tập truyện ngắn Nguyễn
Hào Hải, truyện ngắn Chu Lai, truyện ngắn Ngô Tự Lập “ Tháng có 15
ngày”, tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tuyển tập truyện ngắn Nam Cao,
truyện Ngô Tất Tố , các tập truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Quân đội
Nhân dân từ các năm 2000 đến 2016.
3


Hiện nay có nhiều loại tình thái được xác lập theo các tiêu chí khác
nhau. Với phạm vi nghiên cứu của luận án này, chúng tôi tập trung vào
tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái hành động ngôn từ,
tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic
modality) ở hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt.
Các phương tiện biểu hiện tình thái ở hỏi tu từ tiếng Anh và tiếng
Việt nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của luận án này.
Hành động hỏi là một hành động mà người nói thực hiện thông qua
ngôn ngữ nhằm thu thập thông tin mà mình muốn biết trong câu trả lời. Hành
động hỏi có thể có nhiều phương tiện biểu đạt. Người nói có thể sử dụng câu
hỏi (hay kiểu câu khác như câu trần thuật hoặc là câu mệnh lệnh) để thực hiện

một hành động ngôn từ hỏi. Từ sự phân tích đã đề cập ở trên chúng tôi nêu ra
hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt như sau:
(1) Hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt là hành động hỏi
thể hiện bằng câu nghi vấn;
(2) Hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt là hành động hỏi
thể hiện bằng câu trần thuật và câu mệnh lệnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp miêu tả và phương pháp so
sánh đối chiếu. Phương pháp miêu tả nhằm làm sáng tỏ các kiểu nghĩa tình thái
và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trong tiếng Anh và
tiếng Việt.Trong phương pháp miêu tả, chúng tôi đã vận dụng các thủ pháp như
thủ pháp thống kê, phân loại và thủ pháp phân tích ngữ cảnh trên các ngữ liệu
cụ thể mà chúng tôi thu thập được. Bên cạnh đó, chúng tôi vận dụng phương
pháp so sánh đối chiếu nhằm tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt giữa các bộ
phận nghĩa tình thái, những phương tiện biểu thị chúng, hiệu quả của việc sử
4


dụng những phương tiện ấy trong thực tế, qua đó mà hiểu rõ hơn về nghĩa tình
thái, và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và
tiếng Việt giúp nâng cao hiệu quả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ.
5. Những đóng góp của luận án
Nghiên cứu tập trung vào phương tiện biểu hiện tình thái hành động
ngôn từ, phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa
ở hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt cụ thể với
các đặc trưng về nội dung, ý nghĩa và các mối quan hệ tương ứng giữa
hình thức và nội dung. Qua phân tích, nghiên cứu đã bước đầu nhận diện
được hành động hỏi trực tiếp, gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời
chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện tình

thái hành động ngôn từ, phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức,
phương tiện biểu hiện tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp và
gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Về lí luận: Thông qua việc đối chiếu tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa
tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt, luận án chỉ ra biểu hiện
của tình thái hành động ngôn từ , tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa ở
hành động hỏi hỏi trực tiếp, hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt,
đồng thời tìm ra sự tương đồng và khác biệt của phương tiện biểu hiện nghĩa
tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt.
Về thực tiễn: Vấn đề tình thái từ xưa đến nay tuy không mới nhưng
luôn là đề tài thú vị thu hút sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học. Trên
tinh thần kế thừa và phát huy các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đi
trước về vấn đề nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái, ở
khuôn khổ luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu nhằm nêu bật nội dung
tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa cũng

5


như cách thức truyền tải nghĩa tình thái này trong hành động hỏi trực tiếp
và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Không có nhiều công trình nghiên cứu
về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở các kiểu ngôn trung trong hành
động ngôn từ hỏi ở cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh và tiếng Việt. Kết quả sau
nghiên cứu của luận án giúp phục vụ cho công tác giảng dạy ngoại ngữ,
hay một tài liệu tham khảo phục vụ cho những ai quan tâm đến lĩnh vực
nghiên cứu của đề tài.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận án
được chia thành ba chương:

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của
luận án.
Trong chương này, chúng tôi khái quát về tình hình nghiên cứu nghĩa
tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở nước ngoài cũng như ở
trong nước. Bên cạnh luận án đề cập tới một số khung lí thuyết làm nền
tảng nghiên cứu cho các vấn đề thuộc các chương tiếp theo gồm: Lí thuyết
hành động ngôn từ, nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình
thái trong ngôn ngữ.
Chương 2: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp
trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đề cập về phương tiện biểu
hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa
ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Qua phân tích và tổng
hợp nghiên cứu, chúng tôi rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về
tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa và
phương tiện biểu hiện những loại tình thái này ở hành động hỏi trực tiếp
tiếng Anh và tiếng Việt.

6


Chương 3: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi
gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đề cập về phương tiện biểu hiện
tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành
động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Qua phân tích và tìm hiểu, chúng
tôi rút ra nhận xét về những điểm tương đồng và khác biệt về nghĩa tình thái
và phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và
tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi gián tiếp Anh và tiếng Việt.


7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu nghĩa tình thái và phương
tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Anh và tiếng Việt
Trong ngành ngôn ngữ học thế giới hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu về
tình thái. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ nước ngoài như Ch.Bally (1905), O.
Jespersen (1949),V.Wright (1951), N. Rescher (1968), J. Lyons (1977-1995),
J.R. Searle (1969), T. Givón (1993), F.Palmer (2001) đã có những đóng góp
không nhỏ cho việc xây dựng khung lí luận chung về tình thái, phân loại tình
thái. Ch.Bally là người đầu tiên phân biệt Modus (bộ phận tình thái) là một
trong hai thành phần thiết yếu, quan trọng của cấu trúc nghĩa của phát ngôn
gắn với bình diện tâm lí, thể hiện những nhân tố thuộc phạm vi cảm xúc, ý
chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều được nói ra, xét trong
quan hệ với thực tế, với người đối thoại và với hoàn cảnh giao tiếp. Hầu hết
các nhà nghiên cứu về tình thái ở nước ngoài như O. Jepersen (1949),
V.Wright (1951), N.Reacher (1968), Quirk et al.(1972), T. Givón (1993),
M.A. K Halliday (1994), J.Lyons (1995), F.Palmer ( 2001) đều bàn về hai
loại tình thái chính đó là tình thái trong ngôn ngữ học và tình thái trong logic
học. Nếu trong logic học chúng ta quan tâm đến tình thái khách quan với các
thuộc tính của tình thái khách quan là chân trị của mệnh đề, là tính hiện thực,
là tính tất yếu hay không tất yếu, là tính khả hữu thì trong ngôn ngữ học đối
tượng quan tâm đặc biệt là tình thái chủ quan với thái độ của người nói. Theo
quan niệm của T.Givón (1993) “Tình thái biểu thị thái độ của người nói đối
với phát ngôn”. Thái độ mà ông đề cập đến ở đây là hai loại đánh giá của
người nói về thông tin phát ngôn được chuyển tải qua nội dung mệnh đề. Một
8



là những đánh giá nhận thức về tính hiện thực, khả năng, lòng tin và sự chắc
chắn hay bằng chứng. Hai là những đánh giá giá trị về ước muốn, sự ưa thích,
ý định, sự ràng buộc hay sự điều khiển. T.Givón chia tình thái nhận thức làm
bốn tiểu loại gồm:
(1) Tiền giả định ( presupposition),
(2) Xác nhận hiện thực (realis assertion),
(3) Xác nhận phi hiện thực (irrealis assertion),
(4) Xác nhận phủ định (negative assertion).
Tác giả J.L Austin (1962) trong công trình nghiên cứu “How to do
things with words” cho rằng nói năng cũng là hành động, tương ứng với câu
nói là những hành động nhằm tác động vào người nghe. Từ đây đã khởi
xướng cho việc nghiên cứu tình thái của “hành động phát ngôn”. Tình thái
của “hành động phát ngôn” phân biệt các phát ngôn theo mục đích, mục tiêu
cụ thể trong giao tiếp, phân biệt các câu có giá trị ngôn trung khác nhau được
đánh dấu.
N.Rescher (1968) trong Topics in philosophical logic, ngoài việc đề
cập đến loại tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa, ông còn bàn về tình thái
hiện thực (realis), tình thái biểu thời( temporal), tình thái vọng cảm
(boulomaic), tình thái đánh giá(evaluative), tình thái nguyên nhân (causal),
tình thái điều kiện ( conditional).
J.Lyons (1977) (Semantics, Cambridge University Press) đã phân chia
tình thái chủ quan thành hai loại:
(1) tình thái nhận thức (epistemic modality)
(2) tình thái đạo nghĩa (deontic modality).
J.Lyons cho rằng: Tình thái nhận thức liên quan đến tính khá năng, tính cần

thiết và mức độ cam kết của người nói đối với điều mà anh ta nói ra, tình thái
đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lý của hành động đo một

9


người nào đó hay do chính người nói thực hiện. Tình thái nhận thức phải
được thể hiện thông qua tính tất yếu hoặc khả năng về tính xác thực của mệnh
đề, và có liên quan đến tri thức và niềm tin. Trong tình thái nhận thức, xét về
góc độ chân thực thì có ba kiểu tình thái nhận thức:
+ Tình thái thực hữu (factive modality) là loại tình thái mà người nói
cho rằng sự việc được nói đến là hiện thực hay tất yếu hiện thực.
+ Tình thái phản thực hữu (contra-factive modality) là loại tình thái người
nói cho rằng sự việc được nói đến là phi hiện thực hoặc tất yếu phi hiện thực.
+ Tình thái không thực hữu (non-factive modality) là loại tình thái
người nói cho rằng sự việc được nói đến có thể xảy ra ở một thế giới khả năng
nào đó.( J.Lyons 1977, tr 823 )
Tình thái đạo nghĩa là loại tình thái có liên quan với chức năng xã hội
của phép tắc hay là nghĩa vụ nghĩa là loại tình thái đạo nghĩa này thể hiện
mức độ áp đặt của chủ thể giao tiếp về mặt đạo đức,về phong tục,về tập
quán... với các tiểu loại sau:
+ Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự bắt buộc/không bắt buộc,
+ Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự được phép/không được phép
+ Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự cấm đoán/không cấm đoán
+ Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự miễn trừ/ không miễn trừ (J.Lyons
1977, tr 823)
Đáng chú ý là J.R. Searle (1979) trong cuốn Expression and Meaning(
Cambridge (Mass) lại phân tích tình thái theo hướng tiếp cận vấn đề về hành
động ngôn từ. Lí thuyết hành động ngôn từ cho thấy mối quan hệ giữa người
nói, người nghe và nội dung phát ngôn bao chứa rất nhiều nội dung tình
thái.Theo cách tiếp cận này, vai trò của người nói và người nghe được nhấn
mạnh. Dường như có sự tương hợp giữa khung tình thái với 5 nhóm hành
động ngôn từ mà tác giả đã phân loại.

10


Tương tự với nhận xét của T.Givón về tình thái, W.Frawley (1992),
M.A. K Halliday (1994) cũng cho rằng các thuộc tính cơ bản của tình thái là
tính “hiện thực” và “phi hiện thực” . Tình thái ảnh hưởng tới toàn bộ nội dung
của một sự diễn đạt nào đó.Tình thái gợi lên không chỉ các mức độ nhận thức
khách quan về hiện thực mà còn cả các thái độ và sự định hướng chủ quan đối
với nội dung của sự biểu đạt.
F.Palmer (2001) (Mood and modality, 2nd edition. Cambridge
Textbooks in Linguistics New York: Cambridge University Press) cũng phân
loại tình thái giống như cách phân loại của J.Lyons gồm hai loại trọng tâm là
tình thái nhận thức (epistemic modality)và tình thái đạo nghĩa (deontic
modality), ngoài ra, ông còn đề cập đến loại tình thái trạng huống (dynamic
modality). Tình thái trạng huống là loại tình thái có tính tình huống. Tình thái
trạng huống mang tính khách quan khi yếu tố tình huống là yếu tố bên ngoài,
không liên quan đến ý chí hay mong muốn của người nói đối với việc thực
hiện hành động (Palmer 2001, tr 76 – tr 96).
Ở Việt Nam các nhà ngôn ngữ học như Hoàng Phê (1989), Cao Xuân
Hạo (1991), Hồ Lê (1992), Lê Đông (1996), Nguyễn Đức Dân(1998), Diệp
Quang Ban(2000), Hoàng Tuệ (2001), Phạm Hùng Việt(2003), Bùi Mạnh
Hùng (2003), Nguyễn Văn Hiệp (2001, 2004, 2007, 2015)...trực tiếp quan tâm
đến vấn đề tình thái với những nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều kiến giải
sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đó Cao
Xuân Hạo (1999) đã phân biệt hai loại tình thái: Tình thái của hành động phát
ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Theo ông việc “phân biệt các lời nói về
phương diện mục tiêu và tác dụng trong giao tế” thuộc tình thái của hành
động phát ngôn, còn tình thái của lời phát ngôn là tình thái “có liên quan đến
thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc quan hệ sở đề và sở
thuyết của mệnh đề”. Sự phân biệt giữa các kiểu câu trần thuật, câu hỏi, câu

11


mệnh lệnh theo tiêu chí ngữ pháp và sự phân biệt các hành động ngôn từ theo
tiêu chí ngữ dụng thuộc lĩnh vực tình thái của hành động phát ngôn. Như vậy
nội dung tình thái của lời phát ngôn bao gồm:
 Những hiểu biết của chủ thể giao tiếp về chân trị của điều được nói ra
trong các loại câu khẳng định, phủ nhận, ngờ vực, giới hạn của điều kiện chân trị.
 Tính khả năng hay tính tất yếu của điều được nói ra ( có thể/ không
thể; tất nhiên /không tất nhiên; tính khả năng/tất yếu)
 Sự đánh giá của chủ thể giao tiếp với thông tin truyền đạt ( buồn, vui,
nên có hay không nên có, đáng mừng hay đáng tiếc)
 Sự chính xác, đơn giản, mức độ thành thật của thông tin mà người
nói nói ra
 Sự liên hệ giữa câu, phát ngôn với cảnh huống và các vấn đề khác thuộc
những vấn đề logic hay siêu ngôn ngữ. (Cao Xuân Hạo 1991, tr 42- tr 50)
Cao Xuân Hạo còn đề cập đến loại tình thái của câu và tình thái của cấu
trúc vị ngữ hạt nhân. Nghiên cứu về thái độ của người nói về điều mà mình
nói ra, cách đánh giá nhận định của người nói về tính hiện thực, tính không
hiện thực, giới hạn của nó và tính xác thực, tính tất yếu , điều mong muốn của
thông tin truyền tải chính là nghiên cứu về tình thái của câu.
Nguyễn Văn Hiệp với bài viết “Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong
ngôn ngữ”-Tạp chí Ngôn ngữ số 8-2007 đã cho thấy nghiên cứu sâu về tình
thái. Ông đã nêu ra những phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ dựa trên
sự đối lập của các cặp nghĩa tình thái như sự đối lập giữa tình thái nhận thức
(epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic modality), sự đối lập giữa
tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái căn bản (root modality),
đối lập giữa tình thái hướng tác thể (agent- oriented modality) và tình thái
hướng người nói ( speaker- oriented modality), đối lập giữa tình thái của mục
đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Những đối lập về tình thái mà

ông nêu ra cho thấy phạm vi rất rộng trong việc nghiên cứu về tình thái.
12


Bàn về các phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Anh Trong tiếng
Anh, O. Jespersen (1949) , M.A.K Halliday (1994), Eggins (1994), Martin và
các cộng sự (1997), đều cho rằng có nhiều cách thể hiện nghĩa tình thái khác
nhau như thể hiện bằng:
+ Phương tiện như thức trần thuật- xác định sự chân thực của điều
được nói ra ( indicative mood ); thức mệnh lệnh- xác định mong muốn của
người nói về việc người nghe thực hiện hành động trong tương lai(imperative
mood); thức giả định- giả định và mong muốn điều gì đó được đề cập đến
trong nội dung mệnh đề sẽ xảy ra ở tương lai trong một điều kiện cụ thể nào
đó ( subjunctive mood); như thì (tenses)- hiện tại ( present), quá khứ (past),
tương lai ( future); thể (aspects)- hoàn thành (ferfect) hay tiếp diễn
(continuous) của động từ làm vị ngữ
+ Phương tiện như động từ tình thái (modal verbs) như must để diễn
đạt sự bắt/ ép buộc mạnh và sự suy luận chắc chắn/ tự tin; should diễn đạt
điều răn đe, khuyên bảo, giả thuyết; ought to: nên, tốt hơn thì, đáng lẽ;
can: có thể, có lẽ, có khả năng, có năng lực, cho phép; may: có thể, có lẽ,
cho phép, giả thuyết; could: có thể, có năng lực, giả thuyết; would: phỏng
đoán, đoán, giả thuyết; will: sẽ, ý chí, quyết tâm, lời hứa, dự đoán; need:
cần, cần thiết, nhu cầu; shall: sẽ, sắp sửa, chuẩn bị, dự đoán ; tính từ tình
thái (modal adjectives) như possible (có lẽ/ có thể), probable (có lẽ),
necessary (cần thiết/ thiết yếu), likely (chắc/ có thể/ có lẽ đúng), certain
(chắc), obvious (rõ ràng), true (đúng), evident (hiển nhiên/ rõ rệt); trạng
từ tình thái ( modal adverds) như perhaps (có thể/ có lẽ); maybe (có thể/
có lẽ); probably (có lẽ); possibly (có thể); certainly (chắc chắn), obviously
(rõ ràng)là những loại diễn đạt chính. Ngoài ra còn có các danh từ tình
thái (modal nouns) như possibility (có thể/ có lẽ), probability (có thể/ có

lẽ), chance (cơ hội), rumour (lời đồn)
13


+ Phương tiện như ngữ điệu (tone) - ngữ điệu lên (glide up) ngữ điệu
xuống (glide down), ngữ điệu lên xuống (the dive); trọng âm (stress syllable).
Bàn về các phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Việt, Phan Mạnh
Hùng (1985) trong bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và
ranh giới từ” đã có những nhìn nhận sâu sắc hơn về tiểu từ tình thái tiếng
Việt trong nghiên cứu từ loại, vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả
năng các tiểu từ kết hợp với nhau...
Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái
trong tiếng Việt” và “Về khái niệm tình thái” in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập
Ngôn ngữ học” (2001) cho ta thấy một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái
trong tương quan đối chiếu với khái niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ
Châu Âu và sự thể hiện ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Bên cạnh phương
tiện ngữ pháp, phương tiện từ vựng cũng được nghiên cứu một cách chuyên
sâu. Ông cho rằng các phương tiện biểu thị tình thái gồm những loại chính là:
(1) Những phương tiện ngữ pháp được gắn với vị ngữ,
(2) Những phương tiện từ vựng được dùng không gắn với vị ngữ mà ở
ngoài cấu trúc của vị ngữ,
(3) Kiểu câu thường được coi là câu ghép nhưng thành phần chính ở
kiểu câu này biểu thị tình thái còn thành phần phụ biểu thị nội dung cốt lõi
của câu.
Hồ Lê (1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” đã bàn về phương tiện ngữ
pháp diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt .Việc đảo trật tự từ, thay đổi
cấu trúc của câu có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm
nhấn nào đó trong phát ngôn.
Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu về “Tiểu từ tình thái dứt câu
dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” gồm

mười tiểu từ tình thái: à, ư, hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé nhằm
14


tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị ý
nghĩa tình thái chủ quan trong những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện,
miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó.
Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ
âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa” đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc
về tiền giả định và hàm ý trong một số vị từ tình thái tiếng Việt. Theo tác giả
ba loại tình thái chính gồm : tình thái của hành động phát ngôn, tình thái vị
ngữ và tình thái của câu. Phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu sẽ
bao gồm:
(1) Những yếu tố tình thái làm thành đề của câu.
(2) Những yếu tố tình thái được xử lí như một phần thuyết.
(3) Những yếu tố tình thái khác.
Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái
cuối câu tiếng Việt. Những vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện,
khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt như việc nghiên
cứu sự kết hợp giữa các tiểu từ tình thái cùng với các động từ ngôn hành, các
tiểu từ kết hợp với vị từ có ý nghĩa cầu khiến, khuyên bảo đã được ông miêu
tả và phân loại rõ ràng trong bài “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động
tình thái” (“Ngôn ngữ”, số 11)
Phạm Hùng Việt (2003) trong “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức
năng ngữ nghĩa của trợ từ tiếng Việt” và “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại”
xác định rằng để biểu thị ý nghĩa tình thái của câu cần có các phương tiện
như: phương tiện ngữ âm(ngữ điệu, trọng âm), ngữ pháp đảo trật tự từ, thay
đổi cấu trúc câu...), từ vựng (động từ tình thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán
ngữ tình thái) … Ông cho rằng “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình
thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng”.

Qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, đã cho thấy “trợ từ tiếng
15


Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành động ngôn từ khác nhau
gồm cả các hành động ngôn từ trực tiếp và các hành động ngôn từ gián tiếp”.
Nghiên cứu theo hướng đối chiếu có Phạm Thị Ly (2003) với “Đối
chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt và trong
tiếng Anh”, Luận án tiến sĩ Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh, trong công
trình nghiên cứu này tác giả tập trung vào so sánh đối chiếu phương tiện vị từ
tình thái, tiểu từ tình thái cuối câu, đề tình thái và thuyết tình thái là biểu hiện
nghĩa tình thái trong tiếng Anh và tiếng Việt, Nguyễn Thị Ngọc Hân (2005)
như “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so sánh với tiếng
Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật. Luận án đã đi sâu khảo sát con
đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của
chúng với phát ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự
có mặt của chúng trong phát ngôn.
Nhìn chung, vấn đề tình thái và phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái
trong ngôn ngữ chưa được xem xét thỏa đáng và thống nhất. Các nghiên cứu
chỉ tập trung vào một bình diện cụ thể nào đó hoặc chỉ đề cập sơ bộ và phân
tích chưa sâu sắc. Tuy nhiên các tác giả vẫn công nhận rằng: ý nghĩa tình thái
và phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái là vấn đề thú vị và có vai trò quan
trọng làm nên sự phong phú, giàu đẹp của mọi ngôn ngữ.
Như đã trình bày ở trên đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái theo hướng tiếp cận ngữ nghĩa,
ngữ dụng, hay ngữ nghĩa- ngữ dụng, tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào
chuyên sâu về phương tiện truyền tải nghĩa tình thái trong hành động hỏi
tiếng Anh và tiếng Việt. Chúng tôi nhận thấy rằng, trên cơ sở thành tựu về lí
thuyết hành động ngôn từ, chúng tôi tập trung khai thác khảo sát ý nghĩa, các
phương tiện biểu đạt tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình

thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh
16


và tiếng Việt, chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ
trong giao tiếp thực tế, qua đó rút ra được những tương đồng và khác biệt ở cả
hai ngôn ngữ Anh-Việt trên thực tế giao tiếp về phương tiện biểu hiện tình
thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong hành
động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt.
1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu hành động hỏi trong tiếng
Anh và tiếng Việt
Nghiên cứu hành động hỏi là một vấn đề tuy không mới và được các nhà
ngôn ngữ học rất quan tâm song quan điểm của các nhà nghiên cứu cũng có
những khác nhau. Đối với tiếng Anh, đặc biệt chú ý có công trình của J. Austin
(1969) và J. Searle (2001) khi các nhà nghiên cứu đề cập đến thuyết hành động
ngôn từ. Các nhà nghiên cứu như A.Wierzbicka, J. Sadock, G.Gazdar, R.M
Harnis, G.Yule cùng có chung quan điểm với J.Searle về tiêu chí phân loại hành
động ngôn từ, đó là các đặc tính chủ yếu, quan trọng của hành động ngôn từ.
Tuy nhiên điểm khác nhau trong nghiên cứu của các tác giả về hành động ngôn
từ nằm ở những tiêu chí bổ sung cho các đặc tính quyết định hành động ngôn
trung như là các điều kiện sử dụng, hay điều kiện thỏa mãn, định hướng sắp xếp
các tiêu chí nhỏ thuộc các tiêu chí lớn trong phân loại. Các công trình của J.
Austin [59], J.Searle [90], O Ducrot [69], A. Wierzbicka [60].. ...hướng nghiên
cứu về vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng học của câu hỏi. J. Searle là người khởi
xướng trong việc nghiên cứu về hành động ngôn từ gián tiếp. O. Ducrot với quan
điểm nghiên cứu câu hỏi trong mối quan hệ giữa câu- phát ngôn. Ông cho rằng
“câu- sentence” là bản thể của ngôn ngữ trìu tượng luôn đồng nhất trong mọi
trường hợp, “phát ngôn-utterance” là một trường hợp cụ thể, là sự hiện thực hóa
trong một hoàn cảnh cụ thể của câu [dẫn lại, 50].
Đối với tiếng Việt, nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản (1979) cho thấy

việc nhận diện câu nghi vấn qua mục đích nói. Hồ Lê (1992), Cao Xuân
Hạo(1995), Diệp Quang Ban (2000) nhận diện câu nghi vấn thông qua các
17


tiêu chí hỏi có dấu hiệu hỏi và dấu hiệu tình thái hỏi. Việc đảo trật tự, thay đổi
cấu trúc của câu hỏi có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào
điểm nhấn nào đó trong phát ngôn hỏi.Ở bình diện ngữ dụng học, đáng chú ý
là công trình nghiên cứu của Lê Đông (1996) về câu nghi vấn. Ông xem xét
vấn đề câu nghi vấn trong các mối quan hệ giao tiếp liên nhân như người
tham giao tiếp, vai giao tiếp, ngữ cảnh, mục đích nói, thái độ của người nói.
Lê Đông nghiên cứu sâu về ngữ nghĩa ngữ dụng của câu hỏi chính danh, các
tiểu loại câu hỏi, thông tin ngữ dụng bổ trợ, tình thái trong câu hỏi chính
danh. Nguyễn Thị Thìn (1996) tập trung bàn về 11 kiểu câu hỏi không dùng
để hỏi, câu hỏi gián tiếp, câu hỏi không chính danh trong mối quan hệ giữa
cấu trúc ngữ pháp và cách sử dụng, quan hệ của cấu trúc với chức năng cho
nên nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc miêu tả mục đích và đặc điểm cú
pháp, đặc điểm cách dùng của 3 loại câu hỏi trong số các kiểu câu hỏi điển
hình không dùng để hỏi. Võ Đại Quang (2000) nghiên cứu về đặc điểm câu
hỏi chính danh tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện ngữ dụng học với các
quan điểm phân loại chúng thành câu hỏi lựa chọn hiển ngôn, câu hỏi lựa
chọn ngầm ẩn và câu hỏi không lựa chọn qua đó rút ra những tương đồng và
khác biệt về phương diện ngữ nghĩa ngữ dụng của câu hỏi chính danh tiếng
Anh và tiếng Việt. Nguyễn Việt Tiến (2006) nghiên cứu về hành động hỏi và
câu hỏi theo quan điểm ngữ dụng học trên cứ liệu tiếng Pháp với những phân
tích cụ thể hành động hỏi và câu hỏi tiếng Việt và tiếng Pháp trong hành chức
cụ thể của chúng. Nguyễn Phúc Trung (2011) nghiên cứu về hành động hỏi
trong ngôn ngữ phỏng vấn truyền hình (trên các kênh của VTV, có so sánh
với kênh TV5 của Pháp) theo quan điểm dụng học. Nghiên cứu tập trung tìm
hiểu về hành động hỏi và các hành động ngôn ngữ khác nữa với mục đích

khai thác được thông tin cần thiết mà người nói mong muốn trong các hình
thức hồi đáp trên khía cạnh cặp thoại, tham thoại liên quan đến tính lịch sự và
thể diện của các hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình.
18


Như đã trình bày ở trên đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về tình
thái và phương tiện biểu hiện tình thái theo hướng tiếp cận ngữ nghĩa, ngữ dụng,
hay ngữ nghĩa- ngữ dụng, tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về
phương tiện truyền tải nghĩa tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng
Việt. Chúng tôi nhận thấy rằng, trên cơ sở thành tựu về lí thuyết hành động ngôn
từ, chúng tôi tập trung khai thác khảo sát ý nghĩa, các phương tiện biểu đạt tình
thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động
hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt, chỉ ra các nhân
tố ảnh hưởng khi sử dụng phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp thực tế, qua đó
rút ra được những tương đồng và khác biệt ở cả hai ngôn ngữ Anh-Việt trên thực
tế giao tiếp về phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận
thức và tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt.
1.3. Cơ sở lí luận của luận án
1.3.1. Lí thuyết hành động ngôn từ
1.3.1.1. Khái quát về hành động ngôn từ
Khái niệm “speech acts” (hành động ngôn từ ) do J. Austin - một nhà triết
học người Anh thuộc về trường phái triết học ngôn ngữ đời thường khởi xướng ra
và ông là người đầu tiên xây dựng nền móng và trình bày lý thuyết hành động
ngôn từ một cách có hệ thống. Lý thuyết “hành động ngôn từ”, sau này, được một
nhà triết học khác là J.Searle phát triển. J.Austin với luận điểm “To say is to do
something” trong công trình “How to do thing with words” mang lại hướng tiếp
cận nghiên cứu về ngôn ngữ mới. Nhiều chức năng được thực hiện bằng các phát
ngôn với tư cách là một phần của giao tiếp liên nhân được J.Austin chú ý. Đặc
biệt, J.Austin chỉ ra rằng nhiều phát ngôn không truyền đạt thông tin mà là cái

tương đương với hành động . Khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành
động nào đó như thông báo, khuyên, chúc mừng, hỏi, tuyên bố, xin lỗi, hứa, thề...
v.v. Hành động này sử dụng công cụ là ngôn từ, và nó có tầm tác động đến người
19


×