Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài tập nhóm học phần luật hình sự việt nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.05 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN: LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1
NHÓM
THÀNH VIÊN NHÓM:
PHẠM VĂN ĐẠI

LỚP: LKT-K23A – 18A51010034

NGHIÊM THỊ THÚY HỒNG

LỚP: LKT-K23B – 18A51010116

PHẠM LINH CHI

LỚP: LKT-K23A – 18A51010004

ĐINH THỊ NHUNG

LỚP: LKT-K23A – 18A51010066

LÊ ĐĂNG HIẾU

LỚP: LKT-K23A – 18A51010038

NGUYỄN THỊ HẢI NINH

LỚP: LKT-K23B – 18A51010196


NGUYỄN ĐỨC DŨNG

LỚP: LKT-K23A – 18A51010178

NĂM 2020


A. Phần mở đầu
Trong hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới nói chung và hệ thống pháp luật của
Việt Nam nói riêng, luật hình sự luôn giữ vị trí rất quan trọng và được Nhà nước đặc
biệt quan tâm. Luật hình sự là hệ thống các quy phạm pháp luật xác định những hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định hình phạt có thể áp dụng cho người
đã thực hiện các tội phạm đó. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ giữa
Nhà nước và người phạm tội. Những quan hệ xã hội đó được gọi là quan hệ pháp luật
hình sự. Chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự gồm Nhà nước và người đã thực hiện
các hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm. Phương pháp điều chỉnh của luật hình
sự là phương pháp mệnh lệnh - phục tùng. Phương pháp này xuất phát từ đối tượng điều
chỉnh của luật hình sự. Theo đó, các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh hành vi của
con người trong cuộc sống hàng ngày với cách thức tác động là cấm đoán, cho phép và
bắt buộc.


B. Phần nội dung
NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ THỰC HIỆN CÁC YÊU CẦU
Câu 1:
A, Trình bày hiệu lực của BLHS theo thời gian
- Hiệu lực theo thời gian là phạm vi áp dụng BLHS 2015 đối với hành vi phạm tội trong
khoảng thời gian nhất định. Hiệu lực theo thời gian được quy định cụ thể tại Điều 7
BLHS 2015:
Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian

1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi
hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác
không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã
thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một
hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo,
miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt,
tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm
tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có
hiệu lực thi hành.
Như vậy, chúng ta xác định thời điểm thực hiện tội phạm qua 02 trường hợp:
+ Đối với tội phạm được thực hiện trong một khoảng thời gian thì tất cả quá trình thực
hiện tội phạm là thời điểm thực hiện tội phạm.
+ Điều luật được áp dụng là điều luật đang có hiệu lực thi hành vào thời điểm cuối cùng
của việc thực hiện tội phạm.


B, Thời điểm xảy ra vụ án là ngày 7/11/2016, theo anh/chị việc áp dụng BLHS năm
1999 và năm 2015 trong cùng 1 vụ án khi quyết định hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm
có phù hợp không? Vì sao ?
- Theo em, việc áp dụng BLHS năm 1999 và năm 2015 trong cùng 1 vụ án khi quyết
định hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp. Bởi vì BLHS 2015 chính thức có
hiệu lực (được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) đối với người
thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, BLHS 2015 vẫn có hiệu lực vào trước thời
điểm trên, đây được gọi là “hiệu lực hồi tố” và được ghi nhận cụ thể tại điểm b khoản 1
Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 như sau:

Các điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm
tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày
01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố,
xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án
tích.
Câu 2:
A, Trình bày các vấn đề khái niệm tội phạm, các yếu tố của tội phạm, phân loại tội
phạm và cấu thành tội phạm.
- Khái niệm tội phạm:
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
- Các yếu tố cấu thành tội phạm:
Cấu thành tội phạm cơ bản bao gồm 04 yếu tố sau: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ
thể, khách thể.


+ Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại
bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm gồm
những hành vi nguy hiểm cho xã hội: tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm, ngoài ra còn có
các dâu hiệu khác nhau như: phương tiện, công cụ, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa
điểm, thực hiện tội phạm.
+ Mặt chủ quan của tội phạm: là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao

gồm: lỗi, mục đích, và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải
được thực hiện bởi hành vi có lỗi. Theo quy định của pháp luật, có hai loại lỗi: lỗi cố ý
và lỗi vô ý phạm tội.
- Cố ý phạm tội là tội phạm được thực hiện một trong các trường hợp sau:
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp)
+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi có ý gián tiếp).
- Vô ý phạm tội là phạm tội một trong các trường hợp sau:
+ Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (vô ý do
quá tự tin)
+ Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (vô ý do cẩu thả).
Động cơ phạm tội là cái thôi thúc tội phạm thực hiện hành vi phạm tội để đạt được mục
đích của mình.
+ Khách thể của tội phạm: là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quan hệ đó là: quan hệ về
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn
hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
quyền con người các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. . . những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.


+ Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
theo quy định của luật hình sự.

Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của

người phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bội luật Hình
sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách
nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm trừ những tội phạm Bộ luật Hình sự có quy định
khác; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự.
Như vậy, một hành vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố trên. Khi đã
được coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của mình theo quy
định của pháp luật.
- Phân loại tội phạm:
Tại điều 9 của bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, căn cứ vào tính
chất nguy hiểm của hành vi mà tội phạm cũng được phân thành 4 loại:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn màmức cao nhất của khung hìnhphạtdo Bộ luật này quy định đốivớitộiấy là
phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn
mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
3 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội đặc biệt lớnmà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.


B, Chỉ rõ tội phạm, các yếu tố của tội phạm trong vụ án trên. Tội phạm trong vụ án là
loại tội phạm gì, có cấu thành tội phạm loại gì, vì sao?
-Tội phạm trong vụ án là Hồ Văn T phạm tội giết người và cố ý gây thương tích do vượt

quá giới hạn phòng vệ chính đáng
-Yếu tố của tội phạm:
Về mặt khách quan của tội phạm
+ Về hành vi khách quan: Hồ Văn T đâm 1 nhát dao trúng vào vùng bụng của Trần T1
và đâm anh S
+ Về hậu quả : Khiến anh T1 thương 84% và đâm anh S tử vong
Về mặt chủ quan của tội phạm
+Lỗi cố ý gián tiếp là việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra tuy không mong muốn
hậu quả xảy ra nhưng cố ý (có ý thức được hành vi) để mặc cho nó xảy ra. Từ khái niệm
rút ra được hai đặc trưng cơ bản về lỗi cố ý gián tiếp đó là: thứ nhất, người phạm tội
nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi, hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra;
thứ hai, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc, chấp nhận
hậu quả xảy ra.
+Về động cơ, mục đích : tự vệ
- Tội phạm trong vụ án là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Câu 3:
A, Các giai đoạn thực hiện tội phạm
- Là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biểu
hiện nhằm đánh giá sự diễn biến của mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho
việc xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự, hình phạt.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện bằng lỗi cố ý
trực tiếp. Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong muốn
hậu quả xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là tội phạm hoàn thành, không có giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.


Quá trình thực hiện tội phạm có 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn
phạm tội chưa đạt và giai đoạn tội phạm hoàn thành
*Giai đoạn thứ nhất: Chuẩn bị phạm tội

- Đây là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết
cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Người phạm tội
tiến hành tìm kiếm công cụ phạm tội, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc
chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho tội phạm quan sát địa điểm, điều kiện liên quan
xung quanh hoàn cảnh của nạn nhân.
Ví dụ: Do B có mâu thuẫn với anh H từ trước trong quá trình buôn bán quần áo ở chợ
đầu mối, B đã bàn bạc với C cách thức trả thù H. B và C thống nhất đêm 01/6 sẽ mua 03
lít xăng hất vào cửa hàng quần áo của H rồi châm lửa đốt cháy cửa hàng của H. Thực
hiện đúng kế hoạch đã bàn bạc,. Tối 01/6, B và C cùng đi mua xăng cho vào can nhựa
rồi lên xe máy đến chợ đầu mối. Trên đường đi, do B điều khiển xe máy đi vào đường
cấm nên B và C bị Cảnh sát giao thông giữ xe máy nên không tiếp tục thực hiện việc
đốt cửa hàng quần áo của anh H được. Mặc dù chưa thực hiện hành vi đốt cửa hàng của
anh H nhưng hành vi của B và C đã thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội
Huỷ hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự,
vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
- Đặc điểm:
+ CBPT tồn tại dưới dạng “hành vi” và hành vi chuẩn bị liên quan trực tiếp đến quá
trình thực hiện tội phạm như: tìm kiến công cụ, phương tiện phạm tội; tạo điều kiện cần
thiết khác (nghiên cứu, xem xét địa hình nơi dự định thực hiện tội phạm,..),..
+Ý định phạm tội đã được biểu hiện ra bên ngoài. Thời điểm muộn nhất của giai đoạn
CBPT là thời điểm trước lúc người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được quy
định trong cấu thành tội phạm (là những dấu hiệu chung cho loại tội phạm cụ thể được
quy định trong luật) hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan.
+Thứ ba, nguyên nhân không thực hiện tội phạm được đến cùng là do khách quan ngoài
ý muốn (yếu tố giúp phân biệt với tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội).
-Trách nhiệm hình sự:


+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên : người phạm tội phải chịu TNHS ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội nếu phạm vào các tội quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS 2015, sử đổi bổ sung

năm 2017.
+ Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chịu TNHS ở 2 tội: tội giết người (điều
123) và tội cướp tài sản ( điều 168).
* Giai đoạn thứ hai: phạm tội chưa đạt
- Đây là giai đoạn mà người phạm tội có thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không thực
hiện được đến cùng do những cản trở khách quan ngoài ý muốn.
Ví dụ: (Cùng ví dụ ở tình huống trên) trong trường hợp B và C đã đem can xăng
đến cửa hàng quần áo của anh H, B và C đã tưới xăng châm lửa đốt cửa hàng nhưng
đúng lúc trời mưa rào rất to nên lửa mới bùng lên đã bị dập tắt ngay, cửa hàng quần áo
không bị cháy, không bị hư hại gì. Cửa hàng quần áo của anh H không bị huỷ hoại do
trời mưa to là nguyên nhân xảy ra ngoài ý chí chủ quan của B và C, tuy nhiên B và C đã
thực hiện đầy đủ hành vi cấu thành tội phạm nên vẫn đủ điều kiện bị khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử ở tội Huỷ hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định tại Điều
143 Bộ luật hình sự ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
- Đặc điểm:
+ Người phạm tội đã trực tiếp thực hiện tội phạm qua việc:Thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong cấu thành tội phạm, hoặc thực hiện hành vi đi liền trước hành vi
khách quan.
+ Người phạm tội chưa thực hiện tội phạm đến cùng (tức chưa hành vi của họ chưa thỏa
mãn hết các dấu hiệu về mặt khách quan trong cấu thành tội phạm (dấu hiệu phân biệt
với tội phạm hoàn thành)
+ Nguyên nhân không thực hiện tội phạm đến cùng là do:Khách quan ngoài ý muốn
hoặc sai lầm của người phạm tội (về đối tượng tác động hay công cụ, phương tiện,…)
như: bắn nhưng đạn không nổ, thuốc độc không đủ liều lượng,…
- Phân loại:
Căn cứ vào ý thức chủa quan của người phạm tội:


+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: người phạm tội đã chưa thực hiện được hết
những hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả thiệt hại được mô tả trong CTTP vì

những nguyên nhân khách quan hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
+ Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành : người phạm tội đã htực hiện hết những hành vi cho
là cần thiết để gây ra hậu quả thiệt hại được mô tả trong CTTP.
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt: chưa đạt vô hiệu
do là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn
với đối tượng tác động của tội phạm, với công cụ, phương tiện phạm tội.
- Trách nhiệm hình sự: người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm về tội phạm chưa
đạt đó. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đó là một trong những căn cứ giảm nhẹ.
Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. (khoản 3 Điều 57)
* Giai đoạn thứ ba: tội phạm hoàn thành
- Đây là trường hợp mà hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu
được mô tả trong CTTP
Ví dụ: (tiếp với ví dụ trên) B và C châm lửa đốt cửa hàng của anh H, do trời quá
nắng nên lửa cháy ngày càng to, làm cho toàn bộ cửa hàng của anh H bị hủy hoại toàn
bộ. Vì vậy B và C bị truy cứu TNHS theo khoản 2 điều 178 tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản.
- Đặc điểm: hành vi của người phạm tội thỏa mãn hết tất cả các dấu hiệu được mô tả
trong CTTP không cần biết hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên thực tế hay chưa.
- Trách nhiệm hình sự: áp dụng theo từng điều luật cụ thể mà hành vi của người phạm
tội gây ra.
B, Trong vụ án trên tội phạm đã thực hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn thành. Anh Hồ
Văn T chỉ muốn cố ý gây thương tích mà không hề có mục đích giết chết ai, muốn tự vệ
(“tụi bay mà đánh nữa là tau đấm đó”) Vì anh Hồ Văn T đã thực hiện hết những hành vi
cho là cần thiết để gây ra thương tích đối với anh S và anh T1 và thỏa mãn các dấu hiệu
được mô tả trong CTTP tội giết người( khoản 2 điều 123 BLHS năm 2015) và tội cố ý
gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (khoản 1 điều 106 BLHS
năm 1999)



Câu 4:
A, Thế nào là phòng vệ chính đáng ? Trình bày cơ sở phát sinh quyền phòng vệ và trách
nhiệm hình sự khi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng ?
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một
cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính
đáng không phải là tội phạm. ( Theo Khoản 1 Điều 22 BLHS 2015 ( sửa đổi bổ sung
2017 ) )
- Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần
thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm
hại.Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật này . (Theo Khoản 2 Điều 22 BLHS 2015 ( sửa đổi bổ sung
2017 )).
=> Đây là trường hợp phòng vệ khi đã có đủ cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ - sự
tấn công của con người, nguy hiểm đáng kể, trái pháp luật đang hoặc sẽ xảy ra ngay tức
khắc và người phòng vệ đã thực hiện đúng nội dung của quyền phòng vệ - chống trả gây
thiệt hại cho chính kẻ tấn công nhưng đã vượt ra ngoài phạm vi cho phép - gây ra thiệt
hại cho người tấn công rõ ràng quá mức cần thiết, không tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công.
- Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
+ Tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm hại
+ Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra +
Sức mãnh liệt của hành vi tấn công
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm của phương pháp và phương tiện mà kẻ tấn công sử
dụng
+ Khả năng phòng vệ của người phòng vệ
- Trách nhiệm hình sự khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luật hình sự Việt Nam quy định người phòng vệ trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có lỗi đối với hành vi vượt quá.

Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với họ là trách nhiệm hình sự giảm nhẹ do xét đến


động cơ cũng như hoàn cảnh phạm tội. Với lý do như vậy, tình tiết vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng có thể được quy định là tình tiết định tội (tội nhẹ hơn), tình tiết
định khung giảm nhẹ của một số tội cũng như được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho các tội khác. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tình tiết này được quy
định là tình tiết định tội (tội nhẹ hơn; Điều 96 và Điều 106) cũng như được quy định là
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các trường hợp phạm tội khác (Điều 46).
=> Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hai tội phạm cụ thể do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng như sau:
1. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội
Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội
Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng
đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương

cơ thể 61% trở lên.


3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02
người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 03 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Ngoài ra, hành vi phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn là tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
Tuy nhiên, ta cần lưu ý nếu người phạm tội phạm một trong hai tội nêu trên quy định
tại Điều 126 và 136 Bộ luật Hình sự thì hành vi này không được coi là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự nữa (căn cứ Khoản 3 Điều 51).
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định
khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Bên cạnh chế tài hình sự, người vượt quá giới hạn phòng vệ còn phải bồi thường thiệt
hại dân sự. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy địnhtạiĐiều 594 Bộ luật Dân sự
2015 như sau:.
Điều 594. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một
trường hợp đặc biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thiệt hại này
xảy ra có thể nằm ngoài, nhưng cũng có thể nằm trong ý chí của người phòng vệ. Do
đó, nó có thể là thiệt hại vật chất, mà cũng có thể là thiệt hại tinh thần. Đối với thiệt hại
vật chất đòi hỏi phải tính toán được tương đương với một số tiền xác định. Còn đối với

thiệt hại tinh thần thì thật khó để có thể tính toán và định lượng được bằng tiền một cách
rõ ràng.


=> Do vậy, Tòa án khi đánh giá thiệt hại và định mức bồi thường trong trường hợp này
phải thật sự cân nhắc kĩ càng, xem xét và nhìn nhận một cách khách quan,không thể suy
diễn chủ quan, cũng như không thể quy kết hoàn toàn trách nhiệm lên người vượt quá
giới hạn. Bởi suy cho cùng, hành vi của họ mục đích ban đầu cũng chỉ để ngăn chặn
một hành vi nguy hiểm cho xã hội khác song do sự tính toán sai lầm mà có sự chống trả
quá mức cần thiết mà pháp luật cho phép.
B, Theo bản án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “ cố ý gây thương tích do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng “ Theo Khoản 1 Điều 106 BLHS 1999. Anh/ chị
cho quan điểm về việc xác định vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng của Tòa án cấp
sơ thẩm ?
- Theo Khoản 1 Điều 106 BLHS 1999 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến một năm.”
=> Trong vụ việc trên, bị cáo Hồ Văn T đã cố ý gây thương tích 83% đối với anh Trần
T1 và làm anh Nguyễn Trường S tử vong. Áp dụng K1 Đ106 BLHS 1999 của Tòa Án là
đúng.
=> Không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b,s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51
BLHS 2015 đối với bị cáo Hồ Văn T
Câu 5:
A Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án
căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.
Hội đồng xét xử sẽ quyết định hình phạt dựa vào các yếu tố sau:
 Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Dấu hiệu này được thể
hiện qua động cơ phạm tội, yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, hung khí sử dụng khi phạm tội…..
 Nhân thân người phạm tội, yếu tố này được xem xét thông qua việc người phạm tội đã từng
phạm tội hay chưa? Ý thức chấp hành các quy định của pháp luật


 Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ được áp dụng theo quy định
tại điều 51, điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên những tình tiết này nếu đã được
coi là tình tiết xác định tội, định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ.
Như vậy tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, bị cáo cần dựa vào 3 yếu tố chủ yếu ở trên để phản
biện lại ý kiến của Đại diện viện kiểm sát… cũng như nêu quan điểm ý kiến trước Hội đồng xét
xử để đảm bảo quyền lợi cho mình.
B, Phân tích các căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm trong vụ án trên.

Theo bản án trên có thể thấy tòa án nhân dân cấp sơ thâm đã căn cứ vào BLHS năm
2015 và năm 1999 để xác quyết định hình phạt tội phạm. Dựa vào tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đối với tội “Giết người”, hành vi của Hồ Văn T
không thuộc các trường hợp tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015.
Vì vậy trong trường hợp này, hành vi của Hồ Văn T có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội là rất lớn dân đến việc Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 123 BLHS năm 2015.
Đối với tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”, trong
trường này, hành vi của Hồ Văn T có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không
lớn. Ngoài ra còn căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tòa
án căn cứ vào điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 để áp dụng với bị
cáo Hồ Văn T.
C, Theo em có thể áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội trong trường hợp vượt

quá giới hạn phòng vệ chính đáng” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 51 BLHS 2015
để quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ đối với tội “Cố ý gây thương tích do vượt
quá giới hạn của phòng vệ chính đáng” của bị cáo
Vì: hành động của anh Hồ Văn T chỉ là thủ dao để bảo vệ bản thân. Sau khi bị Trần T1,
Trần Văn Q và Nguyễn Thành T2 đánh lần 1, Hồ Văn T mới rút con dao bấm trong túi
ra và nói rõ:” Tụi bay mà đánh tau nữa là tau đâm đó”. Sau khi nghe vậy, Trần T1 còn
cố ý lao vào với mục đích đánh Hồ Văn T nên Hồ Văn T mới đâm dao trúng bụng. Qua
hành vi của Hồ Văn T ta thấy hành vi đó chỉ là muốn phòng vệ bản thân chứ k có muchj
đích gây thương tích.. Do đó hành vi phạm tội của Hồ Văn T là Phạm tội trong trường
hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
D Theo em có thể có thể sửa quyết định hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm đối với tội
“Giết người” theo hướng tăng nặng hình phạt do có tình tiết tăng nặng “có tính chất côn
đồ”.
Vì: Hồ Văn T đã ra xe máy lấy dao bấm để thủ trong người, rồi đâm anh Trần T1trungs
vào vùng bụng, anh Trường S ra can ngăn mà Hồ Văn T đâm trúng vùng lưng và bụng
của anh S, vùng lưng, vùng bụng là nơi rất nguy hiểm, hơn nữa Hồ Văn T còn đâm ngập
dao vào vụng bụng anh S rồi mới rút ra thể hiện ý chí muốn triệt hạ mục tiêu của Hồ
Văn T. Chứng minh hành động của Hồ văn T có tính chất côn đồ
- Áp dụng điểm n, khoản 1, điều 12, BLHS 2015 ( sửa đội bổ sung năm 2017) xử phạt
bị cáo Hồ Văn T 17 năm tù giam về tội giết người.
- Áp dụng khoản 1 điều 106 của bộ luật hình sự 1999 ( sửa đội bổ sung năm 2009), áp
dụng điểm c khoản 1, điều 51, BLHS 2015, xử phạt bị cáo Hồ Văn T 8 tháng tù giam.
- Áp dụng khoản 1 điều 55 BLHS 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017) tổng hợp mức án
đối với Hồ Văn T là 17 năm 8 tháng tù giam.


e. Giả sử bị cáo là người 17 tuổi, căn cứ và quyết định hình phạt của Tòa án cấp sơ
thẩm, thì mức phạt là 8 năm 7 tháng tù.

C. Phần kết luận



Qua thực hiện nghiên cứu vụ án trên nhóm chúng em thêm được những kiến thức mới
trong môn Luật Hình Sự Việt Nam 1 và củng cố những kiến thức đã học. Nhóm chúng
em rất mong các thầy nhận xét, đánh giá bài của nhóm, để nhóm biết được khuyết điểm
và rút kinh nghiệm cho những bài sau.




×