Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề tài: Tế bào gốc, tế bào mầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.55 KB, 23 trang )

CÔNG NGHỆ SINH HỌC

Đề Tài :

Tế Bào Gốc - Tế
Bào Mầm

Người Hướng Dẫn : Pgs. Ts Nguyễn Bá Lộc
Người Thực Hiện : Phạm Văn Thương KXX – Động Vật Học
Huế, tháng 4 - 2012
1


MỤC LỤC
I.tổng quan về tế bào gốc ..................................................................................3
1.1 khái niêm tế bào gốc.....................................................................................3
1.2 lược sử hình thành........................................................................................3
1.3 phân loại tế bào gốc......................................................................................5
II.một số ứng dụng của tế bào gốc....................................................................8
2.1 Ghép tế bào gốc trị liệu (stem cell therapy): ...............................................8
2.2 Công nghệ mô (tissue engineering) ...........................................................9
2.3 Các ứng dụng tế bào gốc phôi không liên quan đến ghép..........................10
2.4 Tế bào gốc tạo máu......................................................................................11
2.5 Các nguồn lấy tế bào gốc tạo máu:..............................................................12
2.6 Các ứng dụng lâm sàng của tế bào gốc tạo máu.........................................12
2.7 Điều trị các bệnh lý ở cơ quan khác (nhồi máu cơ tim, Parkinson…).......13
III. nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc...................................................................13
1. Thành phần môi trường...........................................................................13
2. Kỹ thuật nuôi cấy.......................................................................................13
3 .Một số quy trình thu nhận và nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc................15
3.1 Thu nhận và nuôi cấy tế bào gốc từ tủy xương chuột.........................15


3.2 Quy trình thu nhận tế bào gốc từ máu cuống rốn...............................16
3.3 Nghiên cứu nuôi cấy, biệt hóa tế bào gốc sinh tinh từ bệnh nhân
azoospermia ................................................................................................16
3.4 Thu nhận và biệt hóa tế bào gốc trung mô từ cuống dốn của người .20
3.5 Giai đoạn 2, nuôi cấy thứ cấp: cấy chuyền tăng sinh MSC ...............21
3.6.Biệt hoá MSC .......................................................................................21
3.7 .Biệt hóa MSC thành tế bào tạo mỡ (adipocyte)..................................21
3.8 Biệt hoá MSC thành nguyên bào xương (Osteoblast)........................22
IV kết luận .........................................................................................................22
Tài liệu tham khảo:.............................................................................................23

2


I.tổng quan về tế bào gốc
1.1 khái niêm tế bào gốc
Tế bào gốc là tế bào có khả năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau
trong cơ thể. Là một công cụ trong "hệ thống sửa chữa" của cơ thể, khi được
đưa vào các bộ phận khác nhau, tế bào gốc có thể phân chia không giới hạn để
lấp đầy những thiếu hụt tế bào của bộ phận đó chừng nào cơ thể còn sống. Tế
bào gốc có thể trở thành tế bào cơ, hồng huyết cầu, tế bào não...
Tế bào gốc có 2 đặc điểm quan trọng tạo nên sự khác biệt với các loại tế bào
khác. Thứ nhất, tế bào gốc là loại tế bào không chuyên dụng nên có thể tự tái
tạo trong một thời gian dài nhờ quá trình phân chia. Thứ hai, trong môi trường
sinh lý hoặc thí nghiệm nhất định, tế bào gốc có thể biến đổi trở thành tế bào
chuyên dụng như tế bào gây đập của cơ tim hoặc tế bào sản sinh insulin của
tuyến tụy.
1.2 lược sử hình thành
Các tế bào gốc được tìm thấy trong cơ thể của mọi sinh vật sống. Những tế
bào này làm phát sinh các tế bào mà nhiều người khác phân biệt thành các loại

tế bào đặc biệt. Năm 1960, Ernest A. McCulloch và James E. Till cho thấy hai
loại tế bào gốc động vật có vú. Tế bào gốc phôi được tách ra từ khối tế bào
của blastocysts, trong khi các tế bào gốc người lớn được tìm thấy trong các
mô chỉ dành cho người lớn
Trong phôi thai đang phát triển, các tế bào gốc, được thừa kế, biệt hóa thành
các mô phôi thai. Trong khi người lớn tế bào gốc giúp sửa chữa các bộ phận
của cơ thể bên cạnh tiền thân. Vai trò cơ bản của tế bào gốc người lớn là để
sản xuất một hệ thống sửa chữa, bổ sung các tế bào đặc biệt và duy trì năng
suất của các cơ quan được tái sinh trong tự nhiên.
Các tế bào gốc trưởng thành và thay đổi thành tế bào chuyên giúp cho việc tạo
ra các tế bào của cơ bắp khác nhau và các mô thần kinh. Tủy xương và máu
dây rốn được sử dụng trong liệu pháp tế bào gốc người lớn đàn hồi.
Trong những năm 1800, các chuyên gia y tế đến để biết rằng một số tế bào có
thể tạo ra các tế bào khác và trong những năm 1900, nó đã chứng minh rằng tế
bào gốc có thể tạo ra tế bào máu, ngay cả. Các chuyên gia cấy ghép tủy xương
3


vào một bệnh nhân có bệnh bạch cầu. Mặc dù, nó đã không thành công nhưng
nó thúc đẩy các chuyên gia để thực hiện cấy ghép thành công tủy xương ở
người. Nó đã được thực hiện tại Pháp vào những năm 1950. Jean Dausset nói
rằng các protein trên bề mặt của tế bào đã được bạch cầu hoặc kháng nguyên
HLA. Với sự trợ giúp của kháng nguyên HLA, hệ thống miễn dịch xác định
tình trạng lành mạnh của các tế bào và đồ đạc của họ. Trong thập niên 1960,
cấy ghép các tế bào đã được thực hiện giữa anh chị em ruột. Sau này, các quốc
gia Organ Transplant Act năm 1984 và quốc gia tài trợ Chương trình tủy thực
hiện nó. Hơn 16.000 cấy ghép được thực hiện trong thời gian này, và nó đã
được tìm thấy nó chữa các bệnh như immunodeficiencies, dể băng huyết bệnh
bạch cầu và ung thư máu hoặc.
Tuy nhiên, nhiều câu hỏi cũng được nâng lên về tế bào gốc, đặc biệt là ưu và

nhược điểm của họ.
Các tế bào gốc là những tế bào không chuyên mà làm phát sinh các tế bào
nhiều chuyên ngành. Những tế bào từ phôi thai hoặc thai nhi được coi là tốt
nhất vì chúng làm tăng mức độ thành công so với các tế bào gốc lấy từ trẻ em
hoặc người lớn. Tuy nhiên, các tế bào gốc ở người lớn có thể được nhận từ tủy
xương. Những tế bào gốc được cấy ghép vào bệnh nhân và tạo thuận lợi cho
sản xuất các loại tế bào máu. Nó được xem là tốt nhất trong trường hợp bệnh
bạch cầu, các loại ung thư hạch được lựa chọn, thiếu máu Aplastic,
thalassemia, thiếu máu tế bào hình liềm, và các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh
nhất định hoặc suy giảm miễn dịch như bệnh granulomatous mãn tính.
Người có tủy xương có một lỗi do bất cứ lý do cũng có thể được cấy ghép với
các tế bào gốc. Nó cũng rất hữu ích trong điều trị các bệnh như Parkinson và
Alzheimer.
Các tế bào gốc của chính người được sử dụng, nó được gọi là cấy ghép
autologus và khi các tế bào gốc được lấy từ một người nào khác, nó được gọi
là cấy ghép allogeneic. Trong autologus, tế bào gốc được thu thập trước khi
hóa trị liệu là điều trị có thể thiệt hại các tế bào. Sau khi điều trị, họ lại tiêm
vào cơ thể. Trong trường hợp cấy ghép tủy xương, các nhà tài trợ được tiêm
một tủy gây mê và sau đó được lấy ra từ xương hông với sự giúp đỡ của các
ống tiêm. Quá trình này mất gần một giờ.
Trong allogenic, tế bào gốc có thể được thu được từ máu. Người được tặng
được cho một loại thuốc mà bản tế bào gốc vào mạch máu và sau đó với sự
giúp đỡ của ống thông máu được lấy ra khỏi cánh tay. Những tế bào gốc chiết

4


xuất này sau đó được tiêm vào tĩnh mạch của người nhận và họ giúp đỡ trong
nhân tế bào máu. Nó mất khoảng 2-4 giờ sáu phiên trong quá trình 1-2 tuần.
Tuy nhiên, các tế bào gốc cũng có thể được bảo quản bằng đông lạnh để sử

dụng sau này.
Cấy ghép tế bào gốc là nguy hiểm từ điểm nhìn của nhiễm trùng. Các vấn đề
của tham nhũng-so-host bệnh trong đó các tế bào thu được tấn công các tế bào
của bệnh nhân cũng tồn tại. Tuy nhiên, nó có thể tránh được đến mức độ nào
đó bằng cách duy trì vệ sinh xung quanh bệnh nhân. Bệnh nhân chủ yếu là ở
lại bệnh viện khoảng 1-2 tháng. Sau khi nhận được thải ra, họ nên đến các bác
sĩ cho kiểm tra thường xuyên.
Thống kê của cấy ghép tế bào gốc cho thấy tám triệu người trên toàn cầu và
bốn triệu người ở Mỹ đã đăng ký bản thân như các nhà tài trợ cho các tế bào
gốc.
1.3 phân loại tế bào gốc
Chúng ta có thể phân loại và gọi tên “tế bào gốc”theo một số cách sau.
a. Theo tiềm năng biệt hóa:
- Tế bào toàn năng(totipotent cell):hợp tử, hay Blastomere
Là tế bào có khả năng phân chia và biệt hoá thành tất cả các tể bào của cơ thể,
có khả năng biệt hoá thành cơ thể hoàn chỉnh.

Vd:

-Một cành cây có
thể phát triển
thành một cây
hoán chỉnh.
-Ở người,Tinh trùng thụ tinh với trứng tạo thành một totipotent cell(hợp
tử),vài giờ đầu sau khi thụ tinh , tế bào này phân chia tạo thành những
totipotent giống hệt nhau.
5


_ Tế bào Vạn năng(Pluripotent cell): khối tế bào bên trong của Blastocyst

Là tể bào có khả năng bịêt hoá thành tẩt cả các tể bào ngoại trừ tế bào phôi.
_ Tế bào đa năng (multipotent): Tế bào gốc tạo máu
Tương tự như tế bào Vạn năng, thật sự khó có cơ chế chính xác phân biểt hai
loại tế bào này
_ Ngoài ra còn có một số tế bào gốc vài năng , cũng như đơn năng
vd : tế bào gốc tuỷ xương tạo ra các loại tế bào máu.
Cơ chất dưỡng bào( Mast cell precursor) chỉ bịêt hoá cho ra dưỡng bào.

b. Theo nguồn gốc :
_ Tế bào gốc phôi( Embryonic stem cell): được thu nhận từ phôi giai đọan
blastocyst. Chúng là khối tế bào bên trong của Blastocyst còn gọi là lớp sinh
khối bên trong(ICM_Inner mass cell).
Nó tương ứng với tế bào vạn năng theo cách phân loại( 1)
_ Tế bào mầm(Embryonic germ cell):
Là những tế baò gốc được thu nhận từ rãnh sinh dục, vị trí là tiển thân của cơ
quan sinh dục sau này, các tế bào này được chứng minh là vạn năng.
_ Tế bào khối u(Embryonic carcinomas): Được thu nhận từ khối u trong tinh
hoàn và buồng trứng của chuột, những tế bào này được nuôi cấy nhưng những
tế bào gốc phôi.
_ Tế bào gốc trưởng thành : chỉ chung những loại tế bào chưa chuyên hoá,
được tìm thấy trong những mô ở cơ thể trưởng thành, có thể tự đổi mới và biệt
hoá thành những tế bào chuyên biệt từ nguồn gốc của nó.
Những tế bào loại này được đặt tên theo nơi hiện diện: tế bào gốc tuỷ xương,
tế bào gốc biểu bì,…
6


c. Theo kiểu biệt hoá:
Vd: tế bào gốc cơ tim là tế bào sẽ biệt hoá thành tế bào cơ tim, tế bào gốc
xương là những tế bào biệt hoá thành những tế bào xương,…

Nhưng có một số tác giả cho rằng cách gọi tên này không thật hợp lí vì các tế
bào trên( theo họ) là những tế bào tiền thân( progeneotor cell) hay cơ
chất( pecuor cell) không phảỉ là những tế bào gốc thực thụ.
Nhưng nếu theo cách phân loại theo tiềm năng biệt hóa thì ta cũng có thể xem
những tế bào này là những tế bào gốc một năng(unipotent cell).
Vậy thật sự tế bào mầm là một trong những loại tế bào gốc , xét về tiềm năng
biệt hoá nó không khác gì tế bào gốc phôi(đều là pluripotent cell)
 Phân biệt tế bào mầm (Embryonic germ cells) và tế bào gốc
(Embryonic stem cells)
Tế bào mầm là một trong những loại tế bào gốc, xét về tiềm năng biệt hoá nó
không khác gì tế bào gốc phôi (đều là tế bào gốc đa năng (Pluripotent cells).
Tế bào mầm (Germ Cells) là khái niệm để chỉ các tế bào thuộc dòng sinh dục
(Germline).
Tế bào gốc phôi (Embryonic stem cells) và tế bào mầm phôi (Embryonic germ
cells) thì khác nhau ở nơi thu nhận và kiểu tế bào biệt hoá.
Thứ nhất, về nơi thu nhận, tế bào gốc phôi được thu nhận ở phôi từ giai đoạn
phôi nang (blastocyst) trở về trước còn tế bào mầm phôi được thu nhận từ
rãnh sinh dục của phôi (genital ridge).
Thứ hai, về kiểu tế bào biệt hóa thì tế bào gốc phôi sẽ biệt hóa thành 3 lớp
phôi (germ layers) và biệt hóa thành hơn 200 loại tế bào của cơ thể trừ các tế
bào nhau thai và cuống rốn. Còn tế bào mầm phôi thì sẽ biệt hóa thành các tế
bào sinh dục.

7


II.một số ứng dụng của tế bào gốc
2.1 Ghép tế bào gốc trị liệu (stem cell therapy):
Là dùng tế bào gốc để thay thế, sửa chữa các phần cơ thể bị bệnh và tổn
thương bằng các tế bào mới khỏe mạnh. Kỹ thuật này còn được gọi là kỹ

thuật ghép tế bào trị liệu (cell transplantation therapy) hay kỹ thuật thay thế
tế bào trị liệu (cell replacement therapy).
2.1.1 Quy trình ứng dụng tế bào gốc trị liệu bao gồm các khâu sau:
- Sản xuất dòng tế bào gốc:
+ Thu tế bào gốc: từ phôi hoặc từ tổ chức trưởng thành.
+ Nuôi cấy các tế bào gốc này trong labo nhằm nhân lên về mặt số lượng.
- Với tế bào gốc phôi, cần nuôi cấy nhân tạo trong các điều kiện môi trường lý
hóa thích hợp để định hướng biệt hóa thành các tế bào mong muốn.
- Ghép tế bào gốc, đưa các tế bào gốc này vào các khu vực tổn thương cần sửa
chữa.
2.1.2 Ứng dụng tế bào gốc trưởng thành trong điều trị:
Trên lâm sàng, tế bào gốc trưởng thành đã được sử dụng trong điều trị các
bệnh tự miễn, tai biến mạch máu não, suy giảm miễn dịch, thiếu máu, nhiễm
Estein-barr virus, tổn thương giác mạc, các bệnh máu và bệnh gan, tạo xương
không hoàn chỉnh, tổn thương tủy sống, liền vết thương da, điều trị ung thư
(kết hợp với hóa chất và tia xạ), u não, u nguyên bào võng mạc, ung thư
buồng trứng, các khối u đặc, ung thư tinh hoàn, đa u tủy, lơ-xê-mi, ung thư vú,
u nguyên bào thần kinh, u lympho Non-Hodgkin, carcinoma tế bào thận, tái
tạo cơ tim sau cơn đau tim, đái đường type I, tổn thương xương và sụn, bệnh
Parki
2.1.3 Ứng dụng tế bào gốc phôi trong điều trị
Tuy có nhiều triển vọng, hiện nay các tế bào gốc phôi chưa được dùng trong tế
bào gốc trị liệu trên người. Các bệnh có thể được điều trị bằng ghép các tế bào
có nguồn gốc từ tế bào gốc phôi người bao gồm bệnh Parkinson, đái đường,
chấn thương tủy sống, suy tim… Vấn đề là khi điều trị cho các bệnh này yêu
cầu các tế bào gốc phôi phải được định hướng biệt hóa thành các chủng loại tế
bào đặc thù trước khi ghép.
Một ưu điểm của dùng tế bào gốc phôi so với tế bào gốc trưởng thành là các tế
bào gốc phôi có khả năng tăng sinh không giới hạn trên in vitro và có khả
8



năng sinh ra nhiều chủng loại tế bào hơn khi được định hướng biệt hóa. Ưu
thế này sẽ tăng lên nếu như trong quá trình ghép tế bào/mô, các tế bào gốc
phôi không gây kích hoạt quá trình thải ghép do miễn dịch. Có thể tránh tính
sinh miễn dịch của các tế bào phát triển từ tế bào gốc phôi người bằng chuyển
gen cơ thể nhận vào các tế bào gốc phôi làm cho chúng mang các phân tử
kháng nguyên hòa hợp tổ chức (MHC) lớp I của cơ thể nhận, hoặc bằng kỹ
thuật chuyển nhân để tạo ra các tế bào gốc phôi đồng nhất về gen với người
nhận mô ghép.
Nhược điểm của dùng tế bào gốc phôi cho ghép trị liệu là dễ hình thành các
khối u teratoma. Điều này làm cho tế bào gốc phôi chưa được sử dụng trong
ghép tế bào gốc trị liệu trên lâm sàng. Hiện đã có một số phương pháp nhằm
loại bỏ các tế bào gốc phôi không biệt hóa trước khi ghép cho phép có thể
tránh việc hình thành các khối u teratoma trên cơ thể nhận.
2.2 Công nghệ mô (tissue engineering)
Có thể coi công nghệ
mô là một ứng dụng của
tế bào gốc trị liệu. Các
tiến bộ gần đây trong
nghiên cứu công nghệ
mô và tế bào gốc cho
thấy có thể thiết lập tế
bào thành các cấu trúc
không gian ba chiều
dùng để sửa chữa mô
tổn thương. Sửa chữa tổ
chức bằng công nghệ
mô có thể được thực
hiện bằng cách nuôi cấy

tế bào gốc và sau đó
ghép vào mô tổn
thương.
Trong công nghệ mô có thể sử dụng tế bào gốc trưởng thành để phát triển
thành mô ghép hoặc có thể dùng tế bào gốc phôi tạo ra trong kỹ thuật nhân
bản phôi vô tính để sản xuất ra các mô ghép phù hợp về mặt miễn dịch (sơ đồ
B). Một hướng khác có khả năng tạo ra mô ghép phù hợp với bệnh nhân từ
nguồn tế bào gốc phôi là dùng kỹ thuật chỉnh sửa gen mã hóa phân tử hòa hợp
tổ chức chính (MHC) (sơ đồ A)

9


2.3

Các ứng dụng tế bào gốc phôi không liên quan đến ghép:
Các ứng dụng không liên quan đến ghép chủ yếu được thực hiện trên tế bào gốc
phôi. Có thể kể đến một số ứng dụng sau:
- Nghiên cứu những sự kiện sớm xảy ra trong quá trình phát triển phôi thai
người như các nguyên nhân có thể gây sinh ra trẻ dị tật bẩm sinh và các bất
thường nhau thai dẫn đến sảy thai.
- Khám phá ảnh hưởng của các bất thường chrosome trong giai đoạn sớm của
quá trình phát triển. Ảnh hưởng này có thể là sự hình thành sớm các khối u ở trẻ
em mà qua nghiên cứu người ta thấy rằng các tế bào khối u này chủ yếu có
nguồn gốc từ phôi.
- Thử nghiệm các thuốc điều trị. Hiện nay trước khi thử một thuốc mới trên
người tình nguyện, thuốc đó phải được qua thử nghiệm tiền lâm sàng. Trong thử
nghiệm tiền lâm sàng có sàng lọc thuốc trên các mô hình động vật – ví dụ các thử
nghiệm trên in vitro có dùng tế bào chuột, hoặc các thử nghiệm in vivo liên quan
đến việc đánh giá độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của thuốc. Mặc dù các

nghiên cứu dược lấy phương pháp thử nghiệm trên các mô hình động vật làm căn
bản, biện pháp này không phải lúc nào cũng cho phép phỏng đoán chính xác các
tác dụng có thể có của thuốc trên các tế bào người. Vì lý do này việc nuôi cấy tế
bào người thường được sử dụng trong các thử nghiệm tiền lâm sàng. Các dòng tế
bào người này thường được duy trì in vitro trong thời gian dài và như vậy thường
mang các đặc tính biệt hóa hơn các tế bào trong cơ thể. Các khác biệt này có thể
gây khó khăn trong việc phỏng đoán tác dụng của thuốc trong cơ thể nếu chỉ dựa
trên các đáp ứng của các dòng tế bào người trên in vitro. Chính vậy nếu các tế
bào gốc phôi có thể được định hướng biệt hóa thành các loại tế bào đặc thù cho
sàng lọc thuốc, các tế bào đặc thù này có lẽ sẽ mô phỏng tốt hơn đáp ứng của các
tế bào/mô trong cơ thể với thuốc và như vậy cũng cung cấp các mô hình sàng lọc
thuốc an toàn, kinh tế và hiệu quả hơn.
- Sàng lọc các chất có khả năng gây độc. Lý do sử dụng tế bào gốc phôi người
trong sàng lọc độc chất cũng giống như lý do dùng chúng vào việc thử thuốc như
đã nêu trên. Độc chất thường có tác dụng khác nhau trên các loài động vật khác
nhau, điều này nói lên tầm quan trọng cần có các mô hình in vitro phù hợp nhất
cho đánh giá tác dụng của độc chất trên các tế bào người.
- Nghiên cứu các phương pháp mới về công nghệ gen (genetic engineering).
Hiện tại việc chỉnh sửa gen cho các tế bào gốc phôi chuột trên in vitro có thể
được thực hiện một cách dễ dàng nhờ các kỹ thuật như kỹ thuật tái tổ hợp gen.
Đây là một phương pháp thay thế hoặc thêm các đoạn gen, bằng cách này các
phân tử DNA mong muốn được đưa vào bộ gen và sau đó đặc tính được biểu
hiện. Dùng phương pháp này có thể đưa vào dòng tế bào gốc phôi các gen định
hướng tế bào gốc phôi biệt hóa thành các tế bào đặc thù hoặc các gen giúp cho
10


tế bào bộc lộ các sản phẩm protein mong muốn. Về cơ bản, nếu các kỹ thuật đó
có thể phát triển với các tế bào gốc phôi người, nó có lẽ là cuộc cách mạng
trong công nghệ gen và tế bào gốc trị liệu.

2.4 Tế bào gốc tạo máu
Tế bào gốc tạo máu được xếp vào loại tế bào gốc trưởng thành. Đây là các tế bào
được tách ra từ máu hoặc tủy xương, chúng có khả năng tự tái tạo (self renew), có thể
biệt hóa thành các tế bào đặc thù, có thể di chuyển từ tủy xương vào máu, và có thể trải
qua quá trình apoptosis để loại bỏ đi các tế bào không cần thiết.
Các nghiên cứu cơ bản về tế bào gốc tạo máu nở rộ vào những năm 1960.
Trong thời gian này các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy có hai loại tế bào gốc
tạo máu. Hai loại này về thực chất chính là hai giai đoạn biệt hóa khác nhau của
tế bào gốc tạo máu:
- Các tế bào gốc tạo máu dài hạn (long-term hematopoietic stem cells): đây là các tế
bào gốc tạo máu ít biệt hóa hơn, nói cách khác là “non” hơn, có khả năng tự tái tạo và
tính đa năng cao. Trên thực nghiệm các tế bào này có thể khôi phục hoàn toàn chức
năng tạo máu của chuột bị chiếu xạ liều chí tử sau vài tháng. Một ví dụ về tế bào gốc
tạo máu dài hạn là các tế bào gốc tạo máu mang CD34+, tế bào này có thể biệt hóa
thành tất cả các chủng loại tế bào máu khác nhau. Trong điều kiện bình thường, các tế
bào gốc tạo máu dài hạn có khả năng tự tái tạo trong suốt đời sống cá thể. Hiện nay
thuật ngữ “tế bào gốc tạo máu” thường được dùng để đề cập tới loại tế bào gốc tạo máu
dài hạn này.
- Các tế bào định hướng/tiền thân ngắn hạn (short-term progenitor or precursor cell):
đây là các tế bào tạo máu đã khá trưởng thành, không mang CD34, là tiền thân của các
tế bào đã biệt hóa đầy đủ của cùng một loại dòng tế bào máu, ví dụ tế bào định hướng
dòng hồng cầu, tế bào định hướng dòng lympho, mẫu tiểu cầu…. Các tế bào định
hướng/tiền thân ngắn hạn cũng có khả năng tăng sinh, biệt hóa thành các tế bào máu
nhưng so với các tế bào gốc tạo máu dài hạn chúng có giới hạn về tính đa năng. Ví dụ
một tế bào tiền thân hồng cầu có lẽ chỉ có thể tạo thành một tế bào hồng cầu.

11


2.5 Các nguồn lấy tế bào gốc tạo máu:

Tủy xương: Là nguồn truyền thống để lấy tế bào gốc tạo máu. Người
hiến tế bào gốc được gây mê, chọc và hút tủy xương ở vùng xương chậu. Mật
độ tế bào gốc trong tủy xương không nhiều, trung bình trong 100,000 tế bào tủy
xương có một tế bào gốc tạo máu, các tế bào khác là tế bào thân, tế bào gốc
thân, tế bào định hướng dòng máu và các tế bào hồng cầu, bạch cầu trưởng
thành
Máu ngoại vi: Là một nguồn lấy tế bào gốc tạo máu dùng cho điều trị.
Với mục đích ghép tế bào gốc tạo máu trên lâm sàng, vì lý do an toàn và sự
thuận lợi của kỹ thuật, lấy tế bào gốc tạo máu từ máu ngoại vi thường được
thực hiện nhiều hơn lấy từ tủy xương. Bình thường trong máu ngoại vi chỉ có
một lượng ít tế bào gốc tạo máu và tế bào máu tiền thân. Để huy động các tế
bào này từ tủy xương vào máu, cần tiêm cho người hiến tế bào gốc các cytokine
như yếu tố kích thích quần thể tế bào hạt (G-CSF) vài ngày trước khi thu tế bào
gốc. Thu tế bào gốc tạo máu được thực hiện bằng cách đưa một ống vào trong
ven người cho và cho dòng máu đi qua một hệ thống lọc, hệ thống này cho phép
lấy ra các tế bào CD34+ và đưa trở lại cơ thể các tế bào máu khác. Khoảng 520% lượng tế bào CD34+ thu được là tế bào gốc tạo máu thực sự, số còn lại là
các tế bào máu tiền thân, các bạch cầu ở những giai đoạn trưởng thành khác
nhau.
Cuống rốn: Từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 các nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra máu cuống rốn và máu nhau thai là những nguồn
giầu tế bào gốc tạo máu. Đến nay ghép máu cuống rốn đã có ứng dụng rộng rãi
trong điều trị bệnh máu ác tính.
Các tế bào gốc phôi hoặc tế bào mầm phôi: Trong tương lai, khi ứng
dụng của các tế bào gốc phôi trở nên rộng rãi, đây cũng sẽ là nguồn quan trong
để lấy tế bào gốc tạo máu.
- Hệ thống tạo huyết thai nhi (gan, lách thai): Là một nguồn tế bào gốc tạo
máu quan trọng cho nghiên cứu nhưng không phải cho sử dụng lâm sàng.

2.6 Các ứng dụng lâm sàng của tế bào gốc tạo máu
a . Điều trị bệnh lơ-xê-mi và u lympho:

Các tế bào gốc tạo máu (bị ung thư) của bệnh nhân được phá hủy bởi tia xạ
và hóa chất và được thay thế bằng ghép tủy xương hoặc bằng ghép tế bào gốc
12


tạo máu lấy từ máu ngoại vi của một người cho phù hợp. Người cho phù hợp
thường là anh, chị, em của bệnh nhân, những người này được thừa hưởng
kháng nguyên hòa hợp tổ chức tương tự bệnh nhân, do đó có thể giảm thiểu
phản ứng thải mô ghép hoặc phản ứng ghép chống chủ.
b. Điều trị các rối loạn máu bẩm sinh bao gồm thiếu máu bất sản, betathalassemia, hội chứng Blackfan-Diamon, thiếu máu hồng cầu liềm…
c. Dùng tế bào gốc tạo máu cứu nguy cho các trường hợp hóa trị liệu và xạ trị liệu
trong điều trị ung thư.
Biện pháp này còn được gọi là ghép tế bào gốc tự thân. Với mục đích này tế bào
gốc được huy động từ tủy xương vào máu rồi được thu giữ, bảo quản trong khi
bệnh nhân được điều trị hóa chất hoặc tia xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư. Khi cơ
thể bệnh nhân đã thanh lọc hết hóa chất/tia xạ, bệnh nhân được nhận lại tế bào gốc
tạo máu của chính mình. Với biện pháp điều trị này không có vấn đề bất đồng miễn
dịch dẫn đến thải ghép hoặc phản ứng mảnh ghép chống túc chủ. Tuy nhiên vấn đề
của ghép tế bào gốc tự thân là đôi khi các tế bào ung thư vô tình được thu gom và
truyền trở lại cho bệnh nhân cùng với tế bào gốc. Hiện nay có một số kỹ thuật mới
phát minh cho phép tránh được điều này bằng cách tách tinh khiết và chỉ bảo quản
các tế bào có CD34+, Thy-1+.
2.7 Điều trị các bệnh lý ở cơ quan khác (nhồi máu cơ tim, Parkinson…):
Các nghiên cứu mới đây trên mô hình động vật và một số thử nghiệm lâm
sàng cho thấy có thể dùng tế bào gốc tạo máu tiêm trực tiếp vào vùng tổn
thương tim để tái tạo lại mô cơ tim và mạch máu tổn thương trong nhồi máu
cơ tim cũng như có thể tiêm tế bào gốc tạo máu để điều trị bệnh Parkinson.
Các nghiên cứu theo hướng này dựa vào khả năng “mềm dẻo” của tế bào gốc
tạo máu và gợi mở một tiềm năng ứng dụng mới của tế bào gốc tạo máu.


III. nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc
1. Thành phần môi trường
• Muối vô cơ
• Carbohydrate, acid béo, amino acid
• Vitamine
• Yếu tố vi lượng
• Huyết thanh
2. Kỹ thuật nuôi cấy
2.1 Nuôi cấy sơ cấp : là quá trình nuôi cấy được thực hiện trực tiếp từ mảnh mô
ban đầu đến khi cấy chuyền lần thứ nhất.
13


• Nuôi cấy sơ cấp gồm các bước: thu nhận mô à tách rời các tế bào à nuôi
cấy tế bào
• Trong mô, các tế bào liên kết với nhau thành một khối thống nhất thông qua
các cầu nối gian bào. Tách các tế bào ra khỏi mô bằng cách phá bỏ những
cầu nối gian bào này. Các cầu nối này được phá hủy bằng hai cách:
• (1) Tác động cơ học: cắt nhuyễn mô, ép nhuyễn mô và tách bằng lọc tế bào.
• (2) Dùng enzyme phân hủy các cầu nối: cầu nối gian bào có bản chất là
protein, do đó các enzyme thủy phân protein được sử dụng để tách tế bào,
những enzyme thường được sử dụng như trypsin, collagenase,
chymotrypsin...
2.2 Nuôi cấy thứ cấp: là quá trình nuôi cấy được thực hiện sau lần cấy chuyền
đầu tiên.
Cấy chuyền để cung cấp các chất dinh dưỡng tươi và không gian phát triển
cho các dòng tế bào phát triển liên tục.
Cấy chuyền gồm các thao tác: loại bỏ môi trường cũ à rửa bình/đĩa nuôi à
tách các tế bào gốc bám vào đáy đĩa à pha loãng các tế bào gốc bằng môi
trường mới


14


3 .Một số quy trình thu nhận và nuôi cấy và biệt hóa tế bào gốc
3.1 Thu nhận và nuôi cấy tế bào gốc từ tủy xương chuột
Đùi chuột vừa được thu
nhận

Rửa bằng dung dịch PBS

Lóc bỏ phần cơ và thịt

Rửa lại bằng dung dịch
PBS
Thu nhận xương đùi chuột
Cắt bỏ hai đầu xương đùi
Rửa tủy xương bằng dung dịch D’MEM
và thu nhận huyền phù tế bào

bào
Nuôi tế bào trong dụng cụ nuôi phù hợp
Thay môi trường mới sau 24 giờ

15


3.2 Quy trình thu nhận tế bào gốc từ máu cuống rốn
Pha mẫu máu thu được với dung dịch PBS/2mM EDTA
theo tỉ lệ 1:1


Dùng pipette hút 15 ml dung dịch Ficoll_Hypaque
vào ống ly tâm 50ml

Rót nhẹ 30 ml hỗn hợp PBS và máu lên trên
lớp dung dịch Ficoll_Hypaque sao cho không
làm xáo động bề mặt Ficoll_Hypaque/mẫu
Ly tâm 30’ ở 1500v\phút,
nhiệt độ phòng
Tách tế bào đơn nhân ra từ pha giữa
Rửa 2-3 lần với
PBS/EDTA

Tái huyền phù tế bào trong môi trường
nuôi cấy
3.3 Nghiên cứu nuôi cấy, biệt hóa tế bào gốc sinh tinh từ bệnh nhân
azoospermia
* Phân lập các tế bào dòng tinh
- Các nghiên cứu phân lập các tế bào dòng tinh đã được nghiên cứu từ rất lâu.
Các nghiên cứu này được tiến hành ở trên cả người và trên động vật. Anna và cs,
1996 đã nghiên cứu và thành công quá trình phân lập các tế bào dòng tinh, đặc
16


biệt là tinh nguyên bào loại A. Quá trình được tiến hành như sau: Chuột Wistar 9
ngày tuổi, trọng lượng cơ thể từ 18-20g được chọn để lấy tinh hoàn. Tinh hoàn
được lấy và đặt trong môi trường MEM (minimum essential medium), có bổ sung
glutamine (2nM), HEPES (15mM), một số amino acid, penicillin (100IU/ml),
streptomycin (100mg/ml), gentamycin (50mg/ml). Sau khi loại bỏ màng trắng
của tinh hoàn, mô tinh hoàn được đưa vào dung dịch nuôi cấy có khoảng 0,05%

collagenase và dispase và 0,04mg/ml DNase, toàn bộ sản phẩm được đặt trong tủ
ấm, ở nhiệt độ 320C. Sau 10 phút các thành phần như mô liên kết được loại bỏ.
Sản phẩm lại tiếp tục được để trong tủ ấm trong 15 phút nhằm tách các tế bào
khỏi màng đáy. Sản phẩm lại tiếp tục cho vào môi trường nuôi cấy trong 20 phút,
có 0,5 U/ml heparinase III, 0,3 U/ml chondroitinase ABC, 0,5 mg/ml collagenase
IV. Sản phẩm thu được lại được lọc qua màng lọc có kích thước lỗ 70mm, sau đó
là 50mm. Sau khi rửa 2 lần, ly tâm 800 vòng/phút trong 30 phút, sản phẩm thu
được là các tế bào dòng tinh. Tác giả đã nuôi cấy các tế bào ở 32 0C, nồng độ CO2
là 5%.
- Hamra và cs, 2008 tiến hành phân lập các tế bào dòng tinh dựa vào nguyên
tắc: các tế bào thân ở tinh hoàn sẽ gắn chặt với nền collagen trong môi trường nuôi
cấy. Trong khi đó, các tế bào dòng tinh, trong môi trường nuôi cấy lại không có đặc
tính đó.
* Nuôi cấy tế bào dòng tinh
- Các nghiên cứu nuôi cấy các tế bào dòng tinh đã có từ rất lâu, Steinberger,
1970; Matte, 1971; Ghatnekar, 1974; Curtis, 1981 là những tác giả đầu tiên tiến
hành nuôi cấy các tế bào dòng tinh.
- Tuy vậy, nuôi cấy các tế bào dòng tinh chỉ thực sự có ý nghĩa từ sau những
năm 1990, khi kỹ thuật vi thao tác được áp dụng.
- Ngày nay nuôi cấy tế bào dòng tinh với 2 mục đích:



Biệt hóa các tế bào dòng tinh
Lựa chọn các tế bào khỏe mạnh

+ Đối với azoospermia không do tắc:
- Zhu, 1996; Liu, 1997; Balaban, 1999; Cremades, 1999 và Sousa, 2002,
nuôi cấy các tế bào dòng tinh thu được từ TESE và nhận thấy: sau 24h nuôi cấy
trong môi trường có FSH thì tỷ lệ di động và khả năng thụ tinh của tinh trùng tăng

lên.
17


- Aslam và Fishel, 1998; Tesarik, 1998; Cremades, 1999 đã nuôi cấy các tinh
tử của người có quá trình sinh tinh bình thường. Kết quả các tinh tử phát triển
nhanh với các biểu hiện: nhân tụ đặc lại, đuôi hình thành và phát triển.
- Terarik, 1998 nhận thấy sự có mặt của FSH và testosterone trong môi
trường nuôi cấy sẽ làm tăng nhanh tốc độ biệt hóa.
- Các nghiên cứu của Tesarik vào năm 1999 và 2000 cũng thu được kết quả
tương tự ở bệnh nhân azoospermia không do tắc.
- Năm 1999, đứa trẻ đầu tiên ra đời từ tinh tử nuôi cấy (Tesarik).
- Cho đến nay, có nhiều phương pháp nuôi cấy các tế bào dòng tinh khác
nhau. Tesarik, 2006 tiến hành nuôi cấy các tế bào dòng tinh cùng với các tế bào
Sertoli, trong điều kiện nhiệt độ từ 30-32 0C, cùng với các chất khác như FSH, LH.
Sousa, 2006 tiến hành nuôi cấy các tế bào dòng tinh sau khi phân lập và chọn lựa
dựa vào kỹ thuật vi thao tác. Một số các tác giả khác nuôi cấy các tế bào dòng tinh
cùng với tế bào Vero.
- Huleihel và cs, 2007 đã tiến hành nuôi cấy tinh nguyên bào cùng với tế bào
Sertoli, dung dịch nuôi cấy. Môi trường nuôi cấy ngoài các nội tiết tố còn bổ sung
các chất như GDNF (glial cell line derived neurotrophic factor), SCF (stem cell
factor), LIF (leukemia inhibitory factor). Kết quả nghiên cứu cho thấy các tế bào
phân chia tốt.
- Perrard và cs, 2007 đã tiến tới nuôi cấy các tế bào dòng tinh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: betaNGF (beta nerve growth factor) có tác dụng trực tiếp đến
lần thứ 2 của phân bào giảm nhiễm để hình thành tinh tử tròn. Chính vì vậy các tác
giả nhận thấy số lượng tinh tử tròn tăng nhanh trong quá trình nuôi cấy.
- Zhang, 2008 đã tiến hành nuôi cấy các tinh nguyên bào của chuột trên nền
các tế bào Sertoli. Sau 4 đến 5 ngày nuôi cấy, môi trường nuôi cấy được thay. Kết
quả thí nghiệm cho thấy, sau 24 giờ nuôi cấy đã phát hiện sự phân chia tế bào. Quá

trình nuôi cấy được kéo dài trên 50 ngày.
- Mito Kanatsu và cs, 2008 đã tiến hành nuôi cấy tinh nguyên bào của chuột
Hamster trong thời gian kéo dài. Các tinh nguyên bào sau khi được phân lập và
nuôi cấy trong môi trường có NGF, kết quả của nghiên cứu thu được tinh tử tròn.

18


- Gần đây một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu biệt hoá các tế bào mầm
gốc phôi thành noãn và tinh trùng như Lacham-Kaplan, 2008. Các tác giả này đã
thu được một số thành công, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại cần nghiên cứu.
+ Đối với azoospermia do tắc:
- Các bệnh nhân nhóm này có quá trình sinh tinh xảy ra bình thường. Thông
thường, các bệnh nhân này có kích thước tinh hoàn, nồng độ FSH, LH và
testosterone trong máu bình thường, mào tinh căng, xác định rõ. Đặc biệt, chúng ta
có thể thu được tinh trùng và tinh tử trưởng thành tại mào tinh qua các kỹ thuật
PESA, MESA (Silber, 1994).
- Tuy vậy, các tế bào dòng tinh thu được tại đây thường chưa trưởng thành
hoàn toàn, hơn nữa lại khó xác định được tế bào sống để lựa chọn. Một số tác giả
đã tiến hành nuôi cấy các tế bào này và đạt được kết quả tốt đẹp như: tế bào biệt
hóa, trưởng thành hơn, khả năng xác định tế bào sống cao và tỷ lệ thụ tinh sau ICSI
tăng đáng kể (Balaban, 1999).
* Đặc điểm của các tế bào thu từ tinh hoàn bệnh nhân azoospermia:
- Tinh trùng thường chưa biệt hóa hoàn toàn và không di động nên rất khó
xác định tinh trùng sống trong việc chọn tinh trùng để làm ICSI.
- Theo Tesarik, 1998; Jurisicova, 1999; Gandini, 2000; Muratori, 2000, tỷ lệ
đứt gãy ADN trong các tinh tử thu từ tinh hoàn, đặc biệt là tinh tử tròn (round
spermatid) là rất cao, đây là nguyên nhân làm giảm tỷ lệ thành công.
- Nguyên nhân tỷ lệ thụ tinh của tinh tử rất thấp (Tesarik):
Sự chưa hoàn thiện của trung thể

• Sự chuyển tiếp các protein nhân (từ histone thành protamine) chưa
hoàn toàn: thiếu hụt protamine sẽ cản trở sự hình thành các tiền nhân.
• Sự thiếu hụt các chất kích hoạt noãn.


Không có tinh trùng trong tinh dịch (azoospermia) chiếm một tỷ lệ đáng kể
trong các nguyên nhân vô sinh nam và đây là nguyên nhân đáng quan tâm nhất.
Nhóm azoospermia do tắc, các bệnh nhân này sẽ được điều trị bằng phương pháp
PESA-ICSI hay MESA-ICSI. Nhóm thứ 2 là nhóm azoospermia không do tắc, các
bệnh nhân này cho đến nay khó có khả năng điều trị. TESE-ICSI hoặc xin tinh
trùng là hướng giải quyết cho các bệnh nhân nhóm này.

19


Đối với các bệnh nhân azoospermia không do tắc, hướng giải quyết hiện nay
vẫn là xin tinh trùng, đây vẫn là một giải pháp tình thế.
Chính vì vậy nuôi cấy tinh trùng, tinh tử và các tế bào gốc sinh
tinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ thụ tinh và mang lại cơ
hội làm cha cho những bệnh nhân azoospermia.
3.4 Thu nhận và biệt hóa tế bào gốc trung mô từ cuống dốn của người
3.4.1 .Thu nhận máu cuống rốn
Máu cuống rốn được thu nhận từ các sản phụ đã được xét nghiệm âm tính với HIV,
HBV,
HCV…ở Bệnh viện Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi thai nhi vừa được sinh ra, tiến hành kẹp phần cuống rốn gần bụng và cắt
trên vị trí kẹp 1 cm. Dùng kim tiêm của túi thu máu (có chứa sẵn chất chống đông
máu) đưa vào cuống rốn ở vị trí gần nhau thai. Máu cuống rốn sẽ theo kim và ống
dẫn chảy vào túi thu máu. Khi máu hết chảy, rút kim ra và mang túi chứa máu về
phòng thí nghiệm (được bảo quản lạnh trong đá gel).

Thời gian từ khi thu nhận máu đến khi thao tác trong vòng 2 giờ.
3.4.2 .Giai đoạn 1, nuôi cấy sơ cấp tế bào của máu cuống rốn: chọn lọc MSC
Về nguyên tắc, máu trong cuống rốn luôn chứa ba loại tế bào chính: tế bào gốc tạo
máu
(Hemapoietic Stem Cell_HSC), tế bào máu trưởng thành và MSC. Các MSC và tế
bào gốc tạo máu thuộc quần thể các tế bào đơn nhân. Tiến hành thu nhận quần thể
tế bào đơn nhân bằng phương pháp li tâm trên gradient nồng độ Ficoll-paque
(Sigma) ở tốc độ 2.500 vòng/phút, trong 5 phút. Sau đó, thu nhận phân đoạn chứa
các tế bào đơn nhân nằm giữa lớp Ficoll-paque và lớp huyết tương bên trên. Trong
quá trình li tâm, các tế bào đã biệt hóa với kích thước lớn hơn sẽ đi xuyên qua lớp
Ficoll và lắng ở đáy ống li tâm. Các tế bào hồng cầu không nhân nhẹ, nằm trong
lớp huyết tương bên trên. Và các tế bào đơn nhân với kích thước trung bình luôn
nằm ở lớp giữa. MSC sẽ được tách khỏi tế bào gốc tạo máu trong quần thể tế bào
đơn nhân bằng phương pháp nuôi cấy. Trong nuôi cấy, các MSC sẽ bám dính vào
bề mặt (giá thể) nuôi cấy, trong khi đó tế bào gốc tạo máu không có khả năng này.
Tế bào đơn nhân sau khi thu nhận được huyền phù trong môi trường nuôi cấy
IMDM, 10% FBS, nuôi trong bình nuôi cấy (Nunc, 25 cm2) sao cho đạt mật độ
3.105 tế bào/cm2 ở điều kiện 370C, 5% CO2. Sau 48 giờ, các MSC bắt đầu bám
trên bề mặt đáy của bình nuôi, thay môi trường để loại bỏ hết các tế bào không
bám (các tế bào chết và tế bào gốc tạo máu), tiếp tục nuôi cho đến khi tế bào mọc
đạt tỷ lệ 70-80% bề mặt đáy bình nuôi, với chế độ thay môi trường là 7 ngày/lần.

20


3.5 Giai đoạn 2, nuôi cấy thứ cấp: cấy chuyền tăng sinh MSC
Khi mật độ MSC trong bình nuôi tăng, đạt khoảng 70-80% tỷ lệ diện tích đáy bình,
tiến hành cấy chuyền nhằm cung cấp không gian và chất dinh dưỡng cho MSC.
Quy trình được tiến hành như sau: loại bỏ môi trường cũ và rửa tế bào với 4-5 ml
PBSA có bổ sung gentamycin (10 μg/ml) hai lần. Tiếp tục loại bỏ dịch rửa và bổ

sung 4-5 ml trypsin/EDTA 0,05%. Sau 15 giây, tiến hành đổ bỏ dung dịch enzyme
nhưng vẫn giữ lại khoảng 1 ml và tiếp tục ủ trong tủ ấm 370C, từ 2-3 phút. Sau đó,
lắc nhẹ bình nuôi cấy để tách tế bào ra khỏi bề mặt đáy. Khi tế bào co tròn và tách
ra khỏi bề mặt bình nuôi, phải trung hòa trypsin thừa bằng 10-11 ml môi trường
IMDM 10% FBS. Huyền phù tế bào đó được chia đều cho 3 bình nuôi mới.
3.6.Biệt hoá MSC
Các MSC được thu nhận theo phương pháp trên, sau khi cấy chuyền từ 5-7 lần,
tiến hành
kiểm tra độ tinh sạch, tạo nồng độ thích hợp để cuối cùng sử dụng cho biệt hóa in
vitro.
3.7 .Biệt hóa MSC thành tế bào tạo mỡ (adipocyte)
Để biệt hóa thành tế bào tạo mỡ, các MSC có nồng độ chuẩn được nuôi trong môi
trường IMDM 10% FBS có bổ sung 1 μM dexamethasone, 200 μM indomethacin,
1,7 μM insuline, 500 μM isobutyl-methylxanthine (IBMX) (Sigma). Trong đó,
dexamethasone là một glucocorticoid steroid có tác dụng cảm ứng cho sự biệt hóa
và các yếu tố bổ sung còn lại sẽ kích thích sự biệt hóa. Insuline sẽ kích thích sự thu
nhận các phân tử glucose vào tế bào, tạo nguyên liệu cho các phản ứng chuyển hóa
thành các giọt mỡ [10;11]. IBMX là chất ức chế phosphodiesterase làm khóa sự
chuyển cAMP thành 5’AMP [8]. Điều này gây nên sự điều hòa dương tính
hormone nhạy cảm lipase (HSL). HSL sẽ chuyển triacyl glyceride thành glycerol
và acid béo tự do, đây chính là quá trình tạo mỡ [8]. Indomethacin là ligand của
PPAR (peroxisome proliferators-activated receptor) làm hoạt hóa một nhân tố
phiên mã ức chế tín hiệu Wnt, cần thiết cho sự biệt hóa thành mỡ [8;13].
Sự biệt hóa được ghi nhận khi quan sát dưới kính hiển vi ở độ phóng đại X20, X40
thấy có sự xuất hiện các giọt mỡ nhỏ. Các tế bào tạo mỡ còn được xác định dựa
vào phương pháp nhuộm với thuốc nhuộm Oil red (Merck). Oil red là thuốc nhuộm
lipid, nó chỉ hòa tan trong lipid và tạo màu đỏ.
3.8 Biệt hoá MSC thành nguyên bào xương (Osteoblast)
Các MSC có nồng độ chuẩn được nuôi trong môi trường IMDM 10% FBS có bổ
sung 100 nM dexamethasone, 50 μg/ml L-ascorbic acid 2-phosphat (AsAP) và 100

mM β- glycerolphosphate (Sigma). Dexamethasone có khả năng hoặc kích thích
hoặc ức chế sự biệt hóa thành xương phụ thuộc vào nồng độ của nó. Nồng độ cao
21


của dexamethasone sẽ cảm ứng biệt hóa thành mỡ, trong khi đó, với nồng độ thấp
hơn, chất này sẽ kích thích MSC biệt hóa thành xương .AsAP làm dễ dàng quá
trình biệt hóa thành xương, bao gồm kích thích sự tổng hợp collagen, ngoài ra nó
còn có tác động tăng sinh tế bào [5;6;9]. Cuối cùng, β-glycerolphosphate là yếu tố
quan trọng kích thích sự hình thành chất nền được khoáng hóa khi kết hợp với
dexamethasone và AsAP [9].
Sau 7-14 ngày nuôi cấy, sự biệt hoá được đánh giá thông qua khả năng tích tụ của
calcium trong chất nền nhờ phương pháp nhuộm với thuốc nhuộm Alizarin Red
(Sigma).
IV kết luận
Việc nghiên cứu tế bào gốc hứa hẹn nhiều thành công với những ứng dụng lớn đối
với con người tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn trong nghiên cứu.
Về mặt xã hội việc nghiên cứ tế bào gốc còn chịu sự chi phối của vấn đề đạo đức
xã hội,người ta không chấp nhận các nhà khoa học lấy tế bào gốc từ phôi người vì
đó là một sinh mạng chưa tượng hình.
Tuy vậy điều quan trọng ở đây là việc nhận diện và biệt lập tế bào gốc cần rất
nhiều nghiên cứu chưa kể đến việc tạo môi trường biệt hoá, cấy ghép là một điều
vô cùng khó khăn.cơ thể chúng ta có cơ chế đào thải những vật chất di truyền lạ
vào cơ thể vì vậy khi cấy ghép tế bào hay cơ quan điều gặp trở ngại trong việc giữ
cho nó hoạt động được trong cơ thể sinh vật được cấy ghép.
Nhưng nhìn chung việc nghiên cứu tế bào gốc chỉ bước đầu phát triển, thanh tựu
không nhiều nhưng tiêm năng của các nghiên cứu này có hy vọng rất lớn giúp giải
quyết các vấn đề nan giải trong lĩnh vực y học và có thể ở nhiều lĩnh vực khác
trong tương lai.


22


Tài liệu tham khảo












Sách:công nghệ sinh học – pgs.ts Nguyễn Bá Lộc
/> />sách “Công nghệ tế bào gốc”-Phan Kim Ngọc
www.nhasinhhoctre.com/
www.sinhhocvietnam.com
stemcells.nih.gov
www.medicalnewstoday.com/
www.sciencedaily.com/
topics.nytimes.com
www.cell.com/cell-stem-cell/

23




×