Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận tiền tệ ngân hàng khủng hoảng nợ công châu âu và bài học với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.68 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 - 2009, nợ công ở những nền kinh tế phát
triển đã vượt quá cao so với mức an toàn, và trở thành chủ đề nóng bởi đây là yếu tố có nguy cơ
đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm lo ngại tới viễn cảnh nền kinh tế
một lần nữa lại rơi vào tình trạng suy giảm. Sự kiện nổi bật nhất trong giai đoạn này chính là
cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu. Vào đầu năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công
Hy Lạp xảy ra, là “phát súng” đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Sau Hy Lạp,
khủng hoảng nợ công tại các nước Ai-len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Cộng Hòa Síp lần lượt
xảy ra. Cuộc khủng hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà
còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sau năm 2007 - thời điểm mà nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng mạnh thì Việt Nam
liên tục phải trải qua những bất ổn vĩ mô với tình trạng lạm phát cao và tăng trưởng chậm lại.
Những số liệu thống kê cho thấy, quy mô và tỷ lệ nợ công của Việt Nam đang tăng lên một cách
nhanh chóng và chạm ngưỡng an toàn (65% GDP). Những rủi ro tiềm ẩn trong vấn đề chi tiêu
công, trả nợ công và quản lí nợ công đang đe dọa đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
Chính vì vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Khủng hoảng nợ công châu Âu và bài
học đối với Việt Nam” để phân tích rõ nguyên nhân và hậu quả của cuộc khủng hoảng này, từ
đó đưa ra những giải pháp phù hợp để Việt Nam có thể duy trì tính bền vững của nợ công.
Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần:
Phần 1: Khái quát chung về nợ công
Phần 2: Thực trạng cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu
Phần 3: Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam
Trong quá trình làm tiểu luận, do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn cũng
như sự giới hạn về thời gian, bài viết của chúng em không thể tránh khỏi những thiếu sót cả về
nội dung lẫn hình thức. Chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý quý báu của cô để có
thể hoàn thiện được bài tiểu luận cũng như trau dồi thêm kiến thức cho bản thân.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1




NỘI DUNG
1. Khái quát chung về nợ công
1.1 Một số khái niệm về nợ công
1.1.1 Định nghĩa về nợ công theo quốc tế và Việt Nam
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì nợ công theo
nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung
ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn
vốn hoạt động do ngân sách Nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và
trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa
vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập
được chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Mặt khác, tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, nợ công bao gồm nợ của chính phủ và nợ
được chính phủ bảo lãnh.Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương
(Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…).
Tuy nhiên, ở Việt Nam, Luật quản lí nợ công 2009 lại quy định: Nợ công bao gồm nợ
chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương:

 Nợ chính phủ: Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành
theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ.
 Nợ được chính phủ bảo lãnh:Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh
nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ
bảo lãnh.
 Nợ chính quyền địa phương: Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền

phát hành.
1.1.2 Sự khác biệt cơ bản giữa cách tính nợ công của Việt Nam so với quốc tế
- Trên thực tế, điều kiện để một doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng được chính phủ
bảo lãnh là rất khó khăn. Rất ít các doanh nghiệp, tổ chức nhận được sự bảo lãnh này.
- Khoản mục doanh nghiệp nhà nước tự vay, tự trả không được tính vào nợ công. Doanh
nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần,
vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn. Vì vây, khoản mà các doanh nghiệp nhà nước tự vay cũng thể hiện phần nào đó
Nhà nước đi vay (một phần hoặc toàn bộ) và sẽ chịu trách nhiệm trả nợ cuối cùng (một phần
hoặc toàn bộ). Đặc biệt, Việt Nam là một trong số ít các nước có doanh nghiệp thuộc khu vực
quốc doanh tương đối lớn.

2


- Nợ chính phủ tính theo các tổ chức quốc tế thì bao gồm cả khoản nợ lương hưu còn
Việt Nam thì không. Theo nguyên tắc tính nợ của một số tổ chức quốc tế, khi một công chức
nhận lương họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi Chính
phủ phải đóng vào quỹ này. Phần Nhà nước đóng góp phải tính vào chi tiêu. Dựa vào hợp đồng
đã ký về hưu trí, nếu đóng góp không đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ. Thực tế,
những khoản nợ này là không hề nhỏ.
Như vậy, có thể thấy cách tính nợ công của nợ công của Việt Nam so với quốc tế đã bỏ
qua hai thành phần quan trọng. Đó là nợ doanh nghiệp nhà nước tự vay, tự trả và nợ lương hưu.
1.2 Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công. Mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa riêng trong
việc sử dụng và theo đó là cách quản lí phù hợp để đảm bảo an toàn nợ công cho quốc gia.
1.2.1 Theo nguồn gốc địa lí của vốn vay
Theo nguồn gốc địa lí của vốn vay, nợ công được chia làm 2 loại:

 Nợ trong nước: là khoản nợ vay từ các cá nhân, tổ chức trong nước.

 Nợ nước ngoài: là khoản nợ vay từ các chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế (chẳng hạn như IMF…), tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lí nợ, giúp xác định chính xác
hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Đặc biệt, việc quản lí nợ nước ngoài còn có ý nghĩa
trong việc đảm bảo an ninh tiền tệ vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
1.2.2 Theo cách thức huy động vốn vay
Theo cách thức huy động vốn vay, nợ công được chia làm 2 loại:

 Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp: là các khoản nợ vay trực tiếp từ các cá nhân, tổ
chức cho vay thông qua các hợp đồng cho vay hoặc các hiệp định, thỏa thuận giữa
các quốc gia.
 Nợ công từ các công cụ nợ: là các khoản nợ mà các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền vay từ việc phát hành các công cụ vay nợ như trái phiếu, tín phiếu,hối
phiếu... Các công cụ này thường có tính vô danh và có khả năng chuyển đổi trên
thị trường tài chính.
Ngoài hai cách phân loại cơ bản trên, nợ công còn có thể được phân loại theo nhiều cách.
Chẳng hạn, theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công gồm nợ công
từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường. Theo trách nhiệm
với chủ nợ thì nợ công bao gồm nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh. Theo cấp quản lý nợ thì
nợ công gồm nợ công của trung ương và nợ công của chính quyền địa phương.
1.3 Tác động của nợ công
Nợ công xuất hiện khi những khoản chi tiêu của chính phủ vượt quá những khoản thu từ
thuế, phí, lệ phí. Nói cách khác, nợ công chính là một trong những nguồn để tài trợ thâm hụt

3


ngân sách. Tuy thâm hụt ngân sách nói chung và nợ công nói riêng là trạng thái không mong
muốn nhưng nó không hoàn toàn là hiện tượng tiêu cực.

1.3.1 Tích cực
- Nợ công có thể được xem như một công cụ để huy động vốn. Nguồn vốn này có thể
đến từ trong nước hoặc từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Với chính sách huy động
vốn và quản lí nợ công hợp lí, nợ công sẽ góp phần giải quyết được nhu cầu vốn đầu tư cho các
dự án lớn, các công trình trọng điểm quốc gia...Từ đó, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, gia
tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế, khuyến khích sản xuất phát triển. Vì thế, nó sẽ tạo ra cân
bằng ngân sách nhà nước trong tương lai.
- Nợ công góp phần tận dụng được nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ
phận không nhỏ dân cư có những khoản tiền tiết kiệm. Thông qua việc vay nợ trong nước của
chính phủ, những khoản tiền này sẽ được sử dụng vào đầu tư, đem lại lợi ích kinh tế cho cả khu
vực công lẫn khu vực tư nhân.
- Trong ngắn hạn, việc tăng nợ công thay vì tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà
nước sẽ góp phần tăng thu nhập khả dụng của người dân. Từ đó kích thích tiêu dùng, tăng sản
lượng và việc làm, góp phần làm gia tăng tổng sản phẩm quốc dân.
1.3.2 Tiêu cực
1.3.2.1 Nợ công làm giảm tích lũy vốn tư nhân, dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu tư
Khi chính phủ vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu thì tích lũy vốn tư nhân
sẽ được thay thế bằng tích lũy nợ chính phủ. Lúc này, tổng cầu tín dụng trong nước sẽ tăng lên
kéo theo sự gia tăng của lãi suất. Lãi suất tăng tức là chi phí vay vốn tăng và dẫn đến hiện tượng
thoái lui đầu tư.
Giả sử vào thời điểm ban đầu, thị trường Hình 1: Ảnh hưởng của nợ công lên
vốn đang ở trạng thái cân bằng là với lãi suất và lãi suất
lượng vốn vay là . Khi chính phủ phát hành hành
trái phiếu, cầu tín dụng tăng lên. Lúc này đường
cầu về vốn dịch chuyển từ lên . Thị trường lúc này
đạt tráng thái cân bằng mới là với lãi suất > . Lãi
suất tăng lên làm giảm nhu cầu vay vốn để đầu tư
của các doanh nghiệp cũng như nhu cầu vay vốn để
mua sắm hoặc đầu tư của các hộ gia đình vào các
hàng hóa ôtô, nhà cửa, đất đai…Đầu tư tư nhân sụt

giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế,
năng lực sản xuất của xã hội.

1.3.2.2 Nợ công gây ra hiện tượng thâm hụt kép, làm giảm tiết kiệm quốc gia
Khi chính phủ gia tăng vay nợ trong nước, lãi suất trong nước tăng lên sẽ thu hút các nhà
đâu tư nước ngoài vì lúc này lãi suất trong nước trở nên cao hơn một cách tương đối so với các
nước khác. Dòng vốn ngoại tệ đổ vào ồ ạt sẽ làm cho lượng cung ngoại tệ tăng lên kéo theo đó
là sự mất giá của đồng ngoại tệ, đồng nội tệ tăng giá. Lúc này, các mặt hàng trong nước trở nên

4


đắt hơn còn các mặt hàng ngoại trở nên rẻ hơn một cách tương đối làm cho xuất khẩu giảm,
nhập khẩu tăng. Xuất khẩu ròng vì thế cũng giảm làm thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt
cán cân thanh toán gây ra những tác động tiêu cực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Mặt khác xuất khẩu ròng giảm, đầu tư ra nước ngoài giảm có nghĩa là người dân nội địa
sở hữu ít vốn nước ngoài hơn. Thu nhập người dân nội địa sẽ giảm làm giảm tiết kiệm quốc
dân, cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1.3.2.3 Nợ công tạo ra áp lực gây lạm phát
Như đã phân tích ở trên, tăng vay nợ trong nước sẽ làm chi phí đầu tư tăng dẫn đến giá
thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên. Mặt khác lãi suất tăng làm những người nắm giữ trái phiếu
chính phủ cảm thấy mình giàu hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng, chi
tiêu chính phủ tăng làm cầu hàng hóa dịch vụ tăng đẩy giá thành sản phẩm lên cao, tạo ra áp lực
làm phát trong ngắn hạn.
Khi dòng vốn ngoại đổ vào có thể làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn.
Trong dài hạn, khi áp lực trả nợ gốc và lãi đè nặng thì cầu về ngoại tệ sẽ tăng lên kéo theo sự
mất giá của đồng nội tệ. Chi phí đầu vào cho nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị…
tăng lên dẫn tới nguy cơ gia tăng lạm phát.
1.3.2.4 Những tác động khác
- Khi nợ công là quá lớn, chính phủ sẽ buộc phải thi hành các chính sách thắt lưng buộc

bụng như tăng thuế, cắt giảm chi tiêu để bù đắp thâm hụt ngân sách và nhận được sự hỗ trợ kịp
thời của các tổ chức tín dụng quốc tế. Điều này sẽ gây ảnh hưởng lớn nhất đến những người
nghèo, những người yếu thế vì họ là đối tượng hưởng lợi ích nhiều nhất từ những phúc lợi xã
hội. Cắt giảm phúc lợi xã hội, tăng thuế sẽ gây nên những bất ổn chính trị, xã hội và thậm chí là
những cuộc biểu tình phản đối chính sách của chính phủ.
- Khi nợ công liên tục tăng cao thì nền kinh tế quốc gia sẽ bị các tổ chức quốc tế chuyên
đánh giá tín nhiệm của các công ty và quốc gia như Moody’s, Standard & Poor’s hạ bậc tín
nhiệm. Lúc này, niềm tin của người dân và giới đầu tư sẽ bị lung lay, nền kinh tế dễ trở thành
mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
- Khi vay từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế thì quốc gia đó sẽ phải chịu những sức ép
về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế và xa hơn nữa là phải thay đổi thể chế chính trị, cách
thức quản lí nhà nước, các chính sách tài chính quốc gia để có thể trang trải các khoản nợ. Đặc
biệt, việc lệ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng khiến cho vị thế của quốc
gia bị suy giảm trong các mối quan hệ song phương, đa phương với các quốc gia là chủ nợ.
1.4 Các tiêu chính đánh giá nợ công
- Giới hạn nợ công không vượt quá 50-60% /GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch
xuất khẩu.
- Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu va dịch vụ trả nợ của
chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách.
- Đánh, giá nợ công trong môi liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.

5


Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công thì tỷ lệ nợ công trên GDP là chưa đủ mà
cần phải xem xét nợ công trong mối quan hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác, nhất là tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế,năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn (quan tiêu chí
ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội…Việc phân tích
đúng thực chất của nợ công: cơ cấu nợ công (vay trong nước hay vay nước ngoài chiếm tỷ trọng
lớn hơn), cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ…cũng cần được xem xét một cách toàn diện khi đánh

giá về an toàn của nợ công. Không phải cứ tỷ lệ nợ công trên GDP cao là nguy hiểm và ngược
lại. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy, độc lập thì sẽ gây
nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, tạo
cơ hội cho giới đầu cơ tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế thậm chí còn có thể đẩy nền kinh tế
đến bờ vực phá sản. Ngược lại nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn mà
không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó về cơ cấu nợ, thực trạng nền kinh
tế hiện nay ra sao thông qua các tiêu chí tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, khả năng trả
nợ như thế nào,thời gian đáo hạn đã đến chưa, sẽ làm gì để trang trải các khoản nợ… cũng sẽ
đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách làm cản trở tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế mà để bù đắp thì hàng loạt những chính sách như thắt lưng buộc bụng, tăng thuế, cắt
giảm chi tiêu sẽ được thực thi.
2. Thực trạng cuộc Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Trước năm 1999, để thỏa mãn các quy định về tài chính công trong Thỏa ước ổn định và
tăng trưởng (mức thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ công không được
vượt quá 60% GDP), các chỉ tiêu này đều được các quốc gia ứng viên tuân thủ nghiêm túc. Tuy
nhiên, xu hướng này có dấu hiệu đảo chiều khi Liên minh Kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) đi vào
hoạt động. Từ năm 2003, phần lớn các nước khu vực đồng Euro có tỷ lệ nợ trên 60%/GDP. Điều
này cho thấy các nước bắt đầu không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong EMU.
Trước năm 2008 (khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu), nợ công trung bình của khu
vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) ổn định qua các năm ở mức xấp xỉ 70% GDP, tuy
nhiên nợ công giữa các nước thành viên lại có sự khác biệt tương đối lớn. Trong khi Ai-len, Tây
Ban Nha, Hà Lan duy trì mức nợ công dưới 60% GDP, thì hầu hết các nước khác nợ công đều
có xu hướng tăng lên, điển hình như Đức, Pháp và Bồ Đào Nha; nợ công của Hy Lạp, Italia
thường xuyên ở mức trên 100% GDP. Ai-len và Tây Ban Nha luôn duy trì được tình hình tài
chính lành mạnh khi ngân sách thường xuyên thặng dư và nợ công luôn ở mức thấp (nợ công
Ai-len giảm đều đặn qua các năm từ 48,6% năm 1999 còn 27% năm 2007, nợ công Tây Ban
Nha thường xuyên ở mức xấp xỉ 50% GDP)
Đến tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra xuất phát từ khủng hoảng tín
dụng và nhà đất ở Mỹ đã tạo nên một “cú sốc” mạnh mẽ đến nền kinh tế các nước thành viên
EU. Để cứu vãn nền kinh tế, các quốc gia đều phải tăng chi tiêu công, biến các khoản nợ tư

nhân thành nợ công. Hệ quả là sau thời điểm này, nợ công của EU đều có xu hướng tăng vọt,
điển hình là Hy Lạp và Italia đều ở mức trên 115% vào năm 2009. Khi lãi suất trái phiếu Chính
phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01/2010, lên 9,73% vào
tháng 07/2010 cũng chính là dấu hiệu khởi đầu cho cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu.

6


Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu được bắt đầu từ Hy Lạp, sau đó lần lượt xảy ra ở Ai-len,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, CH Síp.
Hình 2: Nợ chính phủ của EU (% GDP)

Nguồn: Eurostat
2.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng
2.1.2 Italia - Điểm lây lan mới của cuộc khủng hoảng
Sau Hy Lạp, Italia cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng như báo
chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Italia đột nhiên được thị trường đẩy lên quá
nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỷ euro trái phiếu thời hạn 5 năm gần nhất của Italia đã có lợi
suất trung bình là 4,93%, cao hơn nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị
trường đang đánh giá rủi ro vỡ nợ của Italia đã tăng lên đáng kể.
Việc lãi suất chính phủ Italia tăng cao do nhà đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp về nợ
công có thể tạo ra một hiệu ứng biến Italia trở thành nạn nhân tiếp theo. Trong cấu trúc nợ
khoảng 1600 tỷ euro của Italia có đến hơn 800 tỷ euro là các khoản nợ sẽ đáo hạn trong vòng 5
năm và hơn 250 tỷ euro trong số đó là nợ sẽ đáo hạn trong vòng 1 năm. Nghĩa là nếu lãi suất
tiếp tục giữ ở mức hiện tại thì chi phí phát hành mới trái phiếu để tài trợ cho các khoản nợ cũ sẽ
tăng lên rất nhiều.
Thực tế không thể phủ nhận là Italia có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm và có 1
chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả, không minh bạch. Trường hợp nếu Italia thực sự thiếu tiền
trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại hơn trường hợp Hy Lạp, Ireland hay Bồ Đào
Nha vì Italia là nền kinh tế lớn thứ 3 trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô khoản nợ của

nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước này vốn dĩ là chậm chạp còn dân
số Italia thì thuộc nhóm dân số già.
2.1.1 Hy Lạp - nơi hình thành khủng hoảng nợ công
Năm 2009, Hy Lạp tuyên bố thâm hụt ngân sách là 15,1% GDP, gấp hơn năm lần giới hạn 3%
của EU. Các cơ quan xếp hạng Fitch, Moody, và Standard & Poor đã hạ xếp hạng tín dụng của
Hy Lạp xuống còn BB-. Điều đó làm các nhà đầu tư sợ hãi và tăng chi phí cho các khoản vay
trong tương lại.
Năm 2010, Hy Lạp đã công bố kế hoạch giảm thâm hụt xuống còn 3% GDP trong hai năm để
trấn an những người cho vay. Tuy nhiên, chỉ bốn tháng sau, Hy Lạp thay vào đó cảnh báo nó có
thể bị vỡ nợ. Ngay lập tức, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thông qua khoảng vay 110 tỷ euro

7


trong các quỹ dự trữ khẩn cấp để đổi lấy các biện pháp thắt lưng buộc bụng từ Hy Lạp. Các
khoản vay này chỉ giúp Hy Lạp đủ tiền để trả lãi cho khoản nợ hiện tại và giữ cho vốn hóa của
các ngân hàng thương mại ổn định.
Vào năm 2011, tỷ lệ nợ trên GDP của Hy Lạp đã tăng lên 172,1%, gấp gần ba lần giới hạn 60%
của EU. Sau đó một năm, lãi suất trái phiếu chính phủ 10 năm của Hy Lạp đã đạt đỉnh kỷ lục,
lên tới 45%.
Hình 3: Lợi suất trái phiếu chính phủ 10 năm của Hy Lạp giai đoạn 1993 - 2017

Trong giai đoạn 2014 – 2017, chính phủ Hy Lạp tiếp tục thực hiện chính sách “thắt lưng buộc
bụng” để đổi lấy các khoản cứu trợ từ EU bất chấp các cuộc trưng cầu dân ý. Thâm hụt ngân
sách đã giảm chỉ còn -5,9% GDP trong năm 2015; từ năm 2016, ngân sách của Hy Lạp đã bắt
đầu có thặng dư, vào khoảng 0,6 – 0,8% GDP.

8



Hình 4: Tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách chính phủ của Hy Lạp trên GDP (%) giai
đoạn 1990 - 2017

Mặc dù tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước đang được cải thiện và nền kinh tế cho thấy
những dấu hiệu tích cực, tỷ lệ nợ/GDP của Hy Lạp liên tục đạt xấp xỉ 180% GDP, cao gấp gần 3
lần mức giới hạn cho phép của EU. Cụ thể, sau khi giảm 11,5% từ mức đỉnh năm 2011 là
172,1% xuống 159,6% trong năm 2012, tỷ lệ nợ/GDP của Hy Lạp đã lại tăng lên 177,4% vào
năm 2013 và duy trì sự biến động trong khoảng 177,4%-179,9% trong giai đoạn 2014-2017.
Hình 5: Tỷ lệ nợ chính phủ Hy Lạp trên GDP (%) giai đoạn 1990 - 2017

Câu hỏi đặt ra ở đây đó là: “Dù nền kinh tế có tăng trưởng tích cực, nhưng tỷ lệ nợ/GDP của Hy
Lạp vẫn không hề giảm và liên tục duy trì ở mức gấp 3 lần GDP, thì liệu rủi ro vỡ nợ của Hy
Lạp đến khi nào mới có thể chấm dứt?”. Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta hãy cùng phân tích
biểu đồ dưới đây. Theo số liệu của tổ chức tiền tệ thế giới (IMF), tính đến hết năm 2017, trong
khoản nợ 354 tỷ USD của Hy Lạp thì có tới 71.8% giá trị khoản nợ thuộc sở hữu của các tổ
chức thuộc chính phủ EU. Trong đó, tổ chức ổn định tài chính châu Âu là chủ nợ lớn nhất với
khoản cho vay trị giá 235 tỷ USD. Tất cả khoản cho vay của chính phủ châu Âu đều nhằm mục

9


đích cứu trợ nên chi phí lãi suất bằng 0%. Điều đáng lo nhất của Hy Lạp là khoản nợ ngắn hạn
trị giá 28 tỷ USD (chiếm 7.9% tổng nợ), tuy nhiên Hy Lạp đã có thể tự huy động vốn trên thị
trường trái phiểu để trả khoản vay này. Do vậy, rủi ro vỡ nợ của Hy Lạp đã gần như không còn.
Hình 6: Cơ cấu nợ của Hy Lạp theo chủ sở hữu năm 2017

Và cuối cùng, vào ngày 20 tháng 8 năm 2018, sau gần một thập kỷ “thắt lưng buộc bụng” ,
chính phủ Hy Lạp đã công bố chính thức thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và kết thúc việc
nhận các gói hỗ trợ mới.
2.1.3 Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland

Ireland đã đưa ra các kết quả mới nhất về các ngân hàng nước này. Ngân hàng Trung
Ương đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp từ Liên minh châu Âu trong việc kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực
ngân hàng do chi phí trang trải các khoản nợ lên tới 70 tỷ euro (tương đương 99 tỷ USD), một
con số nợ khổng lồ đối với một đất nước chỉ tạo ra 171 tỷ USD/năm.
Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như trường hợp Hy
Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá sớm. Trước tiên, là sự xuất hiện “bong
bóng” trên thị trường bất động sả. Trong một thập niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland
tăng gần gấp 4 lần, thậm chí còn đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên
thế giới như Los Angeles. Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ
thống ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành gánh nặng cho
ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các biện pháp kinh
tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU, nhằm đưa đất nước thoát khỏi

10


cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít nhất 10% mức lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia
tăng, cắt giảm 25000 biên chế trong các cơ quan nhà nước …
2.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân chính là do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Tầm
quan trọng của nợ nước ngoài có thể được minh họa bằng trường hợp của Bồ Đào Nha. Ở quốc
gia này, mặc dù nợ công và tỷ lệ thâm hụt khá cao nhưng cũng chỉ tương tự như của Pháp. Vấn
đề quan trọng nhất mà Bồ Đào Nha phải đối mặt, không phải là chính sách tài chính, mà là các
khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các doanh nghiệp Bồ Đào
Nha. Tầm quan trọng của các khoản nợ công cũng chỉ ở mức nhất định đối với một quốc gia, ví
dụ như ở Ý và Bỉ. Cả 2 nước này có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn nhiều so với Bồ Đào Nha,
nhưng mức phí bảo hiểm rủi ro mà họ phải trả lại thấp hơn nhiều so với nước này. Lý do chính
là họ nợ nước ngoài rất ít, Bỉ thậm chí còn thặng dư tài khoản vãng lai.
Đặc biệt, là do trong khủng hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.

Điều quan trọng trên thị trường tài chính khi nhìn vào nợ công của một quốc gia là ai là chủ nợ
của chúng. Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, điều quan trọng là đảm bảo được hoạt động thu
thuế. Với những quốc gia có nợ công cao nhưng nợ nước ngoài thấp, nợ công chủ yếu do người
dân nắm giữ, và Chính phủ luôn luôn có thể giải quyết vấn đề nợ công bằng một số hình thức
thu thuế. Vì thế, nợ nước ngoài là thành phần chủ yếu gây ra những vấn đề trong khả năng
thanh toán nợ của một quốc gia. Trường hợp ngoại lệ trong vấn đề này chính là Mỹ, giống như
những gì được gọi là “đặc quyền cắt cổ” của nền kinh tế lớn nhất thế giới: nợ nước ngoài của
Mỹ lại chính bằng đồng USD, giúp Chính phủ Mỹ có thể linh hoạt giải quyết các vấn đề nợ
công.
Một điều phức tạp hơn nữa là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân của
họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường hợp này, Chính phủ phải
đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng
lợi nhuận từ tài sản nước ngoài. Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng
cách, kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay
thế. Một ví dụ đặc trưng là trường hợp của của Argentina năm 2001. Nợ nước ngoài ròng mà
Argentina nắm giữ là không lớn, chỉ tương đương với số tài sản nước ngoài mà khu vực tư nhân
trong nước nắm giữ. Mặc dù vậy, Chính phủ Argentina đã phá sản, bởi vì tầng lớp người giàu
thì nhanh chóng bán tài sản ra nước ngoài, trong khi những người dân nghèo từ chối trả các
khoản thuế cần thiết để giúp Chính phủ thanh toán nợ nước ngoài.
2.3 Hậu quả của cuộc khủng hoảng
2.3.1 Tác động đến thế giới
Nền kinh tế toàn cầu có mối quan hệ qua lại và ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, vì vậy,
nếu các khối thương mại lớn như EU-28 (chiếm 17,2 % xuất, nhập khẩu thế giới, năm 2011)
hoặc khu vực đồng Euro (18 nước thành viên EU), hoặc các quốc gia lớn như Mỹ hay Trung
Quốc,… gặp suy thoái sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Rủi ro
tín dụng chính phủ liên tiếp ở châu Âu đã làm dấy lên mối quan ngại về sự phục hồi chậm chạp

11



tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng sản lượng chậm lại đáng kể trong năm 2011, và tăng
trưởng yếu tiếp tục diễn ra trong năm 2012 và 2013.
Kinh tế thế giới đã đứng trên bờ vực của cuộc khủng hoảng tiếp theo. Tăng trưởng kinh
tế bắt đầu suy giảm trên diện rộng từ giữa năm 2011 và tăng trưởng trung bình trong năm 2011
là khoảng 2,8%.Tăng trưởng kinh tế tiếp tục sụt giảm trong năm 2012 và 2013. Theo một báo
cáo của Liên hợp Quốc, năm 2013, tăng trưởng tổng sản phẩm thế giới năm 2012 là 2,6% và
năm 2013 là 3,0%, thấp hơn mức tăng trưởng toàn cầu giai đoạn trước khủng hoảng.
Trong khi các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi tiếp tục sẽ là động lực
cho nền kinh tế thế giới, với mức tăng trưởng trung bình là 5,4 % vào năm 2012 và 5,8% vào
năm 2013. Trong số các nước đang phát triển như, tăng trưởng của Trung Quốc giảm từ
mức10,3% năm 2010 xuống 9,3% năm 2011 và tiếp tục giảm xuống còn dưới 9% năm
2013,kinh tế Ấn Độ mở rộng khoảng từ mức 7,7 % đến 7,9% trong giai đoạn 2012 và 2013,
giảm so với mức 8,5% năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì
Các nước thu nhập thấp chỉ bị tác động nhẹ bởi cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tính theo
đầu người, tăng trưởng thu nhập giảm từ 3,8% năm 2010 xuống 3,5% năm 2011 và bất chấp sự
suy thoái toàn cầu, các quốc gia nghèo hơn vẫn có thể đạt mức tăng trưởng trung bình hiện tại
hoặc cao hơn một chút trong năm 2012 và 2013.
Các vấn đề tác động đến tài chính, kinh tế toàn cầu rất đa dạng, phức tạp và liên quan
chặt chẽ với nhau. Thách thức phải giải quyết lớn nhất là ở chỗ, khủng hoảng việc làm vẫn đang
tiếp diễn và sụt giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tại các nước công nghiệp phát
triển. Do tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao ở mức gần 9% và thu nhập không tăng, và rất khó phục hồi
trong ngắn hạn, do thiếu tổng cầu. Nhưng, khi ngày càng nhiều người lao độngmất việc trong
thời gian dài, đặc biệt là lao động trẻ, triển vọng tăng trưởng trung hạn cũng sẽ chịu ảnh hưởng
do tác động bất lợi đối với lao động có kinh nghiệm và kỹ năng cao. Nền kinh tế hạ nhiệt nhanh
chóng vừa là nguyên nhân, nhưng cũng vừa là yếu tố ảnh hưởngđến khủng hoảng nợ công tại
Khu vực đồng euro, và các vấn đề tài khóa ở các khu vực khác.
Kinh tế Mỹ cũng đối mặt với thất nghiệp cao, kéo dài dai dẳng, làm lung lay niềm tin của
doanh nghiệp và người tiêu dùng, và sự mong manh của lĩnh vực tài chính. EU và Mỹ là hai nền
kinh tế lớn nhất thế giớivà có mối liên hệ qua lại với nhau sâu sắc. Các vấn đề của nước này có
thể dễ dàng lan nhanh sang nước kia và dẫn đến suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Các

nước đang phát triển đã dần hồi phục sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009.
2.3.2 Tác động đến vùng Eurozone
2.3.2.1 Khủng hoảng nợ công làm suy yếu kinh tế và chính trị nội bộ châu Âu.
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng khủng
hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu. Sau Hy Lạp, các nước như Tây Ban Nha,Bồ Đào Nha,
Ai-len và Ý là những nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công. Tây Ban Nha có tỷ
lệ thất nghiệp lên tới 20%, thâm hụt ngân sách trên 10% GDP; Bồ Đào Nha có thâm hụt ngân
sách và thâm hụt thương mại ở mức cao, tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, nợ công của Ý chiếm
106,1% GDP (năm 2008).

12


Bên cạnh đó, Hy Lạp đã có mức thâm hụt ngân sách đạt tới 13,6% GDP. Nợ công Hy
Lạp cũng lên tới 236 tỷ Euro, chiếm khoảng 115% GDP của Hy Lạp vào năm 2009. Vào tháng
11/2010, Ireland chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của cơn bão khủng hoảng nợ công khi
phải cầu viện với EU và IMF. Bước sang năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi
vào khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5%GDP, cùng với đó nợ
công cũng đã vượt quá 90% GDP. Ý và Tây Ban Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng
hoảng, nhưng cũng rơi vào vòng nguy hiểm. Thâm hụt ngân sách của Ý vào năm 2011 mới chỉ
ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã xấp xỉ 120% GDP. Tây Ban Nha nợ công ở mức 72% GDP,
trong khi thâm hụt ngân sách lại rất cao, gần 9% GDP.
Bảng 1: Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS 2006-2011 (% GDP)

Bồ Đào Nha
Ireland
Italia
Hy Lạp
Tây Ban Nha


2006
Nợ Thâm
công
hụt
64,7
-3,9
24,9
3,0
106,5
-3,3
97,8
-3,6
39,6
2,0

2007
2008
2009
Nợ Thâm Nợ Thâm Nợ Thâm
công
hụt
công
hụt
công
hụt
63,6
-2,6
66,3
-2,8
76,8

-9,4
25,0
0,1
43,9
-7,3
64,0
14,3
103,5 -1,5 106,1 -2,7 115,8
-5,3
95,7
-5,1
99,2
-7,7 115,1 -13,6
36,2
1,9
39,7
-4,1
53,2
-11,2

2010
Nợ
Thâm
công
hụt
85,8
-8,5
98,6
-32,0
118,2

-5,3
133,3
-8,1
64,9
-9,8

2011
Nợ Thâm
công
hụt
91,1
-7,9
N/A
N/A
118,9 -5,0
145,1 -7,6
72,5
-8,8

Nguồn: Featherstone (2011)
2.3.2.2 Khủng hoảng nợ công gây ra những tác động xấu tới đồng tiền chung Châu Âu
Khủng hoảng lan rộng ở khắp các quốc gia thành viên Eurozone đã khiến đồng Euro mất
giá khá mạnh mẽ trên thị trường tiền tệ. Sự mất giá của đồng Euro khiến cho đồng tiền chung
Châu Âu trở thành tầm ngắm của các quỹ đầu cơ, các ngân hàng và định chế tài chính muốn
được sinh lời từ việc bán khống. Bằng cách vay và ồ ạt bán khống đồng Euro, các đối tượng này
làm cho tỷ giá Euro lao dốc mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác. Cuối cùng, họ thực hiện
việc mua vào Euro với giá rẻ để trả lại, bỏ túi những khoản lãi khổng lồ. Thị trường chứng
khoán Châu Âu đã chứng kiến những phiên giảm điểm liên tiếp do lo ngại rằng cuộc khủng
hoảng nợ của Hy Lạp và sau đó là Ailen, có thể lan sang các nước khác ở châu Âu - nơi cũng có
thâm hụt ngân sách lớn.

2.3.2.3 Khủng hoảng nợ công châu Âu đã tác động tiêu cực đến kinh tế, chính trị, xã hội của các
nước “mắc nợ” lớn (Hy Lạp, Ai len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha).
Sự mất cân bằng của nền kinh tế đã dẫn đến sự mất cân bằng xã hội: hàng loạt những
cuộc biểu tình phản đối các chính sách của chính phủ đã diễn ra rộng khắp ở những nước phải
đưa ra các biện pháp thắt chặt chi tiêu công như Hy Lạp, Ai-len, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…
Những cuộc bãi công liên tục đẩy các đất nước này vào tình trạng bất ổn kinh tế - chính trị - xã
hội, từ đó làm mất lòng tin của giới đầu tư, khiến cho tình trạng khủng hoảng thêm trầm trọng.
Cụ thể như là ở Hy Lạp. Đất nước này là một trong những mắt xích tương đối yếu của
khu vực đồng tiền chung châu Âu. Tưởng chừng gia nhập EU sẽ là điều kiện giúp Hy Lạp có
thể vay với lãi suất thấp cùng với những khoản vay khổng lồ. Nhưng việc này lại đem tới lạm
phát, dẫn tới tình trạng leo thang của giá cả. Đi cùng với đó, cuộc khủng hoảng năm 2008 càng

13


khiến nền kinh tế của nước này thêm nguy khốn. Để chấp nhận gói cứu trợ 110 tỷ euro của EU
và IMF, chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra một loạt các biện pháp hà khắc “Thắt lưng buộc
bụng”. Chính việc áp dụng những chính sách này đã làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ
phía người dân. Ngày 5/5/2010, mọi hoạt động đã hoàn toàn tê liệt vì đình công. Tình hình xã
hội trở nên hỗn loạn. Mặt khác, điều này còn ảnh hưởng tới sức mua của các hộ gia đình vì gánh
nặng lại càng đè nặng hơn lên vai người dân, điều này khiến cho Hy Lạp càng lâm vào tình thế
hiểm nghèo: sức mua giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng…Cuộc khủng hoảng nợ này còn làm mất
niềm tin của các nhà đầu tư. Bằng chứng là Standart&Poor đã giảm điểm tín nhiệm của Hy Lạp
xuống 3 nấc, xuống còn BB-. Các nhà đầu tư cũng lo sợ rằng sự cứu trợ của Liên minh không
đủ mạnh sẽ làm triệt tiêu tăng trưởng của Hy Lạp. Chưa hết, nhiều nhà kinh tế dự đoán rằng có
thể chính phủ Hy Lạp sẽ rút ra khỏi Liên minh và phá giá đồng nội tệ. Như vậy làm tác động
tâm lý tới các nhà đầu tư, nguy cơ rút vốn hàng loạt tại các ngân hàng. Điều này sẽ khiến lãi
suất cho những đợt phát hành nợ sắp tới leo thang không ngừng. Và nếu Hy Lạp lại có thể tiếp
tục vay được vốn thì lãi phải trả là rất lớn. Gánh nặng nợ nần sẽ càng căng thẳng. Thực tế này
càng tác động tiêu cực vào niềm tin của thị trường cũng như sẽ khiến Hy Lạp sa chân vào vòng

xoáy nợ nần.
2.4 Những chính sách can thiệp của chính phủ để đưa Châu Âu thoát khỏi cuộc khủng
hoảng
Bộ tam Liên minh châu Âu (EU), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) đã đưa ra những chương trình cứu trợ quốc tế cho các nước trong quá trình gặp
khủng hoảng vỡ nợ công. Trong giai đoạn 6 năm trở lại đây (2013-2018), một số nước đã thoát
khỏi gói viện trợ quốc tế này. Và hầu hết chính phủ các nước đều trưng cầu ý dân để áp dụng
chính sách “thắt lưng buộc bụng”, bởi đó mà việc thoát khỏi khủng hoảng là một sự nỗ lực to
lớn của chính phủ và nhân dân các nước trong thời kỳ khó khăn.
2.4.1 Ireland
Năm 2013, Ireland đã tự hào khi trở thành quốc gia đầu tiên thoát khỏi cuộc chiến trần
nợ. Đồng nghĩa với việc quốc gia này sẽ không phải vay từng đồng tiền cứu trợ và cũng không
phải sống trong nợ nần. Để vực dậy nền kinh tế bên bờ sụp đổ, chính phủ Ireland đã đưa ra một
loạt các quyết sách quan trọng.
Đối với cải cách ngân hàng, chính phủ Ireland cho tái cấp vốn cho toàn bộ các ngân hàng
trong nước với chi phí thấp hơn dự kiến ban đầu. Ngoài ra, Ireland cũng tiến hành giảm dần nợ
cho các ngân hàng, mặc dù điều kiện thị trường vẫn còn rất nhiều khó khăn. Cuối cùng, các
ngân hàng yếu kém bị buộc phải sáp nhập trước thời hạn, kèm theo đó là toàn bộ ban lãnh đạo
của những ngân hàng này cũng bị thay mới hoàn toàn.
Trong lĩnh vực tài chính, chính phủ Ireland chủ trương khôi phục lại tính bền vững của
tài chính công, và cho đến nay quá trình này vẫn tiếp tục được thực hiện. Mục tiêu thâm hụt
ngân sách năm 2012 được chính phủ Ireland nghiêm túc thực hiện. Chính phủ Ireland cũng cam
kết sẽ giảm nợ xuống mức 7,5% GDP trong năm 2013 và tiến tới mục tiêu 3% vào năm 2015.

14


Đối với yêu cầu cải cách cơ cấu, chính phủ Ireland thực hiện cải cách triệt để thị trường
lao động, đồng thời tiến hành các biện pháp cải thiện tính linh hoạt của thị trường lao động đối
với người thất nghiệp. Ngoài ra, Ireland còn khuyến khích tính cạnh tranh trong các lĩnh vực

được bảo hộ nhằm giảm chi phí lao động và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Kết hợp với việc xin cứu trợ từ EU và IMF với số tiền 85 tỷ euro (trong đó 17,5 tỷ euro
là do phía Ireland đóng góp) từ năm 2010 giúp ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ của Ireland, đồng thời
giúp các dịch vụ tài chính công cơ bản của quốc gia này vẫn tiếp tục hoạt động, thì đến năm
2013, Ireland đã chính thức tự đứng trên đôi chân của chính mình, tiếp tục đặt ra những mục
tiêu giảm thâm hụt ngân sách trong những năm tiếp theo.
2.4.2 Hy Lạp
Tương tự như Ireland, Hy Lạp cũng có một quá trình gian nan thoát khỏi sự viện trợ của
bộ tam quốc tế và đến 2018, đất nước này chính thức chấm dứt khủng hoảng nợ công. Trong khi
Ireland nhận cứu trợ trong 3 năm thì Hy Lạp phải nhận gói cứu trợ của Bộ tam trong 8 năm và
10 năm kể từ ngày lâm vào khủng hoảng, đã có lúc Hy Lạp đứng trên bờ vực phá sản.
Nguyên nhân giúp Hy Lạp vượt qua được cuộc khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng này,
đầu tiên chính là nhờ những nỗ lực to lớn và những hy sinh cực kỳ đau đớn của chính phủ và
nhân dân Hy Lạp, đặc biệt là chính phủ của Thủ tướng Alexis Tsipras.
Năm 2015, Thủ tướng Alexis Tsipras đã chấp thuận các yêu cầu thắt lưng buộc bụng
khắc nghiệt của chủ nợ, bao gồm tăng thuế, giảm trợ cấp. Tuy nhiên, ông Tsipras đồng thời yêu
cầu các chủ nợ cấp một khoản cứu trợ mới, có thời hạn 3 năm trị giá 53,5 tỉ euro (khoảng 59 tỉ
USD), và đề nghị chủ nợ cam kết thảo luận tái cơ cấu khoản nợ khổng lồ của Hy Lạp.
Nội dung chủ yếu của các đề xuất của Hy Lạp
- Các mục tiêu thặng dư ngân sách: Hy Lạp đồng ý đề ra mục tiêu 1%, 2%, 3% và
3,5% lần lượt cho các năm từ 2015 – 2018. Đề xuất này tương đồng với nội dung từng
được đưa ra trước đây, nhưng được đánh giá vẫn rất tham vọng, nhất là khi xét tới tình
hình kinh tế hiện tại của Hy Lạp.
- Bãi bỏ miễn trừ thuế VAT cho các hòn đảo của Hy Lạp: mức ưu đãi 30% thuế
VAT cho các hòn đảo sẽ bị bãi bỏ, theo yêu cầu của các chủ nợ. Trước đây, Athens từng
phản đối mạnh mẽ yêu cầu này. Đề xuất mới cho biết quy định sẽ được triển khai trước
tiên “với những hòn đảo có thu nhập cao nhất, thu hút nhiều du khách nhất”.
- Các khách sạn vẫn được hưởng mức thuế suất VAT 13%, tuy nhiên các nhà hàng
sẽ phải chịu thuế suất VAT 23%. Hoạt động kinh doanh sách, dược phẩm và rạp hát tiếp
tục hưởng thuế suất 6%.

- Toàn bộ trợ cấp nhiên liệu cho nông dân Hy Lạp sẽ bị bãi bỏ như yêu cầu của
chủ nợ.
- Các chính sách thuế VAT sẽ được rà soát lại trước cuối năm 2016, nếu “các
nguồn thu bổ sung từ chống gian lận thuế” và các biện pháp tăng thu thuế khác đem lại
kết quả.

15


- Trong trường hợp bất kỳ đề xuất nào dẫn tới “thiếu hụt tài khóa”, chính phủ Hy
Lạp đề xuất tăng thuế thu nhập đối với những người có thu nhập thấp nhất. Cụ thể người
có thu nhập dưới 12.000 euro/năm sẽ chịu thuế suất 15% (tăng so với mức 11% hiện tại).
Người thu nhập trên 12.000 euro/năm sẽ chịu thuế suất 35% (tăng so với mức 33% hiện
tại). Trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ tăng từ 26% lên mức 28% theo yêu cầu
của IMF.
- Trợ cấp: Hy Lạp chấp thuận ngừng các khoản trợ cấp bổ sung cho những người
nghèo nhất trước tháng 12/2019, thay vì năm 2020. Đồng thời, độ tuổi được hưởng trợ
cấp hưu trí cơ bản mới sẽ là 67 tuổi, có hiệu lực trước năm 2020.
- Chi tiêu quốc phòng: Hy Lạp sẽ cắt giảm 100 triệu euro trong năm nay và 200
triệu euro trong năm 2016. Trước đó, các chủ nợ yêu cầu giảm chi quốc phòng 400 triệu
euro trong năm 2016
3. Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam
3.1 Bài học kinh nghiệm
Bài học lớn nhất từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu chính là Chính phủ cần có sự
giám sát chặt chẽ và can thiệp kịp thời đối với hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp lớn vì
những tổ chức này khi đổ vỡ sẽ tạo ra những tác hại vô cùng lớn cho nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, tình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc
chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng
khi nền kinh tế tăng trưởng nóng. Mặt khác, chính phủ đã buộc phải chọn lựa bao cấp các ngân
hàng này khi họ thua lỗ. Trong trường hợp các doanh nghiệp lớn bị phá sản, vì lý do cứu vãn

tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải cứu trợ cho các doanh nghiệp đó với lý lẽ là phải cứu cả một
ngành công nghiệp hay là cứu nền kinh tế khỏi suy thoái, bảo vệ việc làm cho người dân. Tuy
nhiên, khi Chính phủ càng chi nhiều tiền để cứu các ngân hàng thì cũng đồng nghĩa với việc
phải chấp nhận bội chi ngân sách sẽ càng lớn và khi đó niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào
trái phiếu chính phủ và đồng nội tệ sẽ càng thấp.
Khi Hy Lạp và Ireland lâm vào khủng hoảng nợ, hạng mức tín nhiệm của trái phiếu các
nước này bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi phí bảo hiểm các khoản
tiền vay của những nước này tăng mạnh. Điều này tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư trong và
ngoài nước, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp.
Do đó, không thể chờ đến khi tổn thất xảy ra rồi mới tìm cách tháo gỡ. Niềm tin của nhà
đầu tư nước ngoài (và cả trong nước) đối với triển vọng nền kinh tế và độ tín nhiệm của một
chính phủ một khi đã bị tổn hại thì khó có thể xây dựng lại nhanh chóng. Ngay từ đầu, Chính
phủ đặc biệt cần giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh nghiệp lớn trong nền
kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại bỏ những doanh nghiệp nhà nước
lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến khi một doanh nghiệp quá lớn bị lâm vào
nguy cơ sụp đồ buộc Nhà nước phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ.

16


Trong tình huống đó, thâm hụt ngân sách và nợ công sẽ phải chịu một gánh nặng quá lớn
và trường hợp của Ireland là một kinh nghiệm. Việt Nam có lợi thế là độc lập trong chính sách
tiền tệ và đồng tiền của mình nên có nhiều công cụ để điều tiết nền kinh tế hơn so với Ireland
đang nằm trong khối sử dụng đồng tiền chung. Tuy nhiên, nếu chạy theo tăng trưởng, bỏ mặc an
toàn hệ thống và dung túng những doanh nghiệp có quy mô quá lớn nhưng thực tế chỉ còn cái
“vỏ bọc bên ngoài” thì rủi ro khủng hoảng tài khóa và nợ công sẽ ngày một tăng lên. Vì vậy,
trường hợp của Ireland hàm chứa những kinh nghiệm và cũng là một lời cảnh báo cần được chú
ý, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ của khu vực doanh
nghiệp trong tương lai, khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ
này sẽ càng cao hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân

tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do đó, việc vay về
cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án
trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ
các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP).
3.2 Thực tế tình trạng nợ công của Việt Nam hiện nay
Theo báo cáo của Bộ tài chính, nợ công của Việt Nam đạt 61% tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tại thời điểm tháng 9/2016 và con số này tăng lên xấp xỉ 65% vào thời điểm 2017-2018.
Theo các chuyên gia, Chính phủ hàng năm phải chi trả 14% tổng nợ Chính phủ vay và nợ Chính
phủ bảo lãnh. Việt Nam đang loay hoay trong việc vay vốn để phát triển và vì sử dụng vốn chưa
hiệu quả nên trở thành một trong số các nước có tỷ lê nợ công tăng nhanh nhất. Nhưng nếu
không tiếp tục vay thì cũng không có vốn để phục vụ phát triển và để trả nợ. Theo dự đoán
trong thời gian tới, Việt Nam cần huy động 39,5 tỷ đô la Mỹ để đầu tư phát triển đến năm 2020.
Xét về tốc độ tăng trưởng của nợ công, có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng luôn gấp
khoảng 3 lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Năm 2017, vay đảo nợ lên đến 95.000 tỷ đồng. Con
số này cho thấy gánh nặng nợ công đang tăng cao. Cứ 3 tháng 1 lần, Việt Nam trả nợ công gồm
cả gốc và lãi với số tiền khoảng 25 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Nếu không giải
quyết nhanh chóng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến tài chính quốc gia, ổn định vĩ mô. Năm 2016,
nợ công đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải
vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ để đảo nợ.
Theo thông tin từ Bộ Tài chính, thu nhập trung bình của người lao động Việt Nam là
2.200 USD/người/năm. Theo quy định, con số trên đã cho thấy Việt Nam đã thoát khỏi nhóm
các nước nghèo và là nước có thu nhập trung bình. Vì vậy, các khoản vay với ưu đãi về lãi suất
và thời hạn sẽ không còn nữa mà chúng ta phải vay các khoản với lãi suất cao hơn và thời hạn
cũng ngắn hơn. Điều này chỉ ra rằng, nếu Việt Nam vay thì cần đầu tư một cách hiệu quả đồng
vốn, tạo lãi thì mới giảm được áp lực từ nợ công.
Hình 7: Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2014 - 2017

17



Nguồn: Tổng cục thống kê
3.3 Một số giải pháp, kiến nghị
Để có thể đảm bảo tính bền vững của nợ công cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư công, Chính phủ nên thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, cần xây dung kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu – chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn,
thời kỳ. Cụ thể, kế hoạch chiến lược về vay nợ của Chính phủ cần xác định rõ mục đích vay
(vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ, cho vay lại hay vay để tài trợ cho các
chương trình, dự án đầu tư quan trọng). Bên cạnh đó, kế hoạch chiến lược về vay nợ của Chính
phủ cũng cần chỉ rõ đối tượng sử các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm
vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng vay vượt mức cho phép hoặc vay nhưng chưa
thực sự có nhu cầu sử dụng.
Hai là, bảo đảm tính về vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng
thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, Chính phủ
cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ
các khoản vay nợ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu, dự trữ ngoại hối, quỹ tích lũy để trả nợ,…Đồng thời, Chính phủ cũng cần thay đổi
cách tính nợ công để thu nhận được chính xác nhất về số liệu về khoản nợ công của Chính phủ
và doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ
bảo lãnh. Hoạt động cho vay lại hoặc bảo lãnh vay là các hoạt động thường phát sinh khi doanh
nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để
tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các
nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất là
nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các
khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất
khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo
lãnh không dựa trên những phân tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của
doanh nghiệp. Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu


18


tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên của quốc gia. Đồng
thời, khuyến khích phát triển mô mình hợp tác công – tư (PPP).
Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được
Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả nợ và tính bền vững của
nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các
khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp nhà
nước,…; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủ ro trong toàn bộ
quá trình vay nợ. Để đảm bảo hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ
hai nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ
sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả
nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay
được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng.
Năm là, công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công.
Việc tăng công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản
nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc
quan trọng dó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà
nước và phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã có những ảnh hưởng đến không chỉ các nước
trong khu vực Châu Âu nói riêng mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế thế giới. Cuộc khủng
hoảng này đã để lại cho thế giới một bài học sâu sắc về tầm quan trọng của việc duy trì tính bền
vững của nợ công.
Từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, đặc biệt là nguy cơ vỡ nợ ở Hy Lạp một lần nữa
cho chúng ta thấy rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn nhiều rủi ro khi sự tăng trưởng
phụ thuộc quá quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng

giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt toàn khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quản
lý chi tiêu công,…Vì vậy, để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cũng như đảm
bảo tính bền vững của nợ công, Chính phủ cần nhanh chóng tái cấu trúc nền kinh tế, cải thiện
chất lượng tăng trưởng và nâng cao hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Thành (2011), “Nợ công ở Việt Nam, một số phân tích và thảo luận”, Hội thảo
về kinh tế Việt Nam năm 2011, triển vọng năm 2012 và các giải pháp thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội 2011-2015.
2. Báo cáo nghiên cứu RS-OS-NXB Tri thức, “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ,
hiện tại và tương lai”.
3. Bộ Tài chính (2017). Bản tin nợ công.
4. Bộ Tài chính (2017). Một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ công. Hà Nội.

19


5. Bộ Tài chính (2009). Đề cương giới thiệu Luật quản lý nợ công.
6. World Bank, IMF, Tổng cục thống kê, Bộ tài chính

20



×