Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu thành phần loài, tính gây bệnh và khả năng phòng chống nấm colletotrichum spp gây bệnh thán thư ớt tại đồng bằng sông hồng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.49 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN DUY HƯNG

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI, TÍNH GÂY BỆNH
VÀ KHẢ NĂNG PHÒNG CHỐNG NẤM Colletotrichum spp.
GÂY BỆNH THÁN THƯ ỚT TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Chuyên ngành : Bảo vệ thực vật
Mã số

: 9620112

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

HÀ NỘI - 2020


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. Hà Viết Cường
2. TS. Hoàng Chúng Lằm

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Viết
Viện Nghiên cứu và Phát triển Nafoods

Phản biện 2: GS.TS. Phạm Xuân Hội
Viện Di truyền Nông nghiệp

Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Mão


Trường Đại học Nông lâm, Đại học Thái Nguyên

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
Họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi
giờ, ngày tháng năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Lương Định Của,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
1


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây ớt (Capsicum sp) thuộc chi Capsicum, họ cà (Solanaceae) có xuất
xứ từ Mehico, Goatemala và từ trung tâm khởi nguyên Đông Nam Á.
Trong nhóm cây trồng thuộc họ cà (Solanaceae), cây ớt có tầm quan trọng
thứ hai chỉ sau cây cà chua. Ngày nay, ớt được trồng rộng rãi trên toàn thế
giới từ 55o vĩ độ bắc đến 55o vĩ độ nam.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là một trong những vùng sản xuất ớt
hàng hóa tập trung lớn của nước ta. Theo Tổng cục thống kê, đến năm 2017
diện tích trồng ớt của ĐBSH đạt 5.049 ha và sản lượng là 79.640 tấn. Hiện
nay, cây ớt được xem là một trong những cây trồng quan trọng, mang lại
hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất.
Cũng như nhiều cây trồng khác, cây ớt bị tấn công bởi nhiều dịch hại.
Trong số các dịch hại ớt, nấm Colletotrichum spp. (gây bệnh thán thư) được
xem là nguy hiểm nhất (Than et al., 2008a). Tại Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan
bệnh làm giảm từ 10 - 80% năng suất, cá biệt tại bang Ohio, Mỹ bệnh đã làm

giảm gần 100% năng suất của cây ớt (Kumar, 2014; Sheu, 2013; Than et al.,
2008a). Tại Việt Nam, tất cả các vùng trồng ớt tập trung đều bị bệnh thán thư
phá hại nặng.
Cho tới năm 2008, thành phần loài Colletotrichum gây bệnh thán thư
ớt công bố trên thế giới khá đa dạng, bao gồm ít nhất 7 loài
C. gloeosporioides, C. capsici, C. acutatum, C. coccodes, C. dematium,
C. nigrum và C. atramentarium. Thành phần loài Colletotrichum gây bệnh
thán thư trên cây ớt ở các quốc gia, các vùng khác nhau là khác nhau. Đến
nay, đã có nhiều kết quả nghiên cứu về các loài được ghi nhận song vẫn
còn nhiều điều cần được nghiên cứu thêm về quá trình lây bệnh và về mối
quan hệ phức hợp giữa các loài (Than et al., 2008a).
Tại Việt Nam, trước khi thực hiện đề tài này, ít nhất 4 loài là
C. acutatum, C. capsici, C. gloeosporioides, C. nigrum đã được công bố
gây bênh thán thư ớt (Don et al., 2007; Ngô Bích Hảo, 1991, 1992).
Việc định danh nấm Colletotrichum hại ớt (cũng như các loài
Colletotrichum khác) dựa vào đặc điểm hình thái (màu sắc, tốc độ phát
1


triển và cấu trúc tản nấm; hình dạng, kích thước bào tử phân sinh, đĩa áp ...)
đã có quá nhiều nhầm lẫn. Nguyên nhân là do đặc điểm hình thái của các
loài Colletotrichum có sự phụ thuộc cao vào điều kiện môi trường (Hyde et
al., 2009a). Theo Weir et al. (2012) và Damm et al. (2012a)
C. gloeosporioides và C. acutatum thực chất là các phức hợp loài, trong đó
C. gloeosporioides gồm ít nhất 23 loài khác nhau và C. acutatum gồm ít
nhất 31 loài khác nhau.
Đối với nấm Colletotrichum gây bệnh thán thư trên ớt, các nghiên cứu
phân loại mới gần đây, dựa trên phân tích phân tử, cho thấy đã có thay đổi
lớn về thành phần loài so với công bố trước đây. Tại Ấn Độ, định danh lại
52 mẫu nấm C. gloeosporioides sensu lato (s.l) cho thấy chúng thuộc 2 loài

là C. fructicola và C. siamense (Sharma & Shenoy, 2013). Tại Thái Lan, 4
loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt đã được xác định là
C. gloeosporioides sensu stricto (s.s), C. siamense, C. acutatum và
C. truncatum (Suwannarat et al., 2017). Tại Trung Quốc, phân tích trình tự
của các mẫu nấm Colletotrichum thu tại 29 tỉnh đã xác định được 15 loài
trong đó có 5 loài phổ biến là C. fioriniae, C. fructicola, C. gloeosporioides
s.s, C. scovillei và C. truncatum (Diao et al., 2017).
Xác định chính xác thành phần cũng như định danh đúng nấm
Colletotrichum có vai trò quan trọng không những về mặt khoa học mà còn
trong thực tiễn quản lý bệnh vì quan hệ giữa nấm với cây ký chủ cũng như
tính mẫn cảm với thuốc hóa học khác nhau theo loài. Kim et al. (2004) đã
cho thấy C. acutatum và C. gloeosporioides có thể nhiễm trên quả ớt ở mọi
giai đoạn phát triển quả nhưng thường không gây bệnh trên lá và thân. Trái
lại C. coccodes và C. dematium gây hại chủ yếu trên lá và thân cây ớt, đặc
biệt cây con. Các loài Colletotrichum cũng có tính gây bệnh khác nhau theo
giai đoạn phát triển của quả ớt. Chẳng hạn, C. capsici gây hại phổ biến trên
quả ớt đã chín đỏ, trong khi C. acutatum và C. gloeosporioides gây hại phổ
biến trên cả quả ớt xanh và chín (Hong & Hwang, 1998; Kim et al., 1999).
Hiện tại, việc phòng trừ bệnh thán thư hại ớt ngoài sản xuất chủ yếu
bằng thuốc hóa học, chưa thu được hiệu quả như mong muốn. Nguyên nhân
chủ yếu là: (i) thiếu thông tin đầy đủ, cập nhật và chính xác về thành phần
loài Colletotrichum gây bệnh, đặc biệt khi các tiêu chí phân loại chi nấm
2


này đang thay đổi nhanh chóng; (ii) thiếu thông tin về các đặc điểm sinh
học của các loài/ kiểu gây bệnh của nấm Colletotrichum phổ biến nhất,
trong đó quan trọng là tính gây bệnh trên các giống ớt và phản ứng với các
thuốc trừ nấm khác nhau. Việc xác định các thông tin trên có vai trò quan
trọng vì nó sẽ là cơ sở khoa học chủ yếu để đề xuất các biện pháp kỹ thuật

nhằm phòng chống hiệu quả bệnh thán thư hại ớt tại Việt Nam.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục đích
Xác định được thành phần loài cũng như đánh giá được một số đặc
điểm sinh học chủ yếu của nấm Colletotrichum hại ớt tại ĐBSH.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được hiện trạng gây hại của bệnh thán thư ớt tại ĐBSH.
- Xác định được thành phần, mức độ phổ biến và phương pháp chẩn
đoán nhanh các loài nấm Colletotrichum chính hại ớt tại ĐBSH.
- Xác định được tính gây bệnh của các loài nấm Colletotrichum chính
phát hiện được trên cây ớt tại ĐBSH.
- Đánh giá được hiệu lực của một số thuốc hóa học, vi khuẩn đối
kháng và dịch chiết địa y đối với các loài Colletotrichum chính phát hiện
được trong điều kiện in vitro.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh thán thư gây hại trên cây ớt do nấm Colletotrichum spp. gây ra.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về thành phần loài, một số đặc tính sinh
học, tính gây bệnh và một số biện pháp phòng chống nấm Colletotrichum
spp. trong điều kiện in vitro.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đã xác định được 5 loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt tại
ĐBSH và một số tỉnh gồm C. truncatum, C. gloeosporioides s.s,
C. siamense, C. fructicola và C. aeschynomenes. Ngoại trừ loài
C. truncatum, 4 loài nấm còn lại đã được phát hiện thấy gây hại trên cây ớt
tại Việt Nam lần đầu tiên. Trong 5 loài nấm phát hiện, C. siamense là loài
3



phổ biến nhất (51,9%), các loài khác: C. fructicola (21,2%), C. truncatum
(15,4%), C. gloeosporioides s.s (9,6%) và C. aeschynomenes (1,9%).
Đã thiết kế được 4 cặp mồi đặc hiệu phục vụ chẩn đoán các loài
Colletotrichum chính gây bệnh thán thư ớt gồm C. gloeosporioides s.s,
C. fructicola, C. siamense và C. truncatum. Ngoài ra, đã hoàn thiện phương
pháp chẩn đoán nhanh các loài nấm Colletotrichum bằng kỹ thuật PCR.
Đã xác định được bào tử của 2 loài nấm C. siamense và
C. truncatum có khả năng nảy mầm, hình thành đĩa áp, xâm nhập trực tiếp
qua tầng cutin, duy trì trạng thái ngủ nghỉ/ nội sinh sau khi xâm nhập và
không gây triệu chứng trên lá ớt tới ít nhất 6 tuần sau lây nhiễm. Đây là
một phát hiện mới về vị trí tồn tại của nguồn bệnh thán thư ớt. Ngoài ra, kết
quả cũng giúp giải thích được lý do tại sao bệnh thán thư trên lá ớt lại hiếm
gặp trên đồng ruộng và lây nhiễm nhân tạo trên lá không dẫn tới hình thành
vết bệnh.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp các thông tin cập nhật và
chính xác về phân loại, đặc điểm sinh học và tính gây bệnh của nấm
Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt. Định danh chính xác các loài
Colletotrichum hại ớt có ý nghĩa khoa học quan trọng, đóng góp vào hiện
trạng phân loại lại các loài Colletotrichum trên thế giới.
Đặc tính xâm nhiễm của nấm Colletotrichum trên lá ớt được xác định
trong luận án đã đóng góp vào hiểu biết chung về mối quan hệ sinh học
giữa nấm Colletotrichum và cây ký chủ.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện nay, bệnh thán thư là một trong các nguyên nhân quan trọng nhất
cản trở sản xuất ớt tại Việt Nam. Xác định được lá không biểu hiện triệu
chứng có thể là nguồn bệnh quan trọng để tiếp tục gây hại trên quả sẽ giúp
điều chỉnh kỹ thuật phòng chống phù hợp, trong đó cần chú trọng phòng trừ
bệnh ngay từ giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng. Các kết quả nghiên cứu

phòng trừ trong phòng thí nghiệm sẽ là tiền đề để lựa chọn các thuốc hóa
học phù hợp để giảm thiểu mức độ gây hại của bệnh trên đồng ruộng.
4


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ỚT TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Đến năm 2018, diện tích trồng ớt của thế giới đạt 1,99 triệu ha, năng
suất bình quân đạt 18,47 tấn/ha và sản lượng đạt 36,77 triệu tấn. Châu Á
được xem là trung tâm lớn về sản xuất ớt của thế giới, chiếm 69% sản
lượng ớt toàn cầu. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia sản xuất ớt lớn nhất
thế giới với sản lượng chiếm 49% sản lượng toàn cầu (FAOSTAT, 2020).
Ở nước ta, đến năm 2017 diện tích trồng ớt của cả nước đạt 43.807 ha,
năng suất bình quân đạt 13,72 tấn/ha và sản lượng đạt 579,92 nghìn tấn.
ĐBSH là vùng sản xuất ớt hàng hóa tập trung lớn nhất khu vực phía Bắc và
là một trong bốn vùng sản xuất ớt hàng hóa tập trung của cả nước. Diện
tích trồng ớt của vùng hiện tại đạt 5.049 ha, năng suất trung bình đạt 15,8
tấn/ ha và sản lượng đạt 79,64 nghìn tấn (Tổng cục Thống kê, 2018).
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
2.2.1. Tầm quan trọng của bệnh thán thư
Bệnh thán thư trên ớt được công bố lần đầu tiên tại New Jersey (Mỹ)
vào năm 1890 bởi Halsted và cho tới nay đã được công bố ở khắp các nước
trồng ớt trên thế giới. Các loài nấm Colletotrichum spp. có thể gây bệnh
trên hầu hết các bộ phận của cây ớt, tuy nhiên bệnh trên quả có ý nghĩa
quan trọng hơn cả. Hiện nay, bệnh được xem là đối tượng có ý nghĩa kinh
tế quan trọng nhất trên cây ớt ở tất cả các nước. Tại Hàn Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan bệnh làm giảm từ 10 - 80% năng suất, cá biệt tại bang Ohio, Mỹ
bệnh đã làm giảm gần 100% năng suất của cây ớt (Kumar, 2014; Sheu,
2013; Than et al., 2008a).
2.2.2. Phân loại nấm Colletotrichum

Colletotrichum (họ Glomerellaceae, bộ Sordariomycetidae, lớp
Sordariomycetes, ngành Ascomycota (Sutton et al., 1992) là một chi nấm
lớn, có lịch sử phân loại phức tạp và trải qua nhiều giai đoạn.
Tên nấm Colletotrichum được giới thiệu lần đầu tiên bởi Corda vào năm
1837. Từ thời điểm đó cho tới nay có rất nhiều nghiên cứu về khác nhau về
phân loại nấm. Tuy nhiên, đến nay các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phân loại nấm
Colletotrichum chỉ dựa vào các đặc điểm hình thái đã tạo ra quá nhiều sai lầm
do sự phụ thuộc cao của các đặc điểm hình thái vào điều kiện môi trường nên
5


phân tích phân tử được xem là chuẩn vàng trong phân loại nhóm nấm này.
Hiện nay, vùng gen ITS, MAT và một loạt các gen nền khác cũng đã được ứng
dụng trong phân loại nấm Colletotrichum (Sreenivasaprasad et al., 1992;
Cannon et al., 2000; Hyde et al., 2009a; Damm et al., 2012a, 2014; Weir et
al., 2012; Cannon et al., 2012 …).
2.2.3. Thành phần nấm Colletotrichum gây hại trên ớt
Thành phần loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt công bố trên thế
giới khá đa dạng và được nhiều tác giả đề cập như Don et al. (2007); Than
et al. (2008a, 2008b); Ko et al. (2011); Suwannarat et al. (2017); Diao et
al. (2017); De Silva et al. (2017a) …
2.2.4. Một số loài nấm Colletotrichum chính gây hại ớt
Các đặc điểm về hình thái, phạm vi ký chủ của các loài, phức hợp loài
nấm Colletotrichum chính gây hại trên cây ớt được nhiều tác giả nghiên
cứu và đề cập như Cannon et al. (2008); Damm et al. (2009); Prihastuti et
al. (2009); Yang et al. (2009); Weir et al. (2012); Liu et al. (2017) …
2.2.5. Xâm nhiễm gây bệnh của nấm Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt
Quá trình xâm nhiễm gây bệnh của nấm Colletotrichum được nhiều
tác giả nghiên cứu như De Silva et al. (2017b); Munch et al. (2008);
O'Connell et al. (2012); Wharton & Diéguez-Uribeondo (2004) ...

2.2.6. Khả năng truyền qua hạt ớt của nấm Colletotrichum
Khả năng truyền qua hạt ớt của nấm Colletotrichum được nhiều tác
giả đề cập Nik et al. (1988); Than et al. (2008a); Hemannavar et al. (2009);
Chigoziri & Ekefan (2013) …
2.2.7. Đặc điểm sinh thái nấm Colletotrichum gây bệnh trên ớt
Các đặc điểm sinh thái (nhiệt độ, ẩm độ, khả năng tồn tại …) được đề
cập bởi các tác giả Pring et al. (1995) và Than et al. (2008a).
2.3. PHÒNG CHỐNG NẤM Colletotrichum TRÊN ỚT
Nghiên cứu các biện pháp phòng chống nấm Colletotrichum gây hại
trên cây ớt được nhiều tác giả đề cập như Mahasuk et al. (2009a); Hasyim
et al. (2014); Ranasingh et al. (2010); Yadav et al. (2014); Rashid et al.
(2015); Mongkolporn (2019) …
2.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Các nghiên cứu về thành phần loài, đặc điểm hình thái, quy luật phát
6


sinh, gây hại … của một số loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt tại
Việt Nam được nghiên cứu và đề cập bởi các tác giả Ngô Bích Hảo (1991,
1992, 1993) và Trần Tú Ngà & cs. (1993).
Một số kết quả nghiên cứu về các biện pháp phòng trừ bệnh thán thư
do nấm Colletotrichum gây hại trên cây ớt được một số tác giả đề cập như
Trần Nguyễn Hà & cs. (2005); Trần Thị Thu Thủy & cs. (2010); Nguyễn
Thị Liên & cs. (2016); Phạm Đình Dũng & cs. (2017) ...
Tóm lại: Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gây là đối tượng có ý
nghĩa kinh tế quan trọng nhất trên cây ớt ở tất cả các nước. Đến thời điểm
hiện tại trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu chi tiết về thành phần
loài, tính gây bệnh và biện pháp phòng trừ cụ thể cho từng loài nấm. Tuy
nhiên, đến nay ở nước ta chưa có những nghiên cứu mang tính hệ thống về
các lĩnh vực trên đối với bệnh thán thư hại ớt. Chính vì vậy, việc triển khai

nghiên cứu các vấn đề trên là hết sức cần thiết.
PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vật liệu
Mẫu bệnh thán thư được thu thập trên các giống ớt được trồng phổ
biến ngoài sản xuất. Giống ớt sử dụng trong lây bệnh nhân tạo gồm:
Demon, Lai 20, Chìa vôi và Sussan’ Joy.
3.1.2. Thiết bị, dụng cụ
- Thiết bị nghiên cứu: máy PCR, kính hiển vi, tủ lạnh bảo quản mẫu,
tủ định ôn, nồi hấp khử trùng, buồng nuôi cấy vi sinh, v.v...
- Dụng cụ nghiên cứu: Pipet tự động 1 đầu côn, buồng đếm hồng cầu,
đĩa petri, ống nghiệm, que cấy nấm, lamen, lam kính, đèn cồn v.v...
3.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Điều tra, thu thập mẫu bệnh được thực hiện tại tại các tỉnh thuộc
ĐBSH và một số tỉnh khác như Thái Nguyên, Bắc Giang, Sơn La và Tiền
Giang. Nghiên cứu trong phòng được thực hiện tại Trung tâm Bệnh cây
nhiệt đới, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Nghiên cứu Rau quả.
Đề tài được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2019.
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
7


- Điều tra đánh giá tác hại và thu thập mẫu bệnh thán thư ớt.
- Xác định thành phần loài nấm Colletotrichum hại ớt tại ĐBSH và
một số tỉnh.
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, tính gây bệnh của các loài
nấm Colletotrichum chính phát hiện được.
- Đánh giá hiệu lực của một số thuốc hóa học, vi khuẩn đối kháng đối
với các loài Colletotrichum được phát hiện trong điều kiện in vitro.
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp điều tra theo QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT.
- Phân lập nấm theo qui trình của Cai et al. (2009). Bảo quản mẫu
nấm theo phương pháp của Abd-Elsalam et al. (2010).
- Phương pháp chiết DNA mẫu nấm được thực hiện theo Doyle &
Doyle (1987) và Wang et al. (1993).
- Định danh mẫu nấm được thực hiện bằng cặp mồi: ITS4 & ITS5
(White et al., 1990) và AM-F & AM-R (Silva et al., 2012).
- Mồi đặc hiệu được thiết kế dựa trên các trình tự gen đã công bố về
các loài chuẩn (Cannon et al., 2012; Damm et al., 2012a, 2012b; Weir et
al., 2012). Các trình tự lựa chọn được phân tích bằng phần mềm ClustalX
2.0 (Larkin et al., 2007).
- Đặc điểm tản nấm, hình dạng bào tử, đĩa áp được đánh giá theo
phương pháp của Cai et al. (2009), Than et al. (2008b), Johnston & Jones,
(1997).
- Xác định tính gây bệnh của các loài được thực hiện theo phương
pháp của Montri et al. (2009) và Than et al. (2008b). Đánh giá khả năng
tồn tại của một số loài Colletotrichum trên lá ớt được thực hiện theo
phương pháp của Ranathunge et al. (2016).
- Đánh giá khả năng ức chế của một số loại thuốc hóa học, dịch chiết
địa y và vi khuẩn đối kháng đến với các loài nấm Colletotrichum trong điều
kiện invitro được thực hiện theo phương pháp của Gopinath et al. (2006) và
Kumar et al. (2012). Hiệu lực của thuốc hóa học, vi khuẩn đối kháng, dịch
chiết địa y được tính theo công thức Abbott (1925).
- Phân tích đa dạng được thực hiện dùng các phầm mềm ClustalX 2.0
và MEGA 6.0. Các số liệu thí nghiệm khác được xử lý thống kê theo
phương pháp phân tích phương sai bằng phần mềm IRRISTART 5.0.
8


PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ TÁC HẠI VÀ THU THẬP MẪU BỆNH
THÁN THƯ ỚT
4.1.1. Mức độ phổ biến của bệnh thán thư hại ớt tại ĐBSH
Kết quả điều tra từ năm 2015 - 2017 trên các ruộng ớt tại các tỉnh
thuộc ĐBSH ở giai đoạn thu quả lứa 1 đã ghi nhận được bệnh thán thư là
đối tượng gây hại rất phổ biến trong cả vụ xuân hè và thu đông. Kết quả này
một lần nữa thể khẳng định bệnh thán thư là một trong những bệnh nguy hiểm
nhất gây hại trên cây ớt.
4.1.2. Kết quả điều tra thực trạng bệnh thán thư hại ớt tại các điểm thu
thập mẫu
Trong các năm 2015 - 2017, điều tra tại các tỉnh thuộc ĐBSH đã xác
định được bệnh thán thư gây hại trên tất cả các giống ớt đang trồng ngoài
sản xuất. Bệnh gây hại từ khi cây thu hoạch quả lứa 1, mức độ gây hại tăng
dần ở các lứa quả tiếp theo. Kết quả thu được phù hợp với các công bố của
của Ngô Bích Hảo (1991, 1992, 1993). Ngoài ra, kết quả thu được cũng
chứng tỏ hiện chưa có giống ớt nào kháng bệnh thán thư ngoài sản xuất.
4.1.3. Kết quả thu thập mẫu bệnh thán thư ớt
Đã thu thập được 52 mẫu quả ớt bị bệnh thán thư, trong đó có 41 mẫu
được thu tại 9 tỉnh thuộc ĐBSH và 11 mẫu thu tại một số tỉnh khác. Các mẫu
thu thập có 2 dạng triệu chứng điển hình: (1) Vết bệnh là các đốm tròn đồng
tâm hoặc hình thoi, hơi lõm. Bề mặt vết bệnh có những chấm nhỏ li ti màu
đen xếp thành vòng tròn đồng tâm hoặc lộn xộn; (2) Vết bệnh là các đốm
tròn đồng tâm hoặc hình thoi, hơi lõm. Bề mặt vết bệnh có những khối bào
tử màu vàng, ẩm ướt, xung quanh vết bệnh thường có viền đen (có hình
minh họa). Trong 2 dạng triệu chứng điển hình thu thập, triệu chứng 2 chiếm
đa số khi có 41/52 mẫu, triệu chứng 1 chỉ chiếm 11/52 mẫu.
4.1.4. Đặc điểm hình thái của các mẫu nấm gây bệnh thán thư ớt
Hình dạng bào tử, đĩa áp của 52 mẫu nấm thu thập được phân thành 3
nhóm hình thái: Nhóm I gồm 43 mẫu có bào tử phân sinh hình trụ, hai đầu
tù tới tròn, kích thước dao động từ 10,6 - 12,6 × 3,6 - 5,1 µm. Đĩa áp có

kích thước 6,6 - 8,8 × 4,8 - 6,2 µm, màu nâu đến nâu đậm, hình trứng, tày,
elip tới gần hình thoi, một số có hình dạng không đều; Nhóm II gồm 1 mẫu
9


có bào tử giống với nhóm I. Tuy nhiên một số đĩa áp của nấm có mức độ
chẻ thùy sâu hơn so với nhóm I; Nhóm 3 gồm 8 mẫu có bào tử phân sinh
hình lưỡi liềm, kích thước dao động từ 21,5 - 22,4 × 3,5 - 3,7 µm. Đĩa áp
giống nhóm I, có màu nâu đến nâu đậm, hình trứng, tày, elip tới gần hình
thoi, một số có hình dạng không đều (có hình minh họa).
So sánh kết quả quan sát thu được với các công bố của Weir et al.
(2012) và Damm et al. (2009) chúng tôi nhận thấy: các mẫu nấm thuộc
nhóm I và nhóm II có các đặc điểm hình thái gần giống với các loài nấm
thuộc phức hợp loài C. gloeosporioide sensu lato (s.l); Các mẫu nấm nhóm
III là loài C. truncatum. Như vậy, đặc điểm hình thái chưa đủ để xác định
chính xác đến mức loài các mẫu nấm Collettrichum được thu thập.
Kết quả quan sát triệu chứng vết bệnh và đặc điểm hình thái của các
mẫu nấm thu thập cũng cho thấy, triệu chứng bệnh quan sát được trên quả
không thể hiện tính đặc trưng cho các loài hoặc nhóm loài Colletotrichum
gây bệnh thán thư trên quả ớt.
4.2. XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN LOÀI NẤM Colletotrichum HẠI ỚT
TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ MỘT SỐ TỈNH
4.2.1. Định danh nấm dựa trên giải trình tự gen các mẫu nấm đại diện
thuộc các nhóm hình thái xác định được
4.2.1.1. Định danh các loài Colletotrichum bằng giải trình tự vùng ITS
10 mẫu nấm đại diện thuộc 3 nhóm hình thái đã được giải trình tự trên
vùng liên gen ITS. Sau khi loại bỏ các vùng nhiễu 2 đầu, trình tự đọc được
vùng ITS của 10 mẫu có kích thước từ 529 đến 563 bp.
Kết quả tìm kiếm trên Ngân hàng gen bằng phần mềm BLAST cho
thấy 2 mẫu C25 và C30 trùng khớp với loài C. truncatum. Tám mẫu còn lại

đều trùng khớp với các loài thuộc phức hợp loài C. gloeosporioides s.l.
Kết quả so sánh trình tự các mẫu nấm cho thấy: hai mẫu C25 và C30
có mức đồng nhất trình tự rất cao từ 99,8 - 100% với loài C. truncatum
giống như kết quả tìm kiếm BLAST. Hai mẫu có mức đồng nhất trình tự
thấp hơn nhiều, từ 87,8 - 90,8% đối với các loài thuộc phức hợp loài
C. gloeosporioides s.l và từ 76,1 - 88,4% đối với 4 loài còn lại là
C. coccodes, C. dematum s.s và C. simmondsii.
Phân tích phả hệ dựa trên trình tự vùng ITS cũng cho thấy 2 mẫu C25
và C30 thuộc cụm loài C. truncatum điển hình. Tương tự như kết quả tìm
10


kiếm BLAST và so sánh trình tự, phân tích phả hệ dựa trên vùng ITS cũng
cho thấy tám mẫu còn lại gồm C1, C4, C6, C9, C14, C26, C33 (nhóm hình
thái I) và C29 (nhóm hình thái II) phân nhóm rõ rệt trong cụm phức hợp
loài C. gloeosporioides s.l (hình 4.1).

Chú thích: Cây được xây dựng bằng phương pháp Neighbor-Joining (NJ). Giá trị ở các nốt là giá trị
thống kê boostrap dưới dạng % (1000 lần lặp) (chỉ trình bày các giá trị > ngưỡng tin cậy chung 75%).
Ký tự (T) là mẫu đại diện loài (Type strain). Thanh tỷ lệ chỉ khoảng cách di truyền.

Hình 4.1. Phân tích phả hệ dựa trên trình tự vùng ITS của các mẫu nấm
Colletotrichum thuộc phức hợp loài C. gloeosporioides s.l và các loài
được công bố gây bệnh thán thư ớt
11


Kết quả thu được hoàn toàn phù hợp với công bố của Cannon et al.
(2012) khi vùng ITS không đủ để phân biệt các loài thuộc một số phức hợp
loài như C. gloeosporioides s.l.

4.2.1.2. Định danh phân tử các loài Colletotrichum bằng vùng liên gen
ApMat
Chín mẫu nấm thuộc phức hợp loài C. gloeosporioides s.l được giải
trình tự bằng vùng liên gen ApMat. Kết quả giải trình tự thu được có chất
lượng tốt, kích thước từ 894 đến 930 bp.

Chú thích: Cây được xây dựng bằng phương pháp Neighbor-Joining (NJ). Giá trị ở các nốt là giá trị thống kê
boostrap dưới dạng % (1000 lần lặp) (chỉ trình bày các giá trị > ngưỡng tin cậy chung 75%).
Ký tự (T) là mẫu đại diện loài (Type strain). Thanh tỷ lệ chỉ khoảng cách di truyền

Hình 4.2. Phân tích phả hệ dựa trên trình tự vùng ApMat của các mẫu nấm
Colletotrichum thuộc phức hợp loài C. gloeosporioides s.l
12


Kết quả tìm kiếm BLAST cho thấy các trình tự GenBank trùng khớp
với 3 mẫu C1, C6, C9 là loài C. fructicola, trùng khớp với 2 mẫu C4, C33 là
loài C. siamense, trùng khớp với 3 mẫu C9, C26, C44 là loài
C. gloeosporioides s.s, và trùng khớp với mẫu C29 là loài C. aeschynomenes.
Kết quả so sánh trình tự vùng ApMat cho thấy: Ba mẫu C9, C44, C26
có mức đồng nhất trình tự rất cao, từ 98,6 - 98,8% đối với các mẫu của loài
C. gloeosporioides s.s. Hai mẫu C4, C33 có mức đồng nhất trình tự rất cao,
từ 98,2 - 99,7% đối với các mẫu của loài C. siamense. Ba mẫu C1, C6 và
C14 có mức đồng nhất trình tự rất cao, từ 99,7 - 100% đối với các mẫu của
loài C. fructicola. Mẫu C29 có mức đồng nhất trình tự rất cao, 99,3% đối
với loài C. aeschynomenes.
Phân tích phả hệ dựa trên trình tự vùng ApMat (hình 4.2) cũng cho
thấy ba mẫu C9, C44, C26 thuộc cụm loài C. gloeosporioides s.s điển hình,
hai mẫu C4, C33 thuộc cụm loài C. siamense điển hình, ba mẫu C1, C6,
C14 thuộc cụm loài C. fructicola điển hình nhưng gần gũi với 2 loài

C. aenigma và C. alienum. Riêng mẫu C29, cùng với mẫu loài duy nhất
C. aeschynomenes trên GenBank hình thành một cụm loài đặc trưng phân
biệt rõ rệt với các loài khác.
4.2.2. Tổng kết thành phần loài Colletotricum được phát hiện trên cây
ớt tại đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh
Kết quả định danh bằng giải trình tự vùng ITS và ApMat đã xác định
được thành phần loài của các mẫu nấm Colletotrichum thu thập tại ĐBSH
và một số tỉnh gồm 5 loài là: C. truncatum, C. fructicola, C. siamense,
C. gloeosporioides s.s và C. aeschynomenes. Trong 5 loài xác định, ngoại
trừ loài C. truncatum, 4 loài còn lại là các loài lần đầu tiên được phát hiện
gây hại trên cây ớt tại Việt Nam (hình 4.3).
Nhìn chung, các đặc điểm hình thái (màu sắc, cấu trúc tản nấm; hình
dạng, kích thước bào tử phân sinh, đĩa áp) của 5 loài nấm phát hiện được
đều trùng khớp với đặc điểm hình thái các loài chuẩn đã được công bố của
các tác giả Cannon et al. (2008), Damm et al. (2009), Prihattusi et al.
(2009) và Weir et al. (2012).
13


Chú thích: A - C. gloeosporioides s.s (mẫu C44), B - C. siamense (mẫu C4), C - C. fructicola (mẫu C1),
D - C. aechynomenes (mẫu C29), E - C. truncatum (mẫu C30). Ký tự a và b lần lượt là mặt trên và mặt
dưới của tản nấm trên môi trường PDA sau cấy 7 ngày, c và d lần lượt là bào tử phân sinh và đĩa áp.
Thanh bar: 10 µm

Hình 4.3. Đặc điểm hình thái 5 loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt
xác định được tại đồng bằng sông Hồng

4.2.3. Phát triển kỹ thuật PCR chẩn đoán nhanh các loài nấm
Colletotrichum gây hại trên cây ớt
4.2.3.1. Thiết kế mồi đặc hiệu chẩn đoán nhanh loài Colletotrichum

Dựa trên kết quả so sánh giải trình tự các mẫu nấm dựa trên vùng ITS
và ApMat với các mẫu chuẩn của các loài đã được công bố trên GenBank
đã thiết kế được 4 cặp mồi đặc hiệu C.sia-F1/-R1, C.glo-F/-R, C-tru-F-/R
và C.fru-F1/-R1. Các cặp mồi thiết kế có các tham số về chất lượng mồi
phù hợp với các công bố về hướng dẫn về thiết kế mồi PCR của
Dieffenbach et al. (1993), Judelson (2006) và Rychlik et al. (1990). Cụ thể:
độ dài 18 - 22 nucleotide, nhiệt độ tách sợi 41,2 - 53,8oC, nhiệt độ gắn mồi
53,0 - 55,9oC, hàm lượng GC 42,9 - 57,9% ... Các cặp mồi này sẽ được
dùng để xác định các loài nấm C. gloeosporioides s.s, C. fructicola, C.
siamense và C. truncatum gây bệnh thán thư ớt.
14


4.2.3.2. Tối ưu hóa nhiệt độ gắn mồi phù hợp cho các cặp mồi thiết kế
Các cặp mồi đặc hiệu tự thiết kế được thử nghiệm ở 3 ngưỡng nhiệt độ
gắn mồi là 54oC, 58oC và 62oC. Kết quả PCR cho thấy: Hai cặp mồi C.tru-F
và C.tru-R (đặc hiệu loài C. truncatum) và C.glo-F và C.glo-R (đặc hiệu loài
C. gloeosporioides s.s) tạo vạch băng đặc hiệu đậm ở các nhiệt độ 58oC và
62oC và không tạo bất kỳ băng sản phẩm nào đối với các mẫu Colletotrichum
khác. Cặp mồi C.fruc-F1 và C.fruc-R1 (đặc hiệu loài C. fructicola), tạo băng
đặc hiệu rõ nét ở nhiệt độ 62oC và không tạo bất kỳ băng sản phẩm nào đối
với các mẫu Colletotrichum khác. Đối với cặp mồi C.sia-F1 và C.sia-R1 (đặc
hiệu loài C. siamense) tạo băng đặc hiệu rõ nét nhất ở nhiệt độ 62oC song vẫn
tạo băng không đặc hiệu đối với mẫu C1 (C. fructicola), tuy nhiên băng này
có thể phân biệt được với băng đặc hiệu (hình 4.4).
Như vậy, nhiệt độ gắn mồi tối ưu đối với các cặp mồi C.tru-F/-R, C.glo-F/R là từ 58 - 62oC, đối với các cặp mồi C.fru-F1/-R1, C.sia-F1/-R1 là 62oC.

Chú thích: Mũi tên chỉ băng sản phẩm mong muốn cho từng cặp mồi. Các giếng là các mẫu nấm đã
xác định danh tính: C25 và C30 (C. truncatum), C1 và C14 (C. fructicola), C4 và C33 (C. siamense),
C9 và C44 (C. gloeosporioides s.s), C29 (C. aeschynomenes)


Hình 4.4. PCR xác định nhiệt độ gắn mồi phù hợp
cho 4 cặp mồi đặc hiệu Colletotrichum
15


4.2.3.3. Tối ưu hóa phương pháp chiết DNA phục vụ chẩn đoán nhanh
các loài nấm Colletotrichum
Kết quả kiểm tra PCR so sánh chiết DNA bằng phương pháp truyền
thống (CTAB) và phương pháp cải biến (NaOH) cho thấy, băng PCR đặc
hiệu hình thành ở 8 mẫu nấm đều rõ tương đương nhau ở 2 phương pháp.
Điều đó chứng tỏ phương pháp chiết nhanh DNA mẫu nấm Colletotrichum
bằng NaOH thu được kết quả tương đương với phương pháp truyền thống
là CTAB (hình 4.5).

Chú thích: M là thang DNA 100 bp (Generuler 100 bp, Thermo Scientific) với các băng từ 100 - 500 bp
được chỉ bằng mũi tên. Các giếng là các mẫu nấm đã xác định danh tính: C25 và C30 (C. truncatum),
C1 và C14 (C. fructicola), C4 và C33 (C. siamense), C9 và C44 (C. gloeosporioides s.s)

Hình 4.5. Phản ứng PCR so sánh 2 phương pháp chiết DNA
từ nấm Colletotrichum với 4 cặp mồi đặc hiệu

Từ kết quả thu được có thể khẳng định phương pháp chiết nhanh bằng
NaOH biến đổi hoàn toàn phù hợp để chiết DNA từ mẫu nấm
Colletotrichum cho phản ứng PCR. Phương pháp chiết DNA cải biến này
có rất nhiều ưu điểm: (1) Cực kỳ nhanh chóng, chỉ gồm 2 bước là nghiền
sợi nấm hoặc bào tử trong NaOH và sau đó hòa loãng bằng đệm Tris; (2)
giảm thiểu nhiễm chéo giữa các mẫu do số bước chiết ít; (3) bảo vệ DNA
khỏi bị phân hủy bởi enzyme do NaOH phân hủy ngay lập tức các nuclease
được giải phóng trong quá trình nghiền.

4.2.4. Xác định thành phần, mức độ phân bố và đa dạng loài
Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt tại bằng PCR
4.2.4.1. Xác định thành phần loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt
tại đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh bằng PCR
Sử dụng 4 cặp mồi thiết kế đã xác định được thành phần loài
16


Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt thu thập tại ĐBSH và một một số tỉnh
gồm 27 mẫu nấm là loài C. siamense, 11 mẫu nấm là loài C. fructicola, 5
mẫu nấm là loài C. gloeosporioides s.s và 8 mẫu nấm là loài C. truncatum.
Riêng mẫu C29 phản ứng âm tính với cả 4 cặp mồi và giải trình tự vùng
ApMat đã xác định mẫu này là loài C. aeschynomenes (có hình minh họa).
4.2.4.2. Phân bố và mức độ đa dạng của các loài Colletotrichum gây
bệnh thán thư ớt tại đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh
Trong số 52 mẫu nấm thu thập được tại ĐBSH và một số tỉnh
C. siamense là loài nấm phổ biến nhất, với 27 mẫu thu thập (chiếm 51,9%).
Loài C. fructicola là loài nấm phổ biến thứ hai, với 11 mẫu (chiếm 21,2%).
C. truncatum là loài nấm phổ biến thứ ba, với 8 mẫu (chiếm 15,4%). Loài
C. gloeosporioides s.s là loài phổ biến thứ tư, với 5 mẫu (chiếm 9,6%).
Loài C. aeschynomenes chỉ phát hiện được 01 mẫu (chiếm 1,9%) (hình 4.6).

Hình 4.6. Phân bố các loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt
từ tất cả các địa điểm (A) và các tỉnh đồng bằng sông Hồng (B)

Nhìn chung, mức độ đa dạng loài Colletotrichum tại ĐBSH là khá cao.
Trong số các tỉnh thu thập mẫu, Hà Nội, Hưng Yên và Hải Phòng là 3 tỉnh có
thành phần loài đa dạng nhất khi có sự xuất hiện của cả 4 loài nấm là C.
gloeosporioides s.s, C. siamense, C. fructicola và C. truncatum tại mỗi tỉnh.
Hai tỉnh Hải Dương và Thái Bình cũng ghi nhận sự xuất hiện của 3 loài nấm là

C. siamense, C. fructicola và C. truncatum. Tỉnh Bắc Ninh xuất hiện 3 loài
nấm C. siamense, C. fructicola và C. gloeosporioides s.s. Tỉnh Nam Định xuất
hiện 2 loài nấm C. siamense và C. gloeosporioides s.s. Tỉnh Thái Nguyên xuất
hiện 2 loài nấm C. siamense và C. aeschynomenes. Tỉnh Tiền Giang xuất hiện
2 loài nấm C. siamense và C. truncatum. Các tỉnh Ninh Bình, Bắc Giang và
Sơn La ghi nhận sự xuất hiện chỉ 2 loài là C. siamense và C. fructicola. Duy
nhất, tỉnh Hà Nam ghi nhận 100% số mẫu thu thập là loài C. siamense.
17


4.3. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, TÍNH GÂY BỆNH CỦA CÁC LOÀI
Colletotrichum GÂY BỆNH THÁN THƯ ỚT ĐƯỢC THU THẬP
4.3.1. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng đến khả năng sinh
trưởng của các loài nấm Colletotrichum
Xác định được PDA là môi trường thích hợp nhất cho phát triển sợi
nấm. Tản nấm của các loài C. gloeosporioides s.s, C. siamense,
C. fructicola, C. aeschynomenes phát triển kín đĩa (90 mm) sau 7 ngày, loài
C. truncatum sau 9 ngày. Môi trường PCA là môi trường thích hợp nhất
cho việc hình thành bào tử của các loài nấm Colletotrichum. Trong 5 loài
nấm phát hiện, loài C. gloeosporioides s.s sinh bào tử kém nhất, 4 loài nấm
còn lại sinh bào tử dễ dàng hơn. Kết quả thu được hoàn toàn phù hợp với
các công bố của các tác giả Than et al. (2008a), Yang et al. (2009),
Chethana et al. (2015), Kommula et al. (2017) và Su et al. (2012).
4.3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng sinh trưởng của các loài
nấm Colletotrichum trên môi trường PDA
Luận án đã xác định được nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển tản nấm
và hình thành bào tử của các loài nấm. Cụ thể: loài C. gloeosporioides s.s
phát triển tản nấm thuận lợi nhất ở 25oC, bào tử chỉ hình thành trên môi
trường nuôi cấy ở 25 - 30oC. Loài C. siamense và C. fructicola phát triển
tản nấm và hình thành bào tử thuận lợi nhất ở 25 - 30oC. Loài

C. aeschynomenes phát triển tản nấm thuận lợi nhất ở 25oC, bào tử hình
thành thuận lợi ở 20 - 25oC. Loài C. truncatum phát triển tản nấm thuận lợi
nhất ở 25oC, bào tử hình thành thuận lợi ở 25 - 35oC.
4.3.3. Ảnh hưởng của pH đến khả năng sinh trưởng của các loài nấm
Colletotrichum trên môi trường PDA
Xác định được các loài C. gloeosporioides s.s, C. fructicola,
C. aeschynomenes C. truncatum có khả năng sinh trưởng, phát triển, sinh bào
tử thuận lợi nhất ở pH 6,0. Riêng loài C. siamense có khả năng sinh trưởng,
phát triển, sinh bào tử thuận lợi nhất ở khoảng pH rộng hơn, từ 5,0 - 6,0.
4.3.4. Tính gây bệnh của các loài Colletotrichum thu thập
4.3.4.1. Tính gây bệnh của các mẫu nấm đại diện cho mỗi loài trên cây ớt
Trong điều kiện lây nhiễm nhân tạo các loài nấm Colletotrichum
không xuất hiện triệu chứng bệnh trên lá và quả ớt xanh được lây bằng 2
phương pháp có gây tổn thương và không gây tổn thương sau 7 ngày theo
dõi. Triệu chứng bệnh chỉ xuất hiện khi lây bệnh trên quả ớt chín được lây
18


bệnh bằng phương pháp có tổn thương. Thời kỳ tiềm dục của các loài nấm
Colletotrichum khi lây bệnh trên quả ớt chín được xác định là 3,1 - 4,8
ngày tùy thuộc vào loài nấm và giống ớt. Hai loài nấm C. siamense và
C. truncatum có tỷ lệ quả nhiễm bệnh cao hơn các loài còn lại, đạt 66,7 93,3%. Loài C. aeschynomenes có tỷ lệ quả nhiễm bệnh thấp nhất, đạt 40,0
- 53,3%, tuy nhiên kích thước vết bệnh luôn đạt lớn nhất (8,1 - 13,2 mm) so
với các loài nấm khác (3,2 - 11,4 mm) khi lây bệnh trên cùng một giống ớt.
Kết quả này phù hợp với giải thích của Ahn et al. (2003) và các công bố của
Noor & Zakaria (2018), Akhtra et al. (2016), Ranathunge & Sandani
(2016) khi lây nhiễm nhân tạo các loài nấm Colletotrichum trên cây ớt.
Kết quả quan sát đặc điểm vết bệnh tạo ra sau lây nhiễm cho thấy,
triệu chứng bệnh tạo ra trên quả không mang tính đặc trưng cho các loài
nấm Colletotrichum và không có giá trị chẩn đoán.

4.3.4.2. Tính gây bệnh của các mẫu nấm đại diện cho mỗi loài trên quả
của một số cây trồng hay bị nhiễm bệnh thán thư
Tương tự kết quả thu được khi lây bệnh nhân tạo trên quả ớt, triệu chứng
bệnh không xuất hiện sau lây nhiễm 7 ngày trên các loại quả xanh (xoài, chuối
tiêu và chuối tây). Triệu chứng bệnh chỉ xuất hiện trên quả chín khi lây bệnh
bằng phương pháp có tổn thương. Trong 5 loài nấm sử dụng lây bệnh, vết
bệnh chỉ xuất hiện khi bệnh bằng các loài nấm thuộc phức hợp loài
C. gloeosporioides s.l, loài C. truncatum không xuất hiện bệnh trên cả 3
loại quả thí nghiệm. Thời kỳ tiềm dục của các loài nấm Colletotrichum khi
lây bệnh trên 3 loại quả chín được xác định là 3,0 - 3,7 ngày tùy thuộc vào
loài nấm và loại quả. Loài C. siamense có tỷ lệ quả nhiễm bệnh và đường
kính vết bệnh sau lây nhiễm lớn nhất trong số 4 loài nấm Colletotrichum
gây bệnh trên các loại quả chín (xoài, chuối tiêu và chuối tây).
4.3.5. Xác định khả năng tồn tại của bào tử các loài nấm C. siamense và
C. truncatum trên lá ớt
Luận án đã xác định được bào tử của 2 loài nấm C. siamense và
C. truncatum có khả năng nảy mầm, hình thành đĩa áp, xâm nhập trực tiếp
qua tầng cutin, duy trì trạng thái ngủ nghỉ/ nội sinh sau khi xâm nhập và
không gây triệu chứng trên lá ớt sau lây nhiễm 6 tuần (hình 4.7). Kết quả
này đã giúp xác định thêm một vị trí tồn tại quan trọng của nguồn bệnh trên
đồng ruộng. Ngoài ra, kết quả này cũng giúp giải thích tại sao bệnh thán
thư trên lá ớt không quan sát thấy ngoài đồng ruộng và tại sao không thể
19


lây nhiễm nấm trên lá dù lây bệnh bằng phương pháp gây tổn thương.
Kết quả này là cơ sở để đưa ra khuyến cáo về phòng trừ bệnh thán thư đối
với sản xuất. Để hạn chế tác hại của bệnh thán thư trên cây ớt cần tiến hành
phun thuốc tiêu diệt nguồn bệnh trước thời điểm quả chín từ 1 - 1,5 tháng.


Chú thích: Các đặc điểm quan trọng được chỉ bằng mũi tên đỏ

Hình 4.7. Đặc điểm của bào tử nấm C. siamense và C truncatum trên bề mặt
lá ớt giống Demon được lây nhiễm bằng phương pháp gây tổn thương

4.4. ĐÁNH GIÁ HIỆU LỰC CỦA MỘT SỐ THUỐC HÓA HỌC, VI
KHUẨN ĐỐI KHÁNG Bacillus spp VÀ DỊCH CHIẾT ĐỊA Y VỚI CÁC
LOÀI Colletotrichum ĐƯỢC PHÁT HIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO
4.4.1. Ảnh hưởng của một số thuốc hóa học đến khả năng sinh trưởng,
phát triển của các loài nấm Colletotrichum phát hiện được trong điều
kiện in vitro
Các thí nghiệm đánh giá khả năng ức chế sinh trưởng và nảy mầm bào
tử của 4 loại thuốc trừ nấm đối với 5 loài nấm Colletotrichum cho thấy:
Hiệu lực ức chế sinh trưởng tản nấm và nảy mầm bào tử đạt cao nhất ở
thuốc Score 250EC, tiếp đến là thuốc Tiptop 250EC, thuốc Antracol 70WP
và thấp nhất là thuốc Azony 25SC. Cụ thể, ở nồng độ khuyến cáo, thuốc
20


Score 250EC ức chế hoàn toàn sinh trưởng tản nấm và nảy mầm bào tử của
5 loài nấm. Thuốc Tiptop 250EC ức chế hoàn toàn sinh trưởng tản nấm của
3 loài C. gloeosporioides s.s, C. fructicola, C. aeschynomenes và ức chế
hoàn toàn nảy mầm bào tử của 2 loài C. fructicola, C. aeschynomenes. Trên
các loài còn lại hiệu lực ức chế sinh trưởng tản nấm của thuốc đạt 82,2 91,5% và 69,1 - 70,8% với nảy mầm bào tử. Hai loại thuốc còn lại là
Antracol 70WP, Azony 25SC không ức chế hoàn toàn sinh trưởng tản nấm
và nảy mầm bào tử của bất cứ loài nấm nào ở nồng độ khuyến cáo. Hiệu
lực ức chế sinh trưởng tản nấm và nảy mầm bào tử của thuốc Antracol
70WP trên các loài nấm đạt 46,3 - 78,5% và 50,4 - 73,2%. Tương tự, hiệu
lực của thuốc Azony 25SC với các loài nấm chỉ đạt lần lượt là 17,8 - 50,4%
và 45,2 - 68,2%.

Hiệu lực ức chế sinh trưởng tản nấm và nảy mầm bào tử của các loại
thuốc hóa học là khác nhau đối với các loài nấm. Trên tất cả các các loại thuốc
thí nghiệm, hiệu lực ức chế sinh trưởng tản nấm và nảy mầm bào tử thu được
trên 3 loài nấm C. fructicola, C. aeschynomenes và C. gloeosporioides s.s luôn
cao hơn 2 loài C. siamense và C. truncatum. Điều đó chứng tỏ trong 5 loài nấm
được phát hiện, 2 loài C. truncatum và C. siamense có khả năng chống chịu
với các loại thuốc thí nghiệm cao hơn 3 loài còn lại.
4.4.2. Ảnh hưởng của một số mẫu vi khuẩn đối kháng Bacillus spp
đến sinh trưởng của các loài nấm Colletotrichum trên môi trường PDA
Kết quả thí nghiệm 6 mẫu vi khuẩn đối kháng cho thấy: các mẫu vi
khuẩn sử dụng đều có khả năng ức chế với các loài nấm thí nghiệm. Hiệu
lực ức chế của các mẫu vi khuẩn đạt 55,2 - 87,8% tùy thuộc vào mẫu vi
khuẩn và loài nấm. Trong 6 mẫu vi khuẩn sử dụng, hai mẫu HT1 và N2 có
khả năng ức chế cao nhất với tất cả các loài nấm thí nghiệm. Hiệu lực ức
chế sinh trưởng tản nấm với các loài nấm thí nghiệm của chủng HT1 đạt
79,3 - 87,7% và N2 đạt 79,2 - 84,8%.
Nhìn chung các mẫu vi khuẩn sử dụng có khả năng ức chế các loài nấm
Colletotrichum cao hơn rõ rệt so với các công bố trước đây của Nguyễn Thị
Liên & cs. (2016), Ashwini & Srividya (2014) và Begum et al. (2008). Đặc
biệt, hai mẫu vi khuẩn HT1 và N2 (đã được xác định là B. velezensis) có hiệu
lực ức chế tương đương một số thuốc hóa học. Các chủng vi khuẩn này có
thể sử dụng rộng rãi trong phòng trừ bệnh thán thư ớt nếu được tiếp tục đầu
tư nghiên cứu để phát triển thành sản phẩm thuốc BVTV.
21


4.4.3. Ảnh hưởng của một số dịch chiết địa y đến sinh trưởng của các
loài nấm Colletotrichum trên môi trường PDA
Kết quả đánh giá hiệu lực của 7 loại dịch chiết địa y trên 2 loài nấm
C. siamense và C. truncatum cho thấy: Hiệu lực ức chế của các loại dịch

chiết địa y đối với 2 loài C. siamense và C. truncatum là không cao, chỉ đạt
21,8 - 43,3%. Trong số 7 loại dịch chiết, US hexan và US metanol có hiệu
lực cao nhất, đạt 42,2 - 42,3%.
Tuy hiệu lực ức chế không cao song chúng có thể sử dụng để xử lý
mầm bệnh cho giai đoạn sau thu hoạch vì đa số các loại dịch chiết địa y đều
có thời gian cách ly ngắn và tương đối an toàn với con người.
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1) Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum spp. là bệnh rất phổ biến gây
hại trên cây ớt tại ĐBSH với tần suất phát hiện ruộng bệnh > 25%. Bệnh
gây hại trên tất cả các giống ớt trồng phổ biến ở các thời vụ trong năm.
Mức độ gây hại của bệnh trên ruộng thu quả lứa 2 nặng hơn so với ruộng
thu quả lứa 1.
2) Tổng số 52 mẫu nấm thán thư ớt thu thập tại 9 tỉnh ĐBSH và 4 tỉnh
khác đã được phân lập thuần từ đơn bào tử. Các phân tích hình thái dựa
trên đặc điểm bào tử phân sinh và đĩa áp đã xác định được chúng thuộc 3
nhóm hình thái. Các đặc điểm đặc trưng về hình thái không xác định được
loài nấm Colletotrichum thu thập.
3) Phân tích trình tự vùng ITS của các mẫu nấm đại diện cho 3 nhóm
hình thái đã xác định được 2 loài là C. truncatum và phức hợp loài
C. gloeosporioides s.l. Phân tích trình tự vùng liên gen ApMat các mẫu
nấm đại diện thuộc phức hợp loài C. gloeosporioides s.l đã xác định được 4
loài C. gloeosporioides s.s, C. siamense, C. fructicola và
C. aeschynomenes. Tất cả 4 loài này là những loài lần đầu tiên được phát
hiện, công bố tại Việt Nam.
4) Đã thiết kế được 4 cặp mồi đặc hiệu chẩn đoán 4 loài
Colletotrichum chính gây bệnh thán thư ớt (C. gloeosporioides s.s,
C. fructicola, C. siamense và C. truncatum). Ở điều kiện nhiệt độ gắn mồi
tối ưu, cả 4 cặp mồi đã chứng tỏ phát hiện đặc hiệu 4 loài tương ứng. Đặc
22



biệt phương pháp chiết nhanh DNA từ mẫu nấm dùng NaOH và đệm Tris
lần đầu được áp dụng đối với nấm Colletotrichum đã chứng tỏ rất phù hợp
để chuẩn bị DNA nhóm nấm này cho phản ứng PCR.
5) Kỹ thuật PCR sử dụng các cặp mồi đặc hiệu đã được áp dụng để
định danh tất cả 52 mẫu nấm thu thập. Kết quả đã xác định được thành
phần loài Colletotrichum gây bệnh thán thư ớt tại ĐBSH và một số tỉnh
gồm 5 loài, trong đó C. siamense là loài phổ biến nhất (phát hiện thấy ở tất
cả 13 tỉnh và chiếm 51,9%); C. fructicola là loài phổ biến thứ hai (phát hiện
thấy ở 9/13 tỉnh, chiếm 19,5%); C. truncatum là loài phổ biến thứ ba (phát
hiện thấy ở 6/13 tỉnh, chiếm 15,4%); C. gloeosporioides s.s là loài phổ biến
thứ tư (phát hiện thấy ở 5/13 tỉnh, chiếm 9,6%); riêng loài
C. aeschynomenes chỉ phát hiện được 1 mẫu tại Thái Nguyên, chiếm 1,9%.
6) Các loài nấm Colletotrichum thu thập phát triển tản nấm thuận lợi
trên môi trường PDA và hình thành bào tử thuận trên môi trường PCA.
Nhiệt độ thích hợp nhất để phát triển tản nấm và hình thành bào tử của các
loài Colletotrichum là 25oC. Ngoại trừ loài C. siamense phát triển thuận lợi
ở pH từ 5,0 - 6,0, các loài nấm còn lại phát triển thuận lợi ở pH 6,0.
7) Kết quả lây bệnh nhân tạo trên lá, quả xanh, quả chín của 4 giống
ớt (Demon, Lai 20, Chìa vôi và Susan’ Joy) và 3 loại quả (xoài, chuối tây
và chuối tiêu) cho thấy các loài nấm chỉ tạo vết bệnh trên các loại quả chín
bằng phương pháp có gây tổn thương.
Trên quả ớt chín, thời kỳ tiềm dục, tỷ lệ nhiễm và kích thước vết bệnh
thay đổi tùy theo tổ hợp loài nấm và giống ớt. Loài C. truncatum gây bệnh
trên cả 4 giống ớt; loài C. siamense và C. aeschynomenes gây bệnh trên 3
giống ớt; loài C. gloeosporioides s.s và C. fructicola chỉ gây bệnh trên 2
giống ớt. Triệu chứng vết bệnh tạo ra sau lây nhiễm không đặc trưng theo
loài và không có giá trị chẩn đoán.
Trên 3 loại quả chín còn lại, thời kỳ tiềm dục, tỷ lệ nhiễm và kích thước

vết bệnh thay đổi tùy theo tổ hợp loài nấm và loại quả. Loài C. siamense và
C. fructicola gây bệnh trên cả 3 loại quả; loài C. gloeosporioides s.s nhiễm trên
chuối tây và chuối tiêu; loài C. aeschynomenes gây bệnh trên xoài và chuối tây.
Đáng chú ý, loài C. truncatum không gây bệnh trên cả 3 loại quả.
23


×