Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đề tài: Phân tích lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Philippines

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.19 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH - MARKETING

ĐỀ TÀI:
“PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA SẢN
PHẨM GẠO VIỆT NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ
TRƯỜNG PHILIPPINES”

 GVHD : Th.S Quách Thị Bửu Châu
 LỚP

: VB2 - NT01

 SVTH : Nguyễn Phương Anh
Trần Thế Anh
Đặng Trần Bình
Nguyễn Thị Minh Hiền
Nguyễn Thị Mai Hương
Trần Hữu Tho
Nguyễn Thị Kiều Tiên

Tháng 03 năm 2011

0


Mục lục
I. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam........................................................................3
1. Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam.........................................................3
2. Tình hình giá cả...........................................................................................................9
II. Tình hình nhập khẩu gạo của Philipines trong các năm qua......................................12


III. Tình hình xuất khẩu gạo của Thái Lan.....................................................................13
IV. Phân tích lợi thế cạnh tranh sản phẩm gạo của Việt Nam theo mô hình kim cương
của Porter....................................................................................................................... 14
A. Nhóm yếu tố thâm dụng............................................................................................14
1. Yếu tố cơ bản.............................................................................................................14
1. Yếu tố tăng cương......................................................................................................17
B. Nhóm điều kiện nhu cầu...........................................................................................19
C. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan..............................................................22
D.Chiến lược, cơ cấu, sự cạnh tranh..............................................................................33
E. Nhóm yếu tố phụ.......................................................................................................35
V. Kết luận..................................................................................................................... 45
Các nguồn tham khảo....................................................................................................46

1


LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa thương mại đang là những đặc điểm cơ bản của phát triển
trên thế giới hiện nay. Đối với Việt Nam, nhất là sau khi gia nhập khối ASEAN,
AFTA, hiệp định thương mại Việt- Mĩ và những bước tiếp theo WTO, đã có nhiều cơ
hội phát huy lợi thế so sánh, tháo gỡ hạn chế về thị trường xuất khẩu, tạo lập môi
trường thương mại mới nhằm trao đổi hàng hóa- dịch vụ, kỹ thuật và thông tin đã tạo
cơ sở động lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Để phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi
mới trong đường lối phát triển kinh tế, đặc biệt là có những chính sách mới để phát
triển nông nghiệp nông thôn. Sau hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới, nông
nghiệp đã có những kết quả khá tốt, đặc biệt trong sản xuất cũng như xuất khẩu lúa
gạo. Từ một nước thiếu lương thực, nay đã trở thành một nước không chỉ đảm bảo
đầy đủ các nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn có khối lượng xuất khẩu ngày một
tăng, là nước đứng thứ hai (sau Thái Lan) về xuất khẩu gạo, sản lượng gạo của Việt

Nam hàng năm tăng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát
huy lợi thế so sánh các sản phẩm ở từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Kim
ngạch xuất khẩu gạo cũng tăng lên đều đặn, thị trường được mở rộng liên tục. Việc
xuất khẩu gạo góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, ổn định
kinh tế, chính trị và xã hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới công nghiệp
hoá và hiện đại hoá.
Mặc dù Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo được 13 năm nhưng hiệu quả xuất
khẩu gạo của Việt Nam còn thấp, chênh lệch về giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và
thế giới còn lớn. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới chủ yếu
dựa vào giá thấp, thị trường không ổn định. Hệ thống thu gom xuất khẩu còn yếu
kém, đơn lẻ nên chưa phù hợp và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Vì vậy, để việc
sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu gạo đạt hiệu quả thì cần có giải pháp với những chính
sách đồng bộ, cần sự phối hợp điều hành của các bộ, ngành có liên quan để tìm ra lối
thoát thực sự của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.

2


I.TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
Gạo Việt Nam đã có mặt ở hơn 120 quốc gia, vùng lãnh thổ. Hạt gạo Việt
Nam ngày hôm nay là hạt gạo của hành trình đổi mới, kết tinh công sức, mồ hôi, trí
tuệ của 4 nhà: nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp - nhà nước; cùng sáng
tạo để có được những giống mới năng suất cao, những vụ mùa bội thu; là hành trình
“vật lộn” đối phó với dịch hại, sâu bệnh; là hành trình thích nghi và chống trọi với
những “thiên tai dịch họa”, với diễn biến bất thường của thiên nhiên do tác động của
biến đổi khí hậu, là hành trình tìm kiếm mở rộng những thị trường mới…Tổng hòa
những hành trình của hạt gạo chính là quá trình vận động liên tục không ngừng để
khẳng định những giá trị và vị thế của đất nước, con người Việt Nam trên bản đồ thế
giới.
6 triệu tấn gạo xuất khẩu và gần 2,5 tỷ USD. Nhắc lại để thấy được đó là

những con số hết sức ý nghĩa! Đặt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, an
ninh lương thực tiếp tục bị đe dọa nghiêm trọng bởi những “bước chân vô hình và vô
tình không báo trước” của biến đổi khí hậu như hạn hán, bão lụt, nước biển dâng;
diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp…mới thấu hiểu được rằng
“kỳ tích” 6 triệu tấn gạo xuất khẩu xứng đáng được coi là một sự kiện nổi bật của
ngành nông nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009 vừa qua.

1. Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam.
Gạo Việt nam xuất khẩu sang 20 thị trường chính, nhưng chủ yếu là sang
Philippines; Malaysia; Cu Ba; Singapore. Xuất khẩu sang Philippines đạt kim ngạch
lớn nhất với 917,13 triệu USD, chiếm 34,43% kim ngạch; tiếp theo là kim ngạch
xuất sang Malaysia đạt 272,19 triệu USD, chiếm 10,22%; rồi đến thị trường Cu Ba
191 triệu USD, chiếm 7,17%; Singapore 133,6 triệu USD, chiếm 5,02%. Kim ngạch
xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines tăng đột biến trong tháng 12, đạt 120.300
tấn, trị giá trên 57,7 triệu USD, tăng mạnh tới 3.375,7% so với tháng 11/2009, đưa
tổng lượng xuất khẩu cả năm lên trên 1,7 triệu tấn, trị giá hơn 917 triệu USD.

3


Kim ngạch xuất khẩu gạo sang Cuba tháng 12 tuy không lớn bằng xuất sang
Malaysia, nhưng mức độ tăng trưởng so với tháng 11 lại tăng mạnh tới 1.175,1%, đạt
trên 7,4 triệu USD; đưa tổng kimngạch cả năm 2009 lên trên 191 triệu USD.
Xuất khẩu gạo sang thị trường Nam Phi tháng 12 chỉ đạt 584.275USD nhưng
cũng đạt mức độ tăng trưởng cao so với tháng 11, tăng 340,96%.
Một số thị trường cũng đạt mức tăng trưởng dương so với tháng 11/2009 đó
là: kim ngạch xuất sang Tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất tăng 91,79%; Australia
tăng 75,99%; Malaysia tăng 45,29%; Hồng Kông tăng 44,39%.
Thị trường có mức độ sụt giảm kim ngạch mạnh nhất so với tháng 11 đó là
kim ngạch xuất khẩu sang Nga tháng 12 chỉ đạt 78.165 USD, giảm mạnh tới 97,81%;

tiếp theo là kim ngạch xuất khẩu sang Đài Loan giảm 72,24% so với tháng 11, đạt
2.637.808USD; kim ngạch xuất sang Pháp đạt 90.960USD, giảm 66,68%; Singapore
giảm 55,39%.
Thị trường xuất khẩu gạo năm 2009

Thị trường

Tăng giảm kim
Tháng 12

Cả năm 2009

ngạch so với
tháng 11/2009
(%)

Tổng cộng

Lượng

Trị giá

(tấn)

(USD)

Lượng (tấn)

Trị giá
(USD)


5.958.300

2.663.876.861

Philippines

120.300 57.744.000

1.707.994

917.129.956

+3.375,70

Malaysia

85.215 40.409.735

613.213

272.193.107

+45,29

Cu Ba

16.800

7.483.360


449.950

191.035.678

+1.175,71

Singapore

8.057

4.235.637

327.533

133.594.368

-55,39

Đài Loan

5.589

2.637.808

204.959

81.616.149

-72,24


4


Irắc

0

0

171.000

68.947.000

*

Nga

149

78.165

84.646

37.089.136

-97,81

Hồng Kông


4.080

2.271.455

44.599

20.214.664

+44,39

Nam Phi

1.148

584.275

37.253

16.367.271

+340,96

Ucraina

274

115.210

37.562


15.748.696

-32,3

Indonesia

500

315.000

17.786

7.214.255

*

Australia

1.129

723.435

8.563

4.925.287

+75,99

125


70.625

8.645

3.739.820

+91,79

Bỉ

0

0

9.816

3.704.346

*

Italia

0

0

8.320

3.150.367


**

Ba Lan

500

201.500

5.994

2.501.848

-15,34

Pháp

240

90.960

3.959

1.951.956

-66,68

Nhật Bản

0


0

4.166

1.725.516

*

Tây Ban

64

37.688

4.049

1.600.097

***

Tiểu vương
Quốc Ả
Rập thống
nhất

Nha
Hà Lan
75
45.500
2.863

1.269.711
Ghi chú: (*): thị trường tháng 11 và 12 không tham gia xuất khẩu gạo.

-6,69

(**): thị trường tháng 11 có xuất khẩu gạo, tháng 12 không xuất.
(***): thị trường tháng 12 có xuất khẩu gạo, tháng 11 không xuất.
Theo Vinanet
Theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009 của Công ty cổ phần
Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam (AGROMONITOR), xuất khẩu gạo sang
các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so
với mức 50,8% của năm 2008). Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines
đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35% tổng kim

5


ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang
Philippines gần 1,7 triệu tấn gạo, trị giá hơn 912 triệu đô la Mỹ.
Thị trường xuất khẩu lớn tiếp theo của hạt gạo Việt Nam phải kể đến là
Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008 đã vươn lên thứ hai với hơn 611.000 tấn, trị
giá khoảng 271 triệu đô la. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm trong nhóm 10 thị
trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có Singapore (329.000
tấn và 134 triệu đô la), Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu đô la), Đài Loan
(203.000 tấn và 81 triệu đô la) và Iraq (168.000 tấn và 68 triệu đô la).
Châu Á là thị trường xuất khẩu gạo chủ chốt của Việt Nam trong năm 2009
khi có tới sáu trong 10 thị trường có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Cụ thể, 10 thị
trường có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam trên 1 triệu đô la và có tốc độ tăng
trưởng kim ngạch lớn nhất năm 2009 bao gồm: Kiribati (tăng 10,608%), Campuchia
(tăng 2,516%), Li Băng (tăng 2,124%), Hồng Kông (tăng 758%), Mỹ (tăng 714%),

Nigeria (tăng 614%), Brunei (tăng 506%), Đài Loan (tăng 493%), Trung Quốc (tăng
397%) và Fiji (tăng 365%). Đáng chú ý là Đài Loan từ vị trí thứ 23 trong bảng xếp
hạng năm 2008 đã vươn lên đứng trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất
của Việt Nam trong năm 2009.
Năm 2010 cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn Châu Á chiếm
tỷ trọng cao nhất, khu vực này Việt Nam xuất được 3,238 triệu tấn, chiếm 53,50%,
và thị trường nghiên cứu của chúng ta, thị trường Philippines là 1,612 triệu tấn,
chiếm 26,64%, Malaysia là 0,667 triệu tấn chiếm 11,02%. Châu Phi là 1,794 triệu
tấn, chiếm 29,64%. Châu Mỹ là 455,872 tấn chiếm 7,53%, trong đó thị trường Cuba
là 442,910 tấn chiếm 7,32%. Trung Đông là 316,076 tấn chiếm 5,22%. Châu Âu là
201,642 tấn chiếm 3,33%. Còn lại là thị trường Châu Úc chiếm 0,78% tổng số lượng
xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Bảng : Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2010.
%

Châu Á
53.50

Châu Phi
29.64

Trung Đông
5.22

6

Châu Mỹ
7.53

Châu Âu

3.33

Châu Úc
0.78


Sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010.
Bảng : Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010
ĐVT
Sản lượng Triệu tấn

2005
5,2

2006
4,9

2007
4,5

2008
4,7

2009
6,1

2010
6,7

Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010.

Bảng : Kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2010
ĐVT

2005

2006

7

2007

2008

2009

2010


Kim ngạch

Tỷ USD

1,279

1,236

1,511

2,663


2,464

2,912

Qua các biểu đồ trên ta thấy, nếu như sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
vào năm 1989 chỉ đạt 1,42 triệu tấn, thì đến những năm gần đây sản lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam đã tăng hơn gấp 3 lần, đạt mức kỷ lục về xuất khẩu gạo là 5,1
triệu tấn vào năm 2005 và giữ mức ổn định ở các năm về sau. Đặc biệt trong hai năm
2009 và 2010 Việt Nam đã xuất khẩu gạo vược trên mức 6 triệu tấn gạo, và kể từ
năm 2008 đến nay, kim ngạch xuất khẩu gạo hàng năm của Việt Nam đã vượt qua
con số 2 tỷ USD.
Các năm qua Việt Nam đã có sự cải cách lớn về chính sách nhập khẩu, đặt
biệt với nông sản thì được mở cửa tối đa, nên tiềm lực thật sự của hạt lúa chính thức
được giải phóng dẫn đến hệ thống doanh nghiệp thu mua phát triển, các hợp đồng
xuất khẩu thường được đàm phán, ký kết từ đầu mỗi năm, quy mô tăng dần. Hàng
loạt cơ sở chế biến, lau bóng gạo ra đời, các doanh nghiệp đầu tư kho bãi, dây
chuyền máy móc, phương tiện vận chuyển, cơ sở thu mua ngày một chuyên nghiệp
hơn.

2. Tình hình giá cả.
Đặc biệt, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các thị trường châu Á trong năm
2009 còn được lợi về giá. Tính trung bình năm 2009, trong số 10 nước có kim ngạch
nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam thì Philippines là thị trường mà gạo Việt Nam

8


xuất sang đạt mức giá cao nhất với 541,24 đô la/tấn. Trong khi đó, mức giá trung
bình xuất sang chín thị trường còn lại chỉ dao động quanh mức 400 đô la/tấn. Xuất
khẩu gạo của Việt Nam sang Malaysia năm 2009 cũng đạt mức giá khá cao với

439,24 đô la/tấn.

Như vậy, liệu trong năm 2010 châu Á có tiếp tục ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo
của Việt Nam? Tổng nhu cầu nhập khẩu gạo tại khu vực châu Á năm 2010 dự kiến ở
mức 14,8 triệu tấn, tăng 7% so với năm 2009, theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ
(USDA). Nhu cầu nhập khẩu tăng chủ yếu từ các quốc gia như Iraq (dự kiến tăng
10%), Bangladesh (tăng 185,7%), Philippines (tăng 30%); Ảrập Saudi (tăng 2,2%),
Indonesia (tăng 20%), Malaysia (tăng 2,41%)...
Ngược lại với xu hướng đẩy mạnh nhập khẩu tại các nước trong khu vực châu
Á, năm 2010 nhu cầu nhập khẩu gạo tại khu vực châu Phi lại được USDA dự báo sẽ
giảm 3% so với năm 2009 do triển vọng tăng sản lượng trong niên vụ này. Cụ thể, tại
Nigeria, dự kiến lượng nhập khẩu năm 2010 sẽ giảm 15,8%. Các nước khác như
Guinea, Mali, Mozambique và Senegal, lượng gạo nhập khẩu trong năm 2010 cũng
khó có thể thay đổi đột biến.

9


Và theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009 của
AGROMONITOR, căn cứ trên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 2009-2008, có thể
khẳng định châu Á với những thị trường truyền thống như Philippines, Malaysia sẽ
vẫn là những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2010.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu hơn nữa nhằm giảm
sự phụ thuộc vào các đối tác truyền thống cũng như các hợp đồng xuất khẩu do
Chính phủ mở đường. Do đó, cần có một cơ chế xuất khẩu gạo mang tính khuyến
khích hơn để các doanh nghiệp có thể phát huy khả năng, tìm kiếm thị trường và đối
tác mới để xuất khẩu gạo với mức giá có lợi nhất.
Lượng gạo xuất khẩu theo tháng các năm 2006- 2009

10



II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU GẠO CỦA PHILIPPINES TRONG CÁC
NĂM QUA.

Philippines là một quốc gia Đông Nam Á có diện tích khoảng 300.000 km 2,
về dân số hiện nay dân số của quốc gia này đã tăng gần 100 triệu người. Với đà gia
tăng dân số như hiện nay thì khả năng sản xuất lương thực trong nước không thể đáp
ứng nhu cầu của thị trường, vì vậy quốc gia này buộc phải tăng cường nhập khẩu gạo
hơn nữa để đảm bảo an ninh lương thực của chính phủ Philippines.
Bảng : Sản lượng gạo nhập khẩu của Philippines từ năm 2005 đến năm 2010
ĐVT
Sản lượng Triệu tấn

2005
1,890

2006
1,791

2007
1,900

2008
2,500

2009
2,000

2010

2,600

Philippines là quốc gia bao gồm hàng ngàn hòn đảo, trải dài khoảng 1.200
km, là một nước có thể thuận lợi trong phát triển ngành nông nghiệp. Tuy nhiên hàng
năm quốc gia này phải hứng chịu hàng chục cơn bão lớn nhỏ từ biển đông đi qua. Vì
vậy ta thấy qua bảng số liệu trên, hàng năm quốc gia này phải nhập khẩu một số
lượng lớn gạo để đảm bảo an ninh lương thực trong nước.
Gạo nhập khẩu của Philippines phần lớn là nhập từ Việt Nam, một phần nhập
từ Thailand, Pakistan, Mỹ, Campuchia….

11


Hiện nay, ngân sách của chính phủ Philippines dành cho lĩnh vực nông nghiệp
rất eo hẹp, và đó là nguyên nhân làm cho diện tích gieo trồng các loại giống gạo cao
sản không được mở rộng, theo ông Alcala, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Phiplippines,
người nông dân Philippines vẫn quen với thói quen canh tác truyền thống, không cho
năng suất cao, vì vậy khả năng tăng sản lượng gạo trong nước là không được như
mong muốn.
Bảng : Sản lượng gạo nhập khẩu của Philippines từ Việt Nam từ năm 2008 đến
năm 2010
Sản lượng

ĐVT
Triệu tấn

2008
1,611

2009

1,612

2010
2,300

Qua biểu đồ trên ta thấy Philippines chủ yếu nhập khẩu gạo từ Việt Nam, lý
do là gạo của Việt Nam có khả năng cạnh tranh về giá rất cao so vời các đối thủ cạnh
tranh khác như Thailand, Mỹ hay Pakistan….

III. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA THAILAND TRONG CÁC
NĂM QUA.

Thailand là một quốc gia Đông Nam Á có diện tích gần 514.000 km 2, dân số
khoảng 64 triệu người, là một nước nông nghiệp. Trong các năm gần đây Thailand là
quốc gia chiếm vị trí số 1 về xuất gạo, trong 3 năm gần đây, số lượng gạo mà quốc
gia này xuất khẩu hàng năm đạt từ 8 đến 9 triệu tấn gạo, đặt biệt trong năm 2011, dự
báo lần đầu tiện quốc gia này sẽ xuất khẩu gạo vượt con số 10 triệu tấn gạo.

12


Thị trường xuất khẩu gạo chủ lực của Thailand là các quốc gia Châu Phi,
trong đó quốc gia Nigeria là quốc gia nhập khẩu gạo từ Thailand nhiều nhất, trong 2
năm 2009 và năm 2010 quốc gia này đã nhập khẩu gạo từ Thailand trên 1 triệu tấn
gạo hàng năm.
Thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ hai của Thailand là quốc gia Benin, hàng
năm quốc gia này nhập khẩu gạo từ Thailand khoảng 800 ngàn tấn gạo.
Bảng : Sản lượng gạo xuất khẩu khẩu của Thailand từ năm 2005 đến năm 2010
ĐVT
Sản lượng Triệu tấn


2005
7,274

2006
7,376

2007
9,557

2008
9,9969

2009
8,522

2010
8,800

Thị trường Philippines nhập khẩu gạo từ Thailand không nhiều, lý do là gạo
của Thailand là loại gạo cấp cao, có giá cao nên hầu như không phù hợp với thị
trường Philippines. Các loại gạo cấp thấp, ví dụ như gạo 25% tấm, hàng năm
Thailand xuất khẩu vào thị trường Philippines khoảng vài trăm ngàn tấn.
Bảng : Sản lượng gạo nhập khẩu của Philippines từ Thailand từ năm 2008 đến
năm 2010

Sản lượng

ĐVT
Triệu tấn


2008
0,426

2009
0,560

2010
0,156

Qua biểu đố trên ta thấy, gạo mà quốc gia Philippines nhập khẩu từ Thailand
là không nhiều, lý do là gạo của Thailand có khả năng cạnh tranh về giá kém so với
gạo của Việt Nam hay một số đối thủ cạnh tranh khác. Vì vậy để tăng cường xuất
khẩu gạo vào thị trường Philippines, Thailand cần phải đa dạng hơn nữa các sản
phẩm gạo xuất khẩu của mình.

IV. PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH SẢN PHẨM GẠO CỦA VIỆT
NAM SO VỚI GẠO CỦA THÁI LAN THEO MÔ HÌNH KIM CƯƠNG
CỦA PORTER.
A. Nhóm yếu tố thâm dụng:

13


1 Yếu tố cơ bản:
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương. Việt Nam có đường
biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và
Campuchia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông.
Việt Nam có diện tích 330,212 km2. Với 2 vùng Đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng, đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Việt

Nam có bờ biển dài thuận lợi cho giao thông và chuyên chở đường biển, thuận lợi
cho xuất khẩu.
Đất đai là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để tiến hành trồng trọt, chăn nuôi.
Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất
và sự phân bố cây trồng, vật nuôi. Các loại đất của Việt Nam rất thích hợp với việc
trồng lúa cũng như là điều kiện cơ bản để phát triển xuất khẩu lúa, gạo của nước ta.
Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất thuận
lợi cho việc phát triển nghề trồng lúa. Do vậy, cây lúa là cây lương thực truyền
thống.
Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước xa xưa. Nên
người Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm canh tác lúa, làm nền tảng cho
việc trồng lúa hướng đến xuất khẩu. Việt Nam cũng là một trong những nước tham
gia xuất khẩu gạo tương đối sớm so với nhiều nước xuất khẩu khác trên thế giới.
Việt Nam có một mạng lưới hệ thống sông ngòi đa dạng phong phú, 2 sông
lớn nhất là sông Hồng và sông Cửu Long tạo nên 2 vùng đồng bằng rộng lớn và phì
nhiêu, rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp.
Việt Nam là nước có lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao: trên 70%
lực lượng lao động cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp, giá nhân công rẻ.
Điều này làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có giá thành thấp, tăng thêm
sức cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới.
Việt Nam có thể tận dụng ưu thế về đất đai, khí hậu và lao động để sản xuất
những sản phẩm xuất khẩu chứa hàm lượng tài nguyên và lao động cao, còn vốn và
kỹ thuật thấp. Do vậy, Việt Nam chọn phát triển sản xuất lúa gạo là ngành chủ đạo

14


trong nền kinh tế quốc dân là hoàn toàn đúng đắn cả về lý thuyết và thực tiễn. Sản
xuất lúa gạo thể hiện rõ các đặc tính của sản xuất nông nghiệp. Thứ nhất, thực hiện
sản xuất trên diện rộng và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như khí hậu, đất đai,

nguồn nước...Thứ hai, tiến hành sản xuất cần nhiều lao động do tính chất phân bố
rộng của sản xuất và đòi hỏi bắt buộc khi thực hiện công việc. Sản xuất lúa cho phép
tận dụng tốt ưu thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên, đồng thời hạn chế những
khó khăn về vốn, kỹ thuật - công nghệ.
So với Thailand, Thailand với tổng diện tích gần 514.000 km2, trong đó
Thailand có đến 55% diện tích đất trồng lúa . Như vậy Thailand có diện tích tích đất
trồng lúa gấp hơn 5 lần điện tích đất có thể canh tác của nước ta. Điều này, giải
thích tại sao sản lượng xuất khẩu gạo của Thái Lan cao hơn Việt Nam.
Ngoài ra, diện tích đất nông nghiệp của chúng ta ngày càng bị thu hẹp đi để
phát triển các KCN. Hơn thế, diện tích đất trồng lúa tại vựa lúa ĐBSCL cũng bị
triều cường, nước biển dâng “lấn” đi rất nhiều. Sâu hại, dịch bệnh ngày càng
tăng…Thêm vào đó, năng suất lúa của vùng đang có nguy cơ chựng lại do mức đầu
tư đã quá khả năng của nông dân. Nếu không giải quyết tốt khâu tiêu thụ, về lâu dài
sẽ ảnh hưởng đến chiến lược bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu. Thách thức
đối với sản xuất và xuất khẩu gạo hiện nay là diện tích đất nông nghiệp giảm dần do
tốc độ đô thị hóa, nhưng sản lượng lúa phải tăng gấp đôi vào năm 2050 mới đáp
ứng nhu cầu. Mặc dù vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long đã sản xuất các giống lúa
ngắn ngày, làm gia tăng diện tích gieo trồng từ 3,8 đến 4 triệu ha, với sản lượng
khoảng 20 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó, các giống lúa lai cũng phát triển mạnh ở
miền bắc với diện tích khoảng 600 nghìn ha/năm, cho năng suất từ 6,5 đến 9 tấn/ha.
Tóm lại, chúng ta cần chú ý đến năng suất cao, vòng quanh nhanh, thời vụ gieo
trồng ngắn.
Chính vì thế mà Việt Nam xuất khẩu chủ yếu gạo có phẩm cấp trung bình và
đang chiếm lĩnh thị phần gạo cấp thấp ở nhiều thị trường như Philippines, châu
Phi… Trong khi đó, Thái Lan gần như chiếm lĩnh thị trường gạo cao cấp, nên gần
như có sự phân chia thị trường khá rõ.

15



Tuy là nước phần đông dân số làm nghề nông, nhưng Việt Nam đứng thứ hai,
nhưng chất lượng gạo xuất khẩu chưa cao, ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân,
sức cạnh tranh và xây dựng thương hiệu. Trong khi Thái Lan xuất khẩu được giá cao
nên thu nhập của nông dân họ cao.

2 .Yếu tố tăng cường:
Hiện nay cả nước có nhiều viện nghiên cứu, ngoài ra còn có các trường đại
học như Đại học nông lâm thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ…, nghiên cứu
và phát triến giống lúa và các loại thuốc trừ sâu bệnh cho cây lúa. Các viện nghiên
cứu đều được trang bị các thiết bị hiện đại nhằm phục vụ tối đa các việc nghiên cứu.
Hiện nay, nước ta có hệ thống hồ, kênh mương trong cả nước rất đa dạng
phong phú cung cấp đủ lượng nước cần cho tưới tiêu tất cả diện tích đất canh tác.
Vùng ven biển đã tăng cường xây dựng hệ thống các cống đập ngăn mặn, giữ
ngọt, nhiều công trình đã đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, tập trung thực hiện chương trình kiểm soát lũ, phát triển thuỷ lợi,
giao thông và dân cư. Bước đầu thực hiện các công trình thuỷ lợi ven biển phục vụ
nuôi trồng thuỷ sản, gắn ngọt hoá với việc nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ và
tận dụng và khai thác thuỷ sản mùa lũ.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đối với vụ hè thu 2009, Bộ Công thương
phối hợp với Ủy ban Nhân dân các tỉnh và Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ đạo
các doanh nghiệp thành viên Hiệp hội mua khoảng 2 triệu tấn gạo hàng hóa theo giá
bảo đảm lợi nhuận tối thiểu 30% cho nông dân. Việc Chính phủ đồng ý cho xuất hết
lúa gạo hàng hóa đang tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động đàm phán
ký hợp đồng mới và đẩy mạnh mua lúa của nông dân.
Giá lúa gạo đang tăng: Trong những ngày qua, tiếp sau thông tin Chính phủ có
những biện pháp mới chấn chỉnh trong điều hành xuất khẩu gạo, thị trường nhập

16



khẩu gạo từ Philippines, Malaysia mở cửa trở lại, tại các tỉnh Đìng bằng Sông Cửu
Long, nông dân và giới doanh nghiệp đang đặt nhiều hy vọng là dòng chảy lưu thông
lúa gạo sẽ xuôi chèo mát mái hơn trong những tháng cuối năm. Hiện nay, giá lúa gạo
trong vùng bắt đầu tăng lên nhẹ, hứa hẹn những niềm vui mới cho nông dân.
Thị trường gạo trong nước đang có dấu hiệu sôi động trở lại khi nhiều nước trên
thế giới như: Philippines, Maylaysia có nhu cầu nhập khẩu thêm gạo. Nhiều doanh
nghiệp chế biến gạo xuất khẩu trong nước đã ký mới thêm được hợp đồng nên bắt
đầu đẩy mạnh thu mua lúa gạo nguyên liệu.
Theo Bộ Công thương, Chính phủ Philippines dự kiến tăng lượng gạo nhập khẩu
lên 2 triệu tấn trong năm nay, còn Malaysia dự kiến sẽ mua thêm 150.000 tấn bổ
sung dự trữ. Nhiều khách hàng ở châu Phi, Trung Quốc cũng đang tìm mua gạo Việt
Nam do có giá “mềm'' hơn các nước khác. Hiện giá gạo xuất khẩu loại 5% tấm của
Việt Nam đã tăng trở lại lên ở mức 410 USD/tấn, tăng 20 USD/tấn so với cách nay 2
tuần.
Trong khi đó, giá nhiều loại lúa gạo trong nước đang tăng trở lại ở mức 100 - 250
đồng/kg so với hồi đầu tháng 6. Giá lúa dài vụ đông xuân hiện nay nông dân đang
bán với giá 4.200 - 4.300 đồng/kg, lúa dài vụ hè thu 2009 giá 4.100 đồng/kg, tăng
bình quân 50 - 100 đồng/kg so với tuần trước. Còn mặt hàng gạo xô (nguyên liệu,
loại 15%, 25% tấm): 5.200 - 5.300 đồng/kg, loại 5% tấm giá 5.400 đồng/kg, tăng 200
đồng/kg so đầu tháng 6.
Thời điểm đầu tháng 6, hai doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Đồng Tháp mua gạo xô
giá 5.530 đồng/kg (loại I), 5.200 đồng/kg (loại II), thì hiện nay một số doanh nghiệp
mua gạo xô của nông dân trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ 6.100 - 6.300 đồng/kg (tùy
loại). Thị trường lúa, gạo Đồng bằng sông Cửu Long còn xuất hiện thương nhân
Campuchia sang mua gạo với giá từ 6.000 tới trên 7.000 đồng/kg (tùy loại).
Theo một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở Đồng bằng sông Cửu
Long, chỉ đạo chấm dứt việc giao chỉ tiêu xuất khẩu gạo hằng năm cho các địa

17



phương của Thủ tướng Chính phủ có tác động tích cực tới thị trường lúa, gạo ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
Nếu nhìn vào con số sẽ thấy rằng,việc sản xuất và xuất khẩu gạo năm 2010 khá
dễ dàng. Đã có 2,65 triệu tấn gạo được ký hợp đồng với giá khá cao. Năm nay có thể
xuất khẩu 6 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 3- 3,2 tỷ USD, trong khi năm 2009 xuất
khẩu 6 triệu tấn, chỉ đạt hơn 2,4 tỷ USD.
Dự kiến vụ đông xuân 2009-2010 sẽ có 3 triệu tấn gạo hàng hóa (khoảng 6 triệu
tấn lúa) để xuất khẩu, cùng với lượng gạo tồn kho 1,5 triệu tấn từ cuối năm 2009,
như vậy 6 tháng đầu năm 2010 có 4,5 triệu tấn gạo để xuất khẩu. Vụ hè thu 2010 sẽ
có thêm 2 triệu tấn gạo hàng hóa, và lượng gạo hàng hóa vụ thu đông khoảng
400.000 tấn.
Như vậy năm nay có khoảng 6,9 triệu tấn gạo hàng hóa. Thị trường gạo thế giới
năm 2010 được đánh giá là thuận lợi cho quốc gia bán vì giá xuất khẩu tốt hơn.
Philippine sẽ cho phép các công ty tư nhân nhập khẩu 163.000 tấn gạo trong
năm nay, đưa tổng khối lượng nhập khẩu của nước NK lớn nhất thế giới này năm
2010 lên kỷ lục 2,4 triệu tấn. Năm vừa qua, lĩnh vực tư nhân Philippine đã mua
200.000 tấn gạo. Kỷ lục nhập khẩu gạo trước đây của Philippine là vào năm 2008,
với 2,3 triệu tấn. Bộ trưởng Nông nghiệp Philippine, Arthur Yap, cho biết Chính phủ
nước ông đã mua đủ gạo cho năm 2010, và nói rằng Manila sẽ rời khỏi thị trường từ
lúc này. Theo Hiệp định tự do mậu dịch Asean (bao gồm Brunei, Cămpuchia,
Indonesia, Philippines, Lào, Myanmar, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Việt Nam),
thuế nhập khẩu gạo vào Philippine giảm xuống 20% so với 40% trước đây, áp dụng
từ 1/1/2010.
Việt Nam liên tiếp trúng thầu các hợp đồng xuất khẩu gạo lớn

B. Nhóm điều kiện yêu cầu:
Gạo là nguồn lương thực chủ yếu của Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển
trên thế giới, hàng năm trung bình các quốc gia đang phát triển sản xuất trên 90% sản


18


lượng gạo trên thế giới nhưng lại tiêu thụ khỏang 85% sản lượng gạo của thế giới. Vì
vậy gạo là lọai lương thực sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ tại chỗ, lượng gạo thương mại
trên thị trường thế giới chỉ khỏang 5%.
Tình hình thương mại gạo trên thế giới bị chi phối bởi các yếu tố sau :
Đa số các nước trên thế giới đều trực tiếp tham gia họach định chính sách can thiệp
vào sản xuất, xuất nhập khẩu lương thực và quốc gia nào cũng chú trọng xây dựng
chính sách dự trữ quốc gia và chính sách bảo hộ nền nông nghiệp trong nước.
Các nước lớn trên thế giới như : Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ… chi phối rất lớn đến
tình hình thương mại lương thực quốc tế trong đó có mặt hàng gạo.
Gạo là mặt hàng có tính chiến lược nên vấn đề thương mại mặt hàng này được thực
hiện thông qua các hiệp định giữa các nhà nước với nhau.
Tình hình sản xuất và thương mại mặt hàng gạo trên thế giới phụ thuộc vào tình
hình thu họach của các quốc gia xuất khẩu gạo.
Phụ thuộc vào nhu cầu và điều kiện về khả năng thanh tóan của các quốc gia nhập
khẩu gạo.
Các nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới hiện nay là : Thailand, Việt Nam, Mỹ,
Pakistan…
Các nước nhập khẩu gạo lớn nhất trên thế giới hiện nay là : Philippines, Nigieria,
Indonesia, Irap…
Mỗi một quốc gia, thị trường có thị hiếu, nhu cầu không hòan tòan giống nhau vì vậy
nhà xuất khẩu cần phải nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của thị trường
. Thị truờng Châu Á : đa số các quốc gia đều tiêu thụ lọai gạo trắng, ít bạc bụng, độ
tấm ít và xay xát kỹ, Tại các quốc gia như Ấn Độ, Pakistan, ThaiLand thì lọai gạo có
mùi thơm đặc trưng rất được ưa chuộng. Việt Nam có rất nhiều giống lúa đáp ứng
được thị hiếu này của thị trường.
. Thị trường Châu Âu : thị trường này đòi hỏi rất cao về chất lượng, vì vậy các nhà
xuất khẩu của Việt Nam gọi thị trường này là thị trường khó tính.

. Thị trường Trung Đông : lọai gạo hạt dài là lọai gạo mà thị trường này ưa chuộng,
nhưng thị trường này có các tiêu chuẩn về độ lẫn tạp chất rất khắt khe.

19


. Thị trường Châu Mỹ : ưa chuộng lọai gạo hạt trắng, có hạt dài, xay xát kỹ, có mùi
thơm tự nhiên. Thị trường này cũng rất khắt khe về chất lượng.
Thị trường Châu Phi : thị trường này chủ yếu tiêu thụ lọai gạo trắng hạt dài. Đây là
thị trường gạo có phẩm cấp thấp do chủ yếu tình hình thu nhập của quốc gia.
Thế giới dự báo sẽ có sự sụt giảm đáng kể về sản lượng gạo do hạn hán kéo dài cùng
với sự bất ổn về chính trị ở khu vực Trung Đông và Châu Phi. Theo đó, sản lượng
lúa toàn cầu trong năm nay có thể chỉ đạt 704,4 triệu tấn (khoảng 470 triệu tấn gạo),
thấp hơn mức 710 triệu tấn so với dự báo trước đó. Như thế, cầu về gạo sẽ tiếp tục
tăng cao trong thời gian tới.Việt Nam là nơi cung cấp gạo lớn của thế giới, những
chính sách trong điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua đã góp phần khiến giá gạo
tăng. Đến thời điểm này, một số nước đang có nhu cầu nhập khẩu gạo lớn như
Indonexia, Iran, Philippin, Bangladet và các nước châu Phi… Theo kế hoạch,trong
năm 2011, Philippin sẽ nhập khẩu khoảng 1,5 triệu tấn gạo từ Viêt Nam; Bangladet
trong quý I/2011 cũng có nhu cầu nhập khẩu khoảng 300000 tấn gạo của Việt Nam,
còn Indonexia cũng có nhu cầu nhập khẩu 200.000 tấn …Các nước khac là Iran, Irắc
liên tục có nhu cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam.Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu gao của Việt Nam trên thế giới.
Philippines là quốc gia bao gồm hàng ngàn hòn đảo, trải dài khoảng 1.200 km, là
một nước có thể thuận lợi trong phát triển ngành nông nghiệp. Tuy nhiên hàng năm
quốc gia này phải hứng chịu hàng chục cơn bão lớn nhỏ từ biển đông đi qua. Vì vậy
hàng năm quốc gia này phải nhập khẩu một số lượng lớn gạo để đảm bảo an ninh
lương thực trong nước.Việt Nam là nước có lượng gạo nhập vào Philippin là lớn
nhất.Lý do được giải thích là do thị trường này chuộng loại gạo cấp thấp, giá rẻ và vì
vậy hầu như Việt Nam trúng thầu hầu hết các gói thầu nhập khẩu gạo mà chính phủ

Philippines mở thầu hàng năm. Ví dụ như so với Thailand thì cùng một chủng loại
gạo nhưng giá của Việt Nam thường thấp hơn so với Thailand từ 40 đến 50 USD/tấn.
Thị trường lúa gạo trong nước cũng như thế giới đang hết sức sôi động do
nhu cầu tăng, dẫn đến giá lúa gạo cũng được cải thiện đáng kể. Hiện trên 70% lượng
gạo của Việt Nam tập trung chủ yếu vào một số thị trường trọng điểm như
Philippines, Malaysia, Irắc, Cuba... Trong khi cơ cấu thị trường lại quyết định rất lớn

20


đến chất lượng gạo và quyết định cả chuỗi giá trị lúa gạo từ sản xuất, chế biến đến
tiêu thụ.Chính vì thế nó sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong việc đa
dạng hoá thị trường hoặc quay trở lại vùng nguyên liệu.
Thương mại lúa gạo năm 2011 tuy thuộc vào 3 yếu tố: Tồn kho toàn cầu, giá dầu ảnh
hưởng nguyên liệu đầu vào và chính sách của các nước xuất khẩu gạo, trong đó vấn
đề dễ nhận thấy nhất hiện nay là tồn kho của các nước có nhu cầu nhập khẩu lương
thực đều ở mức thấp nên sẽ khuyến khích thương mại và tăng giá xuất khẩu.Trước
nhu cầu lương thực thế giới tăng ,VFA nhận định khả năng giá gạo sẽ conn tăng. Từ
đó,cuối tháng 2/2011,VFA đã thong báo nâng mức giá sàn xuất khẩu gạo thêm
20USD/tấn đối với gao5%tấn, lên520USD/tấn; gạo 25% tăng 10USD/tấn, lên
490USD/tấn.

C. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan:
1. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch
Ngoài giống lúa, khâu thu hoạch và công nghệ sau thu hoạch có ý nghĩa quan
trọng vì cũng chi phối trực tiếp chất lượng gạo. Chẳng hạn, nếu phơi và sấy lúa
không kịp thời, không đúng quy trình kỹ thuật sẽ làm hạt gạo ẩm vàng. Nếu dự trữ
quá lâu và bảo quản gạo không tốt cũng sẽ làm biến chất gạo. Tất cả những điều này
đều khiến cho giá bán rẻ hơn, thậm chí không thể bán được ở những thị trường khó
tính đòi hỏi chất lượng nghiêm ngặt. Hoặc có bán được ở những thị trường khác,

chúng ta sẽ bị bên mua chèn ép giá hay đưa ra các điều kiện bất lợi cho ta như trả
chậm, mua chịu...
Hiện nay, công nghệ sau thu hoạch ở Việt Nam vẫn chưa được đầu tư đúng
mức. Việc thu hoạch lúa chủ yếu vẫn được tiến hành thủ công. Khâu phơi sấy vẫn
dựa chủ yếu vào thời tiết, nắng tự nhiên, chưa có thiết bị thu hoạch và phơi sấy.
Trong cả nước 90% nông hộ có sân phơi, nhưng ở Đồng bằng Sông Cửu Long chỉ
có 76% nông hộ có sân phơi. Trong số đó, khoảng 60% nông hộ có sân xi măng hoặc
gạch. Do thiếu sân phơi, nông dân thường phơi ở đường giao thông,do đó tỷ lệ gãy

21


cao và lẫn sạn nhiều. Mặt khác, vụ hè thu ở Nam Bộ thu hoạch vào mùa mưa, nên
không có điều kiện phơi nắng, gạo dễ bị ẩm mốc và giảm chất lượng. Trong khâu
bảo quản, hiện còn quá ít các phương tiện phòng chống vi sinh vật gây hại như nấm
mốc, chuột bọ...Những hạn chế này vừa giải thích lí do tại sao chất lượng gạo của
Việt Nam thường thua kém các nước khác, vừa cho thấy tổn thất về số lượng do công
nghệ lạc hậu mang lại.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), là vựa lúa trọng điểm của cả nước, sản xuất và
cung ứng hơn 20 triệu tấn lúa/năm, góp phần đưa hạt gạo Việt Nam có mặt ở nhiều
quốc gia. Tuy nhiên, mối bận tâm của người trồng lúa lẫn ngành chức năng là vấn đề
cải tiến công nghệ bảo quản sau thu hoạch (BQSTH) như thế nào để góp phần nâng
cao chất lượng hạt gạo. Trên thực tế, vấn đề này đang gặp không ít khó khăn, vướng
mắc, thậm chí là chưa đúng quy trình.
Khâu BQSTH lúa, gạo của chúng ta hiện nay đang đi theo quy trình ngược. Đây là
nhận định của không ít các nhà khoa học, cán bộ đầu ngành về lĩnh vực công nghệ
sau thu hoạch. Do thói quen sản xuất và thiếu phương tiện, nên các công đoạn bảo
quản hiện nay không được thực hiện theo đúng quy trình. Đường đi của hạt lúa, hạt
gạo lòng vòng. Nó phải trải qua nhiều công đoạn trong những điều kiện môi trường
và thời tiết khác nhau, làm giảm chất lượng của hạt gạo chế biến.

Theo TS Phạm Văn Tấn - Phó Giám đốc Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công
nghệ sau thu hoạch, nếu chúng ta xay xát rồi mà chúng ta bảo quản gạo, hạt gạo dễ
hút ẩm môi trường hơn so với hạt lúa. Thứ hai, nếu bảo quản trên 3 tháng, hạt gạo dễ
bị biến màu vàng. Lúa thì độ ẩm 14% bảo quản 3 tháng, thậm chí 6 tháng không bị
dính màu vàng. Bảo quản gạo, sấy gạo là không phù hợp so với bảo quản lúa và sấy
lúa.
Lâu nay, chúng ta vẫn đang duy trì một "quy trình ngược" bất hợp lý của các công
đoạn BQSTH, đó là: thu hoạch - làm khô sơ bộ - xát nứt lúa với độ ẩm cao ở một địa
điểm - vận chuyển (chứa tạm từ 1-7 ngày) - xát trắng - lau bóng ở một địa điểm khác
- sấy gạo đến độ ẩm 14% - bảo quản tạm gạo trắng (dưới 3 tháng) chờ tiêu thụ

22


Ngoài những nhược điểm gây tổn thất sau thu hoạch lúa gạo cả về chất lẫn về lượng
do làm khô sơ bộ cho lúa không đạt yêu cầu và xay xát lúa tại độ ẩm cao; do quá
trình rơi vãi, do chuột và sâu bọ…
Rõ ràng thay vì sấy và bảo quản lúa bằng những công nghệ tốt thì quy trình này lại
sấy và bảo quản gạo. Bảo quản gạo dù có giảm được về thể tích và khối lượng, chi
phí bảo quản thấp hơn, nhưng thực tế, gạo trắng có tuổi thọ ngắn hơn lúa. Đó là chưa
kể các yếu tố khác, gây ảnh hưởng đến chất lượng hạt gạo.
TS Lê Văn Bảnh - Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, cho biết: "Chúng ta bỏ công sức rất
nhiều trước khi thu hoạch. Nghĩa là chúng ta trồng, chăm sóc, thu hoạch, chúng ta
làm rất kỹ, rất tốt. Nhưng cái khâu sau thu hoạch còn nhiều vấn đề, gây thất thoát
lớn. Thu hoạch không đúng thời điểm thôi, thu hoạch trễ, sớm, cũng gây rạn nứt, xay
chà dễ bị hư vỡ".
Rõ ràng, công nghệ làm khô hoặc bảo quản lúa hay chế biến gạo lạc hậu sẽ làm giảm
nghiêm trọng chất lượng của hạt gạo thành phẩm. Thêm vào đó, sự xáo trộn về thứ
tự trong quy trình công nghệ sau thu hoạch cũng làm giảm chất lượng, giá trị, uy tín
của hạt gạo trên thị trường.

Để sớm khắc phục những vướng mắc này, nhất thiết cần phải có sự hợp tác, liên kết
chặt chẽ giữa các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp và nông dân. Khi làm
được điều này, chuỗi giá trị lúa gạo và đời sống nông dân trồng lúa vùng ĐBSCL nói
riêng, cả nước nói chung, chắc chắn sẽ được cải thiện
2. Công nghệ chế biến xuất khẩu
Xay xát chế biến, bảo quản có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
và nâng cao chất lượng lúa gạo, làm gia tăng giá trị của hạt gạo, nâng cao hiệu quả
sản xuất và hiệu quả xuất khẩu. Bởi lẽ quá trình chế biến gạo có liên quan mật thiết
tới các tiêu thức về phẩm chất, đặc biệt tới quy cách của gạo. Các tiêu thức cơ bản
về quy cách phẩm chất gạo xuất khẩu bao gồm kích thước của hạt (độ dài hạt), độ
bạc bụng, tỷ lệ tạp chất, tỷ lệ thóc lẫn, độ bóng, độ đồng đều, quan trọng nhất là chỉ
tiêu gạo nguyên hạt 100% hay tỷ lệ tấm. Căn cứ vào tỷ lệ tấm, người ta chia gạo

23


thành các phẩm cấp khác nhau. Gạo phẩm cấp cao có tỷ lệ tấm từ 5-10% tấm và gạo
nguyên hạt 100% (hiện nay Việt Nam chưa chế biến được loại gạo này). Loại gạo
cấp trung bình có tỷ lệ tấm từ 20 - 25% tấm; loại gạo cấp thấp từ 35 - 40% tấm. Để
chế biến được gạo cấp cao , thực tế đòi hỏi công nghệ chế biến hiện đại và tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật từ khâu phơi sấy, làm sạch tạp chất trước khi xay xát,
vận chuyển, bảo quản...Phần lớn máy xay xát đang sử dụng ở nước ta (nhất là ở miền
Bắc) đạt trình độ công nghệ còn thấp. Tỷ lệ thu hồi gạo thành phẩm (35% tấm) đạt
60 - 62%, gạo xuất khẩu (20% tấm) đạt 48 - 50%, tỷ lệ gẫy 15 - 20% trong khi các
nhà máy mới có thể đạt tỷ lệ thu hồi 71 - 72%, tỷ lệ gạo nguyên 52 - 55%. Điều này
giải thích tại sao trong những năm qua Việt Nam chủ yếu xuất khẩu loại gạo phẩm
cấp thấp và trung bình, (Riêng năm 1989 loại này chiếm tới hơn 90%, loại cấp cao
hầu như không có (0,3%) tổng lượng gạo xuất khẩu). Phần lớn gạo xuất khẩu của ta
thường không đảm bảo độ đông nhất về quy cách, chất lượng ngay trong từng lô gạo.
Ngoài ra, gạo xuất khẩu của ta còn nhiều nhược điểm khác như độ trắng không đều,

lẫn thóc và tạp chất. Đặc biệt, gạo vụ hè thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng, vàng
hạt, tỷ lệ gẫy cao.
Mặc dù các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu của Việt Nam có công nghệ và
thiết bị ở trình độ tương đương với Thái Lan, song 80% lượng thóc của Việt Nam lại
được xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ và các hộ nông dân không được trang bị
đồng bộ về phơi sấy và kho chứa nên chất lượng gạo chế biến giảm đi rất nhiều.
Hay như công nghệ chế biến sau gạo, phần lớn công nghệ này ở Việt Nam chỉ đạt
trình độ thủ công sản xuất gạo thô phục vụ trong nước. Trong khi ở Thái Lan, ngoài
phục vụ một lượng đông đảo khách du lịch nước ngoài cũng như xuất khẩu gạo
nguyên hạt chất lượng cao thì hằng năm, quốc gia này còn xuất khẩu khoảng 150
nghìn tấn sản phẩm chế biến từ gạo, thu về khoảng 78 triệu USD, tương đương giá
trị của 0,5 triệu tấn gạo xuất khẩu.
Phẩm cấp thấp và sự kém đa dạng về chủng loại cũng là một bất lợi lớn của gạo Việt
Nam. Theo số liệu nghiên cứu của Vụ Xuất nhập khẩu, trong khi gạo chất lượng cao
(5-10% tấm) của Việt Nam được đánh giá là đã tăng đáng kể từ 14,2% năm 1990 lên

24


×