Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHÀ VĂN VÀ HIỆN THỰC PHẢN ÁNH: KHẢO SÁT QUA HAI TÁC PHẨM “CHÍ PHÈO” VÀ “AQ CHÍNH TRUYỆN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.35 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM-ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
-------------------------

TIỂU LUẬN HẾT MÔN HỌC

Tên đề tài:
NHÀ VĂN VÀ HIỆN THỰC PHẢN ÁNH
(KHẢO SÁT QUA “CHÍ PHÈO” VÀ “AQ CHÍNH TRUYỆN”)

Học phần: Nhập môn lí luận văn học
Sinh viên thực hiện: Phạm Phương Linh
Lớp: 18SNV
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Trường

Đà Nẵng, tháng 12/2018

1


MỤC LỤC.
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..3
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………...........3
2. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………..3
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………............3
4. Bố cục…………………………………………………………………….3
NỘI DUNG…………………………………………………………………...…4
1. Những vấn đề lí luận chung …………..………………………………...4
1.1.

Nhà văn và chất liệu hiện thực…………………………………...4



1.2.

Văn học với điểm nhìn phản ánh………………………………...4

1.2.1. Phản ánh trực tiếp……………………………………….........4
1.2.2. Phản ánh gián tiếp……………………………………….........5
2. Khảo sát truyện ngắn “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”…………....5
2.1.

Nhà văn – hiện thực trong văn học Trung Quốc qua “AQ chính
truyện”…………………………………………………………….5

2.1.1. Đôi nét về tác giả Lỗ Tấn………………………………...…...5
2.1.2. Tính hiện thực phản ánh qua tác phẩm “AQ chính truyện”.5
2.1.3. Đôi nét về tác giả Nam Cao ..…………………………………7
2.1.4. Tính hiện thực phản ánh qua tác phẩm “Chí Phèo” ……….8
2.2.

So sánh nhà văn – hiện thực trong văn học Việt Nam với Trung
Quốc bằng hai tác phẩm cụ thể của Nam Cao và Lỗ Tấn…….11

2.2.1. Giống nhau ………………………………………...………...11
2.2.1.1 Về nội dung……………….………………...………...11
2.2.1.2 Về nghệ thuật…………….………………...………...11
2.2.2. Khác nhau…………………………………………………….12
2.2.2.1. Trần thuật tuyến tính và phi tuyến tính………… ..12
2.2.2.2. “Vẽ rồng điểm mắt” và chi tiết nhỏ làm nên thành
công lớn……………………………………………………….12
2.2.2.3. Mô tả tâm lí và mô tả hành động…………………...12

2.2.3. Tiểu kết…………………………………………………….....12
KẾT LUẬN……………………………………………………………………13
2


Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………...…13
Phần cho điểm của cán bộ chấm thi…………………………………………14
Một số quy định chung………………………………………………………..15

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là một bộ môn khoa học đồng thời cũng là bộ môn nghệ thuật đầy
phức tạp. Văn học là chất dinh dưỡng nuôi dưỡng tâm hồn của con người, là chặng
đường để con người đi tìm hạnh phúc để sống tốt hơn, để mở rộng hiểu, trí tưởng
tượng, đưa con người đi tới chân trời, tới vùng đất xa xôi thông qua từng câu từng chữ
của văn bản. Bên cạnh đó, văn học là sự phản ánh hiện thực, nhiệm vụ chủ yếu của
văn học là phản ánh hiện thực, vinh dự lớn lao nhất của nhà văn là phản ánh đúng đời
sống của nhân dân, của xã hội.
Văn học cũng như văn nghệ nói chung là lĩnh vực của tình cảm thẩm mĩ, nhưng
vẫn là một loại hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mối quan hệ giữa văn
học với hiện thực là mối quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh. Mác viết:
“Vận động của tư duy chỉ là sự phản ánh của vận động hiện thực được di chuyển vào
và được cải tạo trong đầu óc con người.” Kế thừa quan niệm đó, Lê-nin viết: “Kết luận
duy nhất của mọi người rút ra trong đời sống thực tiễn, kết luận mà chủ nghĩa duy vật
lấy làm cơ sở cho nhận thức luận của mình một cách tự giác là: có những đối tượng,
vật, vật thể, tồn tại ở ngoài chúng ta, không lệ thuộc vào chúng ta, và cảm giác của
chúng ta đều là hình ảnh của thế giới bên ngoài”. Văn học không tách rời với tư tưởng
nhưng chính tư tưởng cũng bắt đầu từ hiện thích. Chính vì vậy nên có thể nói sáng tác
văn học vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách quan. Nó không đơn thuần chỉ
là một hoạt động phản ánh mà còn là hoạt động sáng tạo – sự sáng tạo vừa mang tính

trực tiếp vừa mang tính gián tiếp để cho ra đời tác phẩm. Tác phẩm ra đời là kết quả
của một quá trình tích lũy, quá trình “mang nặng đẻ đau” của tác giả. Tác phẩm văn
học chính là sợi dây liên kết nối liền tác giả với độc giả. Nhờ có sự tiếp nhận của độc
giả mà tác phẩm có sự tồn tại lâu dài giống như cây đời mãi mãi xanh tươi. Lúc này
tác phẩm chính là nghệ thuật, là nét đẹp chân chính mà qua đó tác giả thể hiện những
tâm tư tình cảm, những trăn trở về xã hội và hi vọng về một tương lai tươi sáng, tốt
đẹp hơn. Phải chăng vì thế mà văn học, nghệ thuật không thể tách rời với hiện thực?
Nhưng hiện thực phản ánh như thế nào? Nó không chỉ đơn giản là cái nhìn, là sự miêu
tả dưới ngòi bút của tác giả mà còn phụ thuộc tài năng, vào quan niệm thẩm mỹ và sự
thăng hoa cảm xúc của người nghệ sĩ.
Từ những lý do trên, tôi chọn hai tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao) và tác phẩm
“AQ chính truyện” (Lỗ Tấn) để làm rõ vấn đề nhà văn và hiện thực phản ánh.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng kiến thức có sẵn, phương pháp phân tích, so sánh, tìm kiếm tài liệu và
sau đó tổng hợp.
3


3. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu và làm rõ về nền văn học hiện thực, quan điểm sáng tác của các nhà
văn hiện thực mà cụ thể đó là các tác phẩm văn học của Nam Cao và Lỗ Tấn thông
qua hai tác phẩm “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”.
4. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì bài tiểu luận gồm có 2 phần:
1. Những vấn đề lí luận chung:
2. Khảo sát truyện ngắn “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”.

NỘI DUNG
1. Những vấn đề lí luận chung:
1.1.


Nhà văn và chất liệu hiện thực:

Văn học không chỉ phản ánh cái bên ngoài nó, có thể hiểu đơn giản là
hiện thực khách quan hay là cái khách thể, mà còn có nhu cầu phản ánh chính bản
thân nó – nghĩa là đối tượng chủ thể, là chính bản thân nhà văn. Quan niệm hiện thực
của văn học như là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người đã trở
nên siêu hình, không phù hợp với thực tế. Hiện thực là thực tại trong mối quan tâm
của chủ thể. Cái chủ thể và cái khách thể dung hòa, có mối quan hệ mật thiết, qua lại
lẫn nhau. Nếu như chủ thế hóa đối tượng, nghĩa là chủ thể hóa thân, nắm bắt, cảm
nhận, trải nghiệm, lý giải đời sống bằng ý thức thẩm mĩ. Thì ngược lại, đối tượng sẽ
hóa chủ thể, lúc này chủ thể giống như một sợi dây kết nối, gắn kết tình cảm, lý
tưởng hi vọng, ý chí…để đối tượng hóa thành khách thể thẩm mĩ. Mỗi hình thái ý
thức xã hội có một đối tượng thực tương ứng với nó. Hiện thực của văn học không
giống với hiện thực của khóa học xã hội, khoa học tự nhiên và chính trị. Có thể nói
“hiện thực” của văn học được nhà văn thể hiện qua những tác phẩm, những câu chữ
về những đề tài đấu tranh thống nhất đất nước, tố cáo xã hội phong kiến, những hiện
thực xảy ra ngay chính trong xã hội. Nghe có vẻ giống như là hiện thực về chính trị
nhưng không phải vậy. Bởi dưới ngòi bút của nhà văn, nhà văn đã làm cho chất liệu
hiện thực chính trị được chính trị khóa theo một đường lối nhất định của ý thức cá
nhân tác giả.
Có thể hiểu, hiện thực của văn học là thế giới ý nghĩa mà con người sống trong
đó cảm thấy được. Tất cả những gì mà con người tìm thấy được như vũ trụ, thiên
nhiên, con người, xã hội, văn hoá, đồ vật,… mà nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và từ
đó khám phá những con đường để đi tới cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp hơn, thú vị hơn
trong nghệ thuật thì đó là hiện thực. Thực tiễn cho phép người ta càng ngày càng phát
hiện ra nhiều ý nghĩa của thế giới đối với đời sống và do đó mà cả đối với nghệ thuật.
Ý nghĩa của sự vật thay đổi theo quá trình thực tiễn. Không có hiện thực bất biến,
muôn thuở. Văn học phản ánh hiện thực đó trong tính đa diện, toàn vẹn và tính thời
đại. Ví dụ như đều viết về hiện thực thời chiến tranh nhưng trong chiến tranh thấy

khác, sau chiến tranh thấy khác, sau mấy chục năm lại thấy khác hơn nữa. Hiện thực
chính là thực tiễn – phương thức tồn tại của con người, là các hoạt động của con người
luôn luôn vận động để vượt qua khó khăn hướng tới những điều tốt đẹp hơn. Điều này
4


giống như câu nói của Platon: “Chiến thắng hiển hách nhất là chiến thắng chính bản
thân mình”, việc vượt qua khó khăn hướng tới những điều tốt đẹp hơn chính là khoảnh
khắc mà con người vượt lên chính mình, họ nếm trải mọi tình cảm từ vui sướng, tự
hào, cao cả, đến bất lực, bi đát, khôi hài, nhục nhã, cay đắng… Chính vì lẽ đó, chất
liệu hiện thực xung quanh đời sống rất phong phú, phức tạp, muôn màu. Điều này đã
giúp cho nhà văn có nhiều cảm hứng sáng tác hơn.
1.2.

Văn học với điểm nhìn phản ánh:

1.2.1 Phản ánh trực tiếp:
Đòi hỏi nhà văn phải dấn thân và hiện thực để sáng tác, sống với hiện thực,
mắt thấy, tai nghe,…để phản ánh bản chất đời sống vào tác phẩm của mình. Giống như
Nam Cao từng nói: “Sống đã rồi hãy viết”. Đúng vậy, nhà văn phải thâm nhập thực tế,
bám sát vào hiện thực, quan sát và thu thập tài liệu, tích lũy vốn sống, có cơ sở “hư
cấu”, có hư cấu tác phẩm mới có chiều sau, từ cái bình thường để trở thành sự kiện văn
học.
Giống như Nam Cao có vẻ bề ngoài vụng về, ít nói nhưng có đời sống nội
tâm phong phú, sôi sục, là con người trí trung thực luôn vươn lên và nghiêm khắc đấu
tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khát khao vươn tới
tâm hồn của con người thật đẹp. Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa
yêu thương. Ông gắn bó thiết tha với người nông dân ở quê hương mình, nhất là
những người nghèo khổ bị áp bức. Quan điểm sáng tác của Nam Cao chủ yếu dựa trên
tinh thần nhân đạo, hiện thực, sáng tạo và phục vụ kháng chiến. Dựa vào hoàn cảnh t

hật, người thật mà Nam Cao được chứng kiến và nghe kể về làng quê mình, bức xúc
hiện thực tàn khốc, Nam Cao viết Chí Phèo để tố cáo xã hội đen tối lúc bấy giờ.
1.2.2 Phản ánh gián tiếp:
Trong hoàn cảnh xa cách với sự kiện, sự vật, hiện tượng nên nhân vật được
phép tưởng tượng ra một hiện thực mới trong tác phẩm trên cơ sở những tài liệu,
những điều kiện mà đặc trưng cho phép để sáng tạo.
2. Khảo sát truyện ngắn “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”:
2.1. Nhà văn – hiện thực trong văn học Trung Quốc qua “AQ chính
truyện”:
2.1.1. Đôi nét về tác giả Lỗ Tấn:
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, là nhà văn cách mạng nổi tiếng của nền
văn học hiện đại Trung Quốc nửa đầu thế kỉ XX. Ông là một trí thức yêu nước có
nhiều tiến bộ. Ông “danh y tinh thành” này đã dùng ngòi bút của mình để “phanh
phui” căn bệnh tinh thần cho quốc dân với chủ đề “phê phán quốc dân tinh”,nhằm làm
thay đổi căn bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa lúc bấy giờ.
Lỗ Tấn “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã
hội bệnh tật, với mục đích lôi hết bệnh của họ ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách
chạy chữa" (Vì sao tôi viết tiểu thuyết).
2.1.2. Tính hiện thực phản ánh qua tác phẩm “AQ chính truyện”
AQ chính truyện có tầm khái quát rất rộng lớn: nó thâu tóm, ôm trùm và khái
quát được thực trạng xã hội Trung Quốc trước, trong và sau cách mạng Tân Hợi
(1911). Ðể khái quát một giai đoạn đầy biến động với một trường diện lịch sử rộng lớn
5


của xã hội lúc bấy giờ đáng lẽ phải dùng một bộ tiểu thuyết trường thiên. Song, Lỗ
Tấn chỉ dùng một truyện vừa trên dưới 50 trang mà đã khái quát được toàn bộ thực
trạng xã hội Trung Quốc trước, trong và sau cách mạng Tân Hợi.
AQ chính truyện là đề tài viết về người nông dân. Truyện đã nêu lên một vấn
đề trọng đại và bức xúc của lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ: nông dân với cách mạng.

Lịch sử Trung Quốc lúc ấy đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng. Cách mạng là một sự
đổi thay. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là ngày hội của quần chúng. Thế
nhưng những nông dân như AQ lại không được làm cách mạng.
Nói đến AQ là nói đến “Một con số zero to tướng phủ lên lá số tử vi của AQ”
(Đặng Thai Mai). Đã là con người thì phải có lấy một cái tên,vậy mà AQ lại chẳng có.
Anh chàng là một con số 0 tròn trĩnh, không tên, không tuổi, không quê quán, nghề
nghiệp. Với con số 0 ấy, liệu có quá đáng khi nói AQ chẳng khác gì một con vật hay
không? Đến con chó trong nhà còn có cái tên cho dễ gọi, dễ sai bảo như Vàng, Ki,
Đốm,...cơ mà. Trong khi làng Mùi có hai nha giàu là cụ cố họ Tiền và cụ cố họ Triệu,
nhưng AQ chỉ nhận mình là người họ Triệu. Nếu AQ có tâm lý thấy kẻ sang bắt quàng
làm họ thì AQ cũng có thể nhận mình là người họ Tiền được chứ sao ?. Song, AQ chỉ
nhận mình là người họ Triệu. Ðây là dấu hiệu làm cơ sở để có thể nói rằng AQ vốn là
người họ Triệu. Nhưng trong cái xã hội “bần cư trung thị vô nhân vấn, phú tại thâm
sơn hữu khách tầm” (nghĩa là nhà nghèo ở giữa chợ không có người hỏi tới, nhà giàu ở
trong rừng sâu lại có khách tìm đến), thì một người cố nông như AQ làm sao được
chấp nhận là người họ Triệu của cụ cố họ Triệu giàu có. Tên và họ của AQ bị chính
giai cấp thống trị tước đoạt và gạt AQ ra ngoài lề xã hội, đẩy AQ xuống hàng những
con vật. Trong bản sơ yếu lý lịch của nhân vật AQ chỉ có cột mục nghề nghiệp: Ai thuê
gặt lúa thì gặt lúa, thuê giã gạo thì giã gạo, thuê chống thuyền thì chống thuyền. Chung
quy lại là ai thuê gì AQ làm nấy nên có thể khẳng định được rằng AQ là một nông dân.
Nhưng anh lại sống trong tình trạng sinh vô gia cư, “tử vô địa táng -tứ cố vô thân”, nên
có thể khẳng định thành phần xã hội của nhân vật AQ là một cố nông đúng với ý nghĩa
đích thực của nó.
Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh tạo nên tính cách điển hình của nhân vật.
Tính cách của nhân vật là sự tổng hòa những mối quan hệ xã hội trong hoàn cảnh ấy.
Hoàn cảnh điển hình trong AQ chính truyện là làng Mùi mà làng Mùi là hình ảnh thu
nhỏ lại của nông thôn Trung Quốc hồi ấy. Làng Mùi là một chốn ao tù, nước đọng, bảo
thủ và trì trệ. Ở làng Mùi cũng có các giai cấp như trong toàn xã hội Trung Quốc vậy.
Giai cấp thống trị ở làng Mùi được nhà văn thể hiện qua hai nhân vật là cụ cố họ Tiền
và cụ cố họ Triệu. Những người cố nông thì có AQ, cụ Don, Vương râu xồm, vú Ngò.

Tầng lớp tăng lữ thì có sư nữ ở chùa Tĩnh Tu. Trên cái nền của những mối quan hệ giai
cấp ấy, tính cách của AQ đã được bộc lộ ra. Làng Mùi chính là hoàn cảnh điển hình và
tính cách của AQ là tính cách điển hình. Vì vậy,tính cách của AQ là sự kết hợp hài hòa
giữa yếu tố lạ và yếu tố quen.
Quen là bởi AQ là một cố nông như bao nhiêu cố nông khác ở nông thôn Trung
Quốc thời này. AQ cũng có những nhu cầu tối thiểu như bất kì con người nào để tồn
tại. Ðó là nhu cầu về ăn, mặc, nhu cầu xây dựng hạnh phúc gia đình, được sống và
được yêu thương. Trong yếu tố quen có yếu tố lạ. Nhân vật AQ cũng có nhu cầu xây
dựng hạnh phúc gia đình như mọi người khác. Điều này chẳng có gì là xa lạ cả. Nhưng
động lực của nhu cầu này lại không phải là tình yêu mà là do một quan niệm của
lễ giáo phong kiến “bất hiếu hữ tam,vô hậu vi đài” (trong 3 điều bất hiếu thì điều bất
6


hiếu lớn nhất là không có con trai nối dõi tông đường). Phép thắng lợi tinh thần, bệnh
tự cao tự đại biểu hiện của tư tưởng giai cấp thống trị ở Trung Quốc lúc này. Việc này
vô hình chung đã tạo ra những thắng lợi trong tưởng tượng mà thực chất là thất bại.
Người khác đánh AQ, AQ bị thua, AQ cho rằng nó đánh mình chẳng khác gì nó đánh
bố nó. Về gia thế của AQ không ai biết, nhưng AQ luôn luôn huyênh hoang: “Nhà tao
xưa kia có bề có thế bằng mấy mày kia, thứ mày thấm vào đâu”. Có thể nói AQ đứng
chênh vênh trên miệng hố hiện tại, không có quá khứ hoàng kim cũng không có tương
lai xán lạn. Thế nhưng, AQ thường nói về tương lai: “Con tớ ngày sau làm nên chẳng
bằng năm, bằng mười lũ ấy à!”, AQ luôn mang trong mình phép thắng lợi tinh thần
như là một lá bùa hộ mệnh, như là một thứ vũ khí tùy thân để phản ứng, để chống trả
mọi đối thủ trong xã hội.Là một cố nông, vậy mà AQ lại mang tư tưởng của giai cấp
thống trị. Ðiều này đã tạo nên nét lạ trong tính cách của AQ. Tuy nhiên, có phải vì thế
mà tính cách AQ thiếu tính chân thực, thiếu nhất quán không?Tính cách điển hình của
AQ là rất chân thực. Sỡ dĩ AQ là cố nông mà lại mang trong mình tư tưởng của giai
cấp thống trị là bởi: “Tư tưởng thống trị của một thời đại là tư tưởng của giai cấp
thống trị”(Mác).

Ðối với những người thuộc các tầng lớp trong xã hội, AQ có những phản ứng
giống nhau không hề có phân biệt gì. Ðiều này chứng tỏ AQ mơ hồ mất hết cảm quan
hiện thực. AQ không say bởi rượu, AQ rất tỉnh nhưng do những phản ứng của AQ ngờ
nghệch và không có tính định hướng nên AQ tỉnh là say.Giai cấp nông dân trong lịch
sử tiến hóa của nhân loại, không hề có một triết gia, một tư tưởng nào cả. Vì vậy, nhân
vật AQ về vật chất là 0 (zero), về tư tưởng không vật chất, không tinh thần làm sao
sống được? Do đó, AQ phải bám theo tử tưởng của giai cấp thống trị.
AQ rơi vào khoảng trống của tinh thần và của tư tưởng. Nên AQ đã phải vay
mượn đã phải bám víu lấy tư tưởng của giai cấp thống trị để tồn tại. Rõ ràng sự tồn tại
của AQ trong tác phẩm làphép thắng lợi tinh thần là hiện thân của bệnh tự cao, tự đại
của giai cấp thống trị cơ mà?
Nhân vật AQ còn được khắc họa lên bằng cái bi và cái hài. Cái bi trong tính
cách của AQ được lý giải trên cơ sỏ vận dụng ý kiến của Ăngghen: “Sự xung đột có
tính bi kịch giữa cái định lí tất yếu về phương diện lịch sử và việc không thể thực hiện
được định lí đó về phương diện thực tiễn”. AQ muốn thắng nhưng không được thắng,
nghĩa là muốn thắng là phương tiện lịch sử, không được thắng lại là phương tiện thực
tiễn. AQ muốn yêu nhưng không được yêu. AQ muốn làm cách mạng mà không được
làm cách mạng. Phép thắng lợi tinh thần của nhân vật AQ cùng với những biểu hiện tư
tưởng tự cao tự đại của giai cấp thống trị mà nhân vật AQ đã vơ vào mình chính là nét
nổi bật về tinh thần của giai đoạn cuối cùng hình thái lịch sử xã hội phong kiến Trung
Quốc ở triều Mãn Thanh – điều này làm nên yếu tố hài của chuyện.
Trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã khắc họa bóng dáng này bằng lối phác họa,
chấm phá, nhưng lại đầy ấn tượng của cuộc cách mạng Tân Hợi 1911. Ðã gọi là cách
mạng thì phải tạo được những biến đổi lớn. Cách mạng muốn thành công thì phải dựa
vào quần chúng khi quần chúng có vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Vậy mà
quần chúng như AQ lại không được làm cách mạng. Cách mạng Tân Hợi đến với làng
Mùi chỉ tạo nên được một sự xao động giống như sự xao động của mặt nước ao hồ khi
có một viên sỏi nhỏ ném xuống để rồi nó trở lại bằng lặng như xưa. Với những nét
phác họa tinh tế, Lỗ Tấn đã thể hiện một thái độ phê phán đối với tính chất không triệt
để của cuộc cách mạng Tân Hợi 1911.

7


2.1.3. Đôi nét về tác giả Nam Cao:
Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri, là một nhà văn và cũng là một chiến
sĩ, liệt sĩ Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn trước cách mạng, một nhà báo
kháng chiến sau cách mạng, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20.
Những tác phẩm của ông đề cao con người, quan tâm đến đời sống tinh thần
của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Tâm lý nhân
vật trở thành trung tâm, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông thường
viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời
sống hằng ngày đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, đầy triết lý sâu sắc về
con người, cuộc sống và nghệ thuật. Quan điểm sáng tác của Nam Cao là “Nghệ
thuật vị nhân sinh” tức là nghệ thuật phải viết về con người và hướng những điều
tốt đẹp của con người và phê phán quan niệm “Nghệ thuật vị nghệ thuật”.
2.1.4. Tính hiện thực phản ánh qua tác phẩm “Chí Phèo”
Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan
ra đời thì ít ai nghĩ rằng thân phận của người nông dân dưới ách thống trị của đế
quốc phong kiến lại có thể cực khổ như chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi “Chí Phèo”
bước ra từ trang sách của Nam Cao, thì chúng ta mới nhận ra rằng đây mới chính là
hiện thân đầy đủ nhất của những gì gọi là khốn khổ nhất, tủi nhục nhất của người
nông dân Việt Nam trong thời kì trước cách mạng tháng Tám 1945.
Từ đầu tác phẩm, Nam Cao đã mang đến cho người đọc một luồng gió khó
chịu bởi tiếng chửi. Chí Phèo chửi, nhưng không chửi nhăng, chửi cuội, mà tiếng
chửi này có một sự logic. “Hắn vừa đi vừa chửi”. Chí “Chửi trời, chửi đời, chửi cả
làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”, chửi đứa chết mẹ nào đã
đẻ ra thân hắn. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít
nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Tiếng chửi của Chí là tiếng chửi bộc
lộ cảm xúc phẫn uất, hi vọng được giao tiếp với xã hội dù chỉ là bằng tiếng chửi
nhau dẫu bị người dân coi là hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng chẳng ai

đáp lại Chí ngoài “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị bật ra khỏi cái xã hội loài
người. Xã hội mà dù sống trong đó, Chí cũng không được xem là con người. Qua
đó ta thấy được bốn thái độ đó là thái độ hằn học, hận thù của người chửi; thái độ
dửng dung khinh miệt của người nghe chửi; thái độ cảm thông, thương cảm của
nhà văn; và cuối cùng là thái độ cảm thông, tò mò của người đọc… Cuộc đời
thương cảm của con người ấy còn đi đến đâu và sẽ như thế nào sẽ là một ẩn số với
người đọc…
Chí Phèo đã bị bỏ rơi ngay từ khi mới sinh ra, không cha mẹ, không họ
hàng, không gia đình, nhà cửa. Lai Lịch của Chí Phèo được mở ra trong câu
chuyện là một đứa trẻ “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên trong
cái lò gạch bỏ không”. Sau đó hắn được cưu mang bởi những con người nghèo
khổ, Chí ở từ nhà người này đến người khác, từ người đàn bà góa mù cho đến bác
phó cối. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh,tủi cực. Năm 20 tuổi, Chí đi làm
canh điền cho nhà Bá Kiến. Đây là thời gian tươi đẹp nhất của Chí, đây là độ tuổi
nhiều mơ mộng về một tương lai tươi đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những
gì làm cho người ta khinh. Cũng giống như những người khác, Chí cũng có ước mơ
giản dị, yên bình: “Có một gia đình nho nhỏ.Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm”. Đó chính là ước mơ lương thiện. Nhưng đau thay, cái xã hội bất lương
8


ấy đã bóp chết ước mơ của Chí khi mới chỉ trong trứng nước. Một cơn ghen vu vơ
của Bá Kiến đã đẩy anh canh điền lương thiện Chí Phèo rơi vào vòng tù tội…
Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão già ấy để rồi từ một con người lương
thiện, hiền lành, chất phác thành một kẻ lưu manh, một kẻ tội đồ bị xa lánh. Bất cứ
đứa trẻ nào được sinh ra cũng mong ước có một tuổi thơ êm đềm trong vòng tay
cha mẹ, người thân, được vui đùa và mơ mộng về tương lai. Nhưng cuộc đời chẳng
như mơ, đời Chí nghiệt ngã ngay từ lúc mới sinh ra, không rõ nguồn gốc, không
chốn nương thân. Ngay khi vừa thấy ánh mặt trời, Chí đã bị bỏ rơi, để rồi bị đặt

nhiều cám dỗ, sa ngã. Vì thế tương lai của hắn sẽ còn là một chuỗi ngày bi kịch.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ của
anh. Sau bảy,tám năm ra tủ Chí không còn là anh canh điền hiền lành như trước
nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc: “Cái
đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong
gớm chết…cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông
tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế.” Đến cả nhân tính cũng bị xã hội phá
hoại, giờ là Chí Phèo trong những cơn say triền miên, với những tội ác không thể
tha thứ khi trở thành tay sai đắc lực cho lão già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của
cả làng Vũ Đại, quay lưng lại với cái nơi mà hắn từng được yêu thương và che chở.
Từ đây, hắn sống bằng rượu, máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện.
Đến đây, Nam Cao đã vẽ nên một thực tế đau lòng về cuộc sống của người dân
trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người
nông dân bị bần cùng hóa dẫn đến mức lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm
không ánh sáng. Nhà văn xót thương, cay đắng và đau đớn cho nhân vật. Đây
chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương con người của nhà văn dành
cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút ông dành cho nhân vật vẫn
nồng nàn yêu thương. Ông đã phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt
đẹp, chỉ cần chút tình thương khẽ chạm vào là có thể sống dậy mạnh mẽ, tha thiết.
Sự xuất hiện của Thị Nở như là một cánh tay cứu lấy Chí. Một con người xấu đến
“ma chê quỷ hờn” như Thị lại là nguồn sáng duy nhất kéo Chí ra khỏi nơi tối tăm
của tâm hồn, thức tình bản chất con người, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê sau
bao ngày đã bị vùi dập, hắt hủi. Cuộc tình ngắn ngủi trong một đêm, hình ảnh bát
cháo hành vô tình đã thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Thị Nở giống như là
sứ giả tình yêu, vị sứ giả này không có đôi cánh thiên thành nhưng có đôi tay đầy
ắp tình người. Đôi tay ấy như một ngọn gió thổi vào tâm hồn Chí. Nếu là gió, gió
sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh; nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ
dữ để trả về cho anh một con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là

ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi
chợ bán vải về,… Những âm thanh ấy ngày nào chả có nhưng hôm nay Chí mới
nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh ấy khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo trong
đêm tình mùa xuân được nhắc đến trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Tiếng sáo
đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá
khứ tươi đẹp. Đó chính là những “chi tiết làm nên hạt bụi vàng của tác phẩm”
(Pauxtapxki). Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Hơn
hết, nó làm sống dậy ước mơ thời trai trẻ, có một gia đình nho nhỏ… Rồi cũng
9


chính cái giây phút hắn tỉnh, Chí Phèo đã nhận ra mình cô đơn hơn bao giờ hết.
Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mình đã làm? Chẳng biết có
phải hay không mà Chí thấy buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc
hắn đã khóc mất.
Bát cháo hành, bàn tay ân cần chăm sóc của Thị chính là liều thuốc tiên vừa
giải cảm vừa giải độc góp phần thức tỉnh con người Chí.Bát cháo hành có hương vị
đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó chính
là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Lúc này, Chí hiểu rằng, người ta
sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn sống bằng tình người, tình yêu thương
lẫn nhau nữa. Mắt hắn ươn ướt. Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn
nhen nhòm một ước mơ về cuộc sống bình dị. Hương cháo là hương vị cuộc đời,
hương vị tình yêu mà trước giờ chưa ai cho Chí cả… Bát cháo hành giản dị nhưng
bao nhân tình ẩn chứa, nó giữa chân Chí đứng lại ở bờ của phần người. Lúc đó, Chí
cầu hôn với Thị: “Già cứ như thế này thì thích nhỉ?...Hay là mình sang đây ở với tớ
một nhà cho vui”. Lời cầu hôn không tình tứ như bao người khác nhưng lại nghe
hiền lành đến lạ,khiến trái tim ta nghẹn ngào thương cảm.Từ một con quỷ dữ, Chí
thực sự được trở lại làm người với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình
thương của một người dở hơi, thô kệch, xấu xí cũng đủ làm sống dậy cả một bản

tính con người nơi Chí. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu nhường
nào!
Đau đớn thay, sau cùng Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo, lời nói
của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tát thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm
ngọn lửa vừa được nhen lên trong Chí khi lời bà cô ế của Thị Nở vang lên: “Ai lại
đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo”. Cánh cửa
cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó
chính là cái bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa quay về với cuộc sống
lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Và
khắc nghiệt hơn thế, khi bản tính con người nơi Chí Phèo trỗi dậy cũng chính là lúc
hắn nhận ra rằng mình không còn đường lùi, không thể trở lại với con người lương
thiện nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện vừa hé mở đã đóng sầm lại trước
mắt hắn. Thị Nở như một một tia sáng vụt bay ngang bầu trời đêm đen của Chí
Phèo, vừa đủ để dội lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm đi giữa bi
kịch cuộc đời Chí. Nói một cách xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã
cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lợi. Nó đã tiêu hủy và bẻ
gãy cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu, nhưng không phải lúc nào rượu cũng làm người ta
say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay
ngược lại thức tỉnh lí trí ấy. Càng uống, Chí càng tỉnh, càng tỉnh lại càng nhận ra bi
kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi “nghe thoang thoảng mùi cháo hành”, rồi
Chí ôm mặt rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý
định, Chí định đến để đâm chết con “khọm già”, “con đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý
thức về thân phận và bi kịch đã đẩy lệchg hướng đi đã đưa Chí đến thẳng nhà Bá
Kiến. Hơn ai lúc này hết, Chí hiểu ra rằng kẻ đã làm cho hắn ta phải mang lốt quỷ,
phải sống trong sự ghê sợ của xã hội, kẻ đã làm cho hắn ra nông nỗi khốn cùng này
chính là Bá Kiến. Chí càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người,
cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của hắn. Chí Phèo đến nhà Bá kiến với tư cách là
một người nông dân, là giai cấp bị trị thức tỉnh, đòi lại quyền làm người.
10



“Tao muốn làm người lương thiện? Ai cho tao lương thiện?” Câu hỏi vút lên
đầy cay đắng và không lời hỏi đáp. Câu hỏi chất chứa những nỗi đau của một con
người thấm thía được nỗi đau của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can
người về một thân phận con người đầy cay đắng trong xã hội cũ. Lương thiện có
ngay trong mỗi con người, là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi
lương thiện? Phải chăng Chí bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay
cho Chí, ngay cả cái quyền làm, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn.
Qua đây, Nam Cao đã tố cáo, lên án tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã
đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Đồng thời, bày tỏ những đau khổ bị đày đọa,
lăng nhục của người nông dân; kịp thời phát hiện và trân quý trước mắt vẻ đẹp tâm
hồn của nhân vật và khát khao thay đổi thực tại để mang đến cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình
cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thức sâu sắc mà người đọc rút ra từ những
trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm ấy mãi mãi bất tử, mãi mãi
có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm tốt đẹp trong tâm hồn
người đọc mọi thời đại như bài thơ:
“Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống
Nào có dài chi một kiếp người
Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách
Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”.
2.2 So sánh nhà văn – hiện thực trong văn học Việt Nam với Trung
Quốc bằng hai tác phẩm cụ thể của Nam Cao và Lỗ Tấn
2.2.1. Giống nhau:
2.2.1.1. Về nội dung:
Hai nhà văn của hai đất nước, hai thế kỷ, khác nhau về cả lịch sử, văn
hóa, ngôn ngữ,.. nhưng lại cùng nhìn nhận về xã hội đương thời, về hình tượng
người nông dân quen thuộc với những nỗi bi kịch cùng cực gần giống nhau. Đại

diện cho hình tượng người nông dân ấy chính là hai nhân vật điển hình AQ (AQ
chính truyện của Lỗ Tấn) và Chí Phèo (Chí Phèo của Nam Cao). Cả hai nhân vật
này đều đại diện cho giai cấp nông dân bần cùng, xuất thân nghèo nàn, không tên
không quê quán, việc làm bị giai cấp địa chủ phong kiến áp bức bóc lột về cả vật
chất lẫn tinh thần.Những bộ “mặt người dạ thú” như Bá Kiến, Đội Tảo, Cố Triệu,
Cố Tiền… đã bị lật tẩy. Cả hai nhà văn đều bọc lộ tấm lòng đau đớn của mình trước
những người nông dân thấp cổ bé họng, bị bóc lột và bị xã hội tha hóa. Hơn nữa ở
đây còn thể hiện sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa hai tâm hòn lớn, nhân cách lớn – Nam
Cao và Lỗ Tấn, hai nhà văn hiện thực và nhân đạo từ trong cốt tủy đã khiến cho nội
dung hai tác phẩm có sự tương đồng.
2.2.1.2. Về nghệ thuật:
Xét về giọng điệu, xuyên suốt toàn bộ tác phẩn “Chí Phèo” và “AQ
chính truyện”, mọt cảm nhận bao trùm về lối trần thuật trong mỗi tác phẩm là giọng
điệu khách quan lạnh lùng nhưng lại chan chứa tình cảm chủ quan của tác giả.

11


Nam Cao kể về cuộc sống chân thực, trần trụi như nó vốn có, chuyện của
thằng say rượu, chuyện yêu đương của “một con quỷ dữ” với người phụ nữ “xấu
đến ma chê quỷ hờn”… Nhưng đọc và ngẫm lại những chuyện đó, ta thấy nhà văn
kể không phải là kể cho có, mà là qua những câu chuyện nhỏ nhặt hết sức đời
thường đó lại là chuyện về một chế độ xã hội mà ở đó nhân quyền không được tôn
trọng, nó bị chà đạp, xúc phạm như đối xử với con vật. Lời trần thuật của nhà văn
như một “ống kính” quay hình ảnh về hành vi của “con quỷ dữ”: rách mặt, ăn vạ,
cướp của, đốt quán, làm tay sai cho những tên địa chủ bằng những việc bất lương…
Lời trần thuật khách quan khiến người đọc cảm thấy ghê sợ, nhưng đó là cảm giác
do ý đồ sáng tác của nhà văn mang lại, để phản ánh chân thực hơn xã hội hiện tại.
Cũng phong cách đó, ta bắt gặp Lỗ Tấn trong “AQ chính truyện” kể về
cuộc đời AQ sống vô nghĩa bằng hành động và suy nghĩ ngớ ngẫn của mình. Nhà

văn miêu tả một con người thật sự thảm hại của AQ. Với lối trần thuật khách quan,
ông muốn phơi bày những tội ác của con người và xã hội Trung Quốc. Ý đồ nghệ
thuật đã giúp ông thành công khi sử dụng lối trần thuật khách quan lạnh lùng nhưng
lại ẩn chứa những yêu thương và căm giận đằng sau đó.
Nam Cao và Lỗ Tấn đã sử dụng ngôn ngữ cá tính hóa của nhân vật rất
sâu sắc. Lời thoại của nhân vậy cho ta thấy cách nhân vật hiện lên rất rõ nét. Chí
Phèo lúc còn hậu hạ nhà chủ, hầu như tác giả không miêu tả lời nói của nhân vật,
điều này thể hiện sự nhẫn nại, cam chịu. Nhưng sự thay đổi tính cách của Chí sau
khi ra tù đã bộc lộ khi hắn cất tiếng chửi, ăn vạ, kêu làng, đốt nhà, cướp của…phẩm
chất hiện lành biến mất thay vào đó là lời lẽ của tên lưu manh, cồn đồ. Nhưng trước
Bá Kiến vẫn bộc lộ bản chất nô lệ. Lỗ Tấn cũng đặc biệt chú ý đến từng lời nói của
nhân vật, qua đó làm nổi lên tính cách của AQ. AQ lúc bị thua trước đối thủ
mạnh,luôn giở giọng cầu hòa. Nhưng trước kẻ yếu đuối, hay với người cùng thân
phận AQ lại lên giọng chửi bới, khinh miệt…
2.2.2. Khác nhau:
2.2.2.1. Trần thuật tuyến tính và phi tuyến tính:
Tác phẩm “AQ chính truyện” được trần thuật theo một trình tự nhất
định, nhân vật xuất hiện trước và sau đó là những hành động, sự kiện diễn ra nói
chung theo trình tự trước sau. Còn Chí Phèo thì cách trần thuật của Nam Cao hình
ảnh đầu tiên không phải là hình ảnh bắt đầu mà cốt truyện hiện ra trong sự đan xen
giữa quá khứ và hiện tại của nhân vật. Mỗi nhà văn chọn cho mình một lối trần
thuật riêng. Lỗ Tấn trần thuật theo trình tự thời gian truyền thống, còn Nam Cao thì
không. Nhưng nhìn chung cả hai cách trình bày đều làm nổi bật giá trị nội dung của
Tác phẩm.
2.2.2.2. “Vẽ rồng điểm mắt” và chi tiết nhỏ làm nên thành công lớn
Nếu như Nam Cao không hề bỏ qua một chi tiết nhỏ nào khi khắc họa
ngoại hình nhân vật như: bộ dạng Chí sau khi ra tù, gương mặt xấu xí của Thị Nở từ
vẻ ngoài, đến hàm răng, nụ cười,… thì Lỗ Tấn với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” chỉ
miêu tả vài nét sơ lược giàu tính biểu trưng, như miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ
miêu tả chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo… Nhưng những sự miêu tả chọn lọc,

điển hình đó đều toát lên vẻ đẹp tính cách của nhân vật.
2.2.2.3 Mô tả tâm lý và mô tả hành động
12


Ngòi bút Nam Cao luôn hướng tới khai thác, soi sáng thế giới bên trong
con người nhân vật, mọi tâm trạng, suy nghĩ của Chí luôn được nhà văn thể hiện
dưới dạng nội tâm, con ngừi và tính cách chủ yến bộc lộ qua tâm lý. Nhưng với Lỗ
Tấn, chúng thường bộc lộ qua hành động AQ bộc lộ tính cách qua những hành động
như : đánh nhau, chửi rủa, lườm nguýt,…
2.2.3. Tiểu kết:
Tóm lại, dù là “Chí Phèo” và “AQ chính truyện” đều là những kiệt tác
xuất sắc viết về số phận người nông dân lạc hậu tha hóa trong xã hội cũ. Chí Phèo phê
phán xã hội phong kiến địa chủ địa và nửa thuộc địa trong xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ. Và phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời, điều này chủ yếu ở hiện thực khách
quan. Về mặt điển hình hóa, Lỗ Tấn sâu sắc hơn vì ông không những là nhà văn, mà
còn là nhà nghiên cứu văn học sử, hơn nữa còn là nhà tư tưởng. Tuy nhiên về nghệ
thuật, Nam Cao có phần hiện đại hơn.

KẾT LUẬN
Như vậy, văn học có chức năng phản ánh hiện thực, điều đó có lẽ không có
gì đáng bàn. Cái cần bàn là đó là hiện thực gì, được thể hiện qua thể loại nào. Hiện
thực trong kịch khác với hiện thực trong thơ, hiện thực trong truyện ngắn không giống
hiện thực trong tiểu thuyết. Cho dù là về dung lượng hay ở bản chất, dù nó cùng tác
giả hay một phương pháp viết. Văn học phải là tấm gương phản ánh thời đại, chính vì
vậy nhà văn phải luôn luôn sáng tạo và “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo
những gì chưa ai có.” Chứ không phải thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào. Và
hơn cả “Sống đã rồi hãy viết”, bởi lẽ “nghệ thuật vị nhân sinh” chứ không phải là
“nghệ thuật vị nghệ thuật”. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh, hãy tiếp xúc, thấu hiểu, nhìn
cuộc sống bằng đôi mắt khách quan nhất. Bởi “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng

lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia,
thoát ra từ những kiếp lầm than...”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương Lựu (Chủ biên) cùng nhóm tác giả: Nguyễn Nghĩa Trọng, La
Khắc Hòa, Lê Lưu Oanh (2016), Lí luận văn học tập 1 Văn học, nhà
văn, bạn đọc, Nxb Đại học Sư Phạm
2. Lê-nin (1960), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Văn học nghệ thuật quốc
gia, Mátxờcơva

13


PHẦN CHO ĐIỂM CỦA CÁN BỘ CHẤM THI:
Điểm

Cán bộ chấm thi

14


MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG
1. Mỗi đề tài không quá 15 trang, được định dạng thống nhất: Font chữ
UNICODE, Time New Romans, cỡ chữ 13, trên khổ giấy A4 (210mm x
297mm) kể cả hình vẽ, bảng biểu và tài liệu tham khảo. Lề trên: 2cm, lề dưới
2cm, lề trái 3cm, lề phải: 2cm. Cách dòng: 1,2, cách đoạn: 3pt. Tên đề tài
bằng tiếng Việt.
2. Đề tài phải bao gồm các nội dung:
- Mở đầu
- Nội dung

- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
- Phần cho điểm của cán bộ chấm thi
* Phần tài liệu tham khảo bao gồm: các tài liệu được trích dẫn trong bài và các
tài liệu liên quan [không quá 15 tài liệu]. Ghi theo thứ tự như sau:
a. Đối với các tài liệu là sách, luận văn, báo cáo:
Tên tác giả (Năm xuất bản), Tên sách (hoặc luận văn, báo cáo), Nxb, Hà
Nội.
b. Đối với các tài liệu là bài báo:
Tên tác giả, “Tên bài báo” (năm xuất bản), Tên tạp chí, (số), Số trang (4550).
3. Giáo viên chỉ nhận những bài đã được định dạng rõ ràng, hình vẽ rõ nét, quy
cách đúng theo quy định (bản cứng và bản mềm bài đó).
15


4. Mọi trao đổi theo địa chỉ:
Nguyen Thanh Truong, Ph.D.
Tell: 0916940188
Email:
--------------------------------------------------------------------

16



×