Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

nguyên nhân gây nên tổn thất phúc lợi xã hội của độc quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.48 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Độc quyền, trong tiếng Anh là monopoly, có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp monos (nghĩa là một) và polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng
của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh
tranh. Mặc dù trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn
hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là
không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi
hiệu quả của lợi ích xã hội. Do đó với một thị trường có tính chất độc quyền, tổn
thất xã hội là không thể tránh khỏi.
Bài tiểu luận sẽ giải thích, phân tích, làm rõ khái niệm “độc quyền” và những tổn
thất phúc lợi do nó gây ra, từ đó rút ra ý nghĩa việc giảm thiểu đến mức tối đa
những tổn thất đó để hoàn thiện thị trường sức lao động Việt Nam trong thời kì
đổi mới.

1


NỘI DUNG

I Độc quyền thường

1.1 Khái niệm:
Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và
sản xuất ra sản phẩm không có loại hàng hóa nào thay thế gần gũi. Mọi quyết

2


định của nhà độc quyền về mặt sản lượng đều có ảnh hưởng đến giá cả thị
trường.


Một ngành được xem là độc quyền hoàn toàn khi hội đủ 2 điều kiện:

 Đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập ngành.
 Không có những sản phẩm thay thế tương tự.
1.2 Nguyên nhân xuất hiện độc quyền
- Là kết quả của quá trình cạnh tranh. Những doanh nghiệp nào có những
quyết định kinh doanh sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả
hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải. Trong trường hợp
cực đoan nhất, cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên thị
trường và doanh nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.
- Do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường. Với những ngành
được coi là chủ đạo của quốc gia (quốc phòng hay công nghiệp sản xuất vũ khí),
chính phủ thường tạo cho nó một cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà
nước.
- Chế độ sở hữu đối với phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ: Một mặt chế độ
này làm cho những phát minh, sáng chế tăng theo một thời gian nhất định nhưng
mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền có thể giữ được vị trí độc tôn

3


trong thời hạn được giữ bản quyền theo quy định do những văn bản do nhà nước
ban hành.
- Do sở hữu được một nguồn lực đặc biệt. Chẳng hạn, Nam Phi có một lợi thế
gần như độc quyền về khai thác và bán kim cương vì những mỏ kim cương lớn
nhất chủ yếu tập trung tại đây.
- Do có khả năng giảm giá thành khi mở rộng sản xuất.
- Nếu chi phí vận chuyển quá cao, thị trường có thể bị giới hạn trong một khu
vực kinh tế nhất định nào đó và nếu trong khu vực đó có một doanh nghiệp cung
cấp sản phẩm thì sẽ dẫn đến tình trạng gần như chiếm độc quyền trong kinh

doanh.

1.3 Tổn thất phúc lợi do độc quyền thường gây ra:

Do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất hàng
hóa ở mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì sản
xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như
trong thị trường (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo,
nơi mà giá bán sản phẩm phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp
sản xuất ra, trong tình trạng chiếm đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh

4


nghiệp chiếm đoạt quyền giảm sản lượng. Vì thế lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá
bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp chiếm
đoạt quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền lớn hơn giá bán sản phẩm đó. Điều
này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm được có
thể đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu
áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi
lợi ích biên bằng doanh thu biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét
trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng:
ở mức sản lượng mà doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích biên
(chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu
quả. Tóm lại, doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn
và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh
chịu do sản lượng tăng lên trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng
đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do chiếm đoạt quyền.

1.4 Các giải pháp can thiệp của chính phủ

- Ban hành luật pháp và chính sách chống độc quyền.

• Đó là các điều luật nhằm ngăn cấm những hành vi nhất định hoặc hạn chế
một số cơ cấu thị trường nhất định.

5


• Đưa ra các quy định cho phép các cơ quan chức năng của chính phủ được
thường xuyên kiểm tra việc định giá và cung ứng sản lượng của các hãng.

• Đề ra nhiều chính sách khuyến khích sự cạnh tranh quyết liệt giữa các
hãng.

- Sở hữu nhà nước đối với độc quyền thường được áp dụng với những ngành

-

trọng điểm quốc gia như khí đốt, điện năng,…
Kiểm soát giá cả đối với các hàng hóa và dịch vụ do hãng độc quyền cung

-

cấp.
Đánh thuế được sử dụng để giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền,
góp phần phân phối lại của cải trong xã hội.
Nói chung, không có một giải pháp nào là hoàn hảo. Vì thế, khi quyết định

kiểm soát độc quyền, chính phủ cần cân nhắc mọi khía cạnh lợi hại của chính
sách để có sự can thiệp hợp lý nhất.

II. Độc quyền tự nhiên – trường hợp của các ngành dịch vụ công

2.1 Khái niệm
Độc quyền tự nhiên là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá
trình sản xuất đã cho phép hãng có thể liên tục giảm chi phí sản xuất khi qui mô
sản xuất mở rộng, do đó đã dẫn đến cách tổ chức sản xuất hiệu quả nhất là chỉ
thông qua một hãng duy nhất.

6


2.2 Nguyên nhân gây nên độc quyền tự nhiên:
Một số ngành sản xuất có đặc điểm là những yếu tố hàm chứa trong quá trình
sản xuất cho phép đạt được thu nhập giảm khi gia tăng một quá trình sản xuất
hay nói cách khác chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm tăng nếu gia tăng một quá
trình sản xuất. Khi đó một doanh nghiệp nhỏ cung cấp sản phẩm là cách sản xuất
có hiệu quả nhất. Điều này có thể thấy ở các ngành dịch vụ như sản xuất và phân
phối dịch vụ, cung cấp hàng hóa, giáo dục, y tế... Lấy ví dụ như ngành cung cấp
dịch vụ: sẽ là có hiệu quả hơn nếu chỉ một doanh nghiệp cung cấp cho một vùng
thay vì có hai doanh nghiệp cung cấp với hai hệ thống dịch vụ khác nhau.

2.3 Các chiến lược điều tiết độc quyền tự nhiên của chính phủ

* Chính phủ quy định cho doanh nghiệp một mức giá sao cho mức giá đó không
làm cho nhưng mặt hàng khác có giá tăng theo, tránh hiện tượng cùng một lúc
hàng loạt mặt hàng tăng giá thì sẽ gây nên bất ổn trong đời sông nhân dân. Cách
này xóa bỏ hoàn toàn được doanh thu siêu ngạch của doanh nghiệp và giảm được
đáng kể tổn thất nhưng không loại trừ hoàn toàn được nó vì vẫn chưa đạt được
mức sản lượng hiệu quả.


7


* Chính phủ quy định cho doanh nghiệp một mức giá bằng chi phí sản xuất để
đạt mức sản lượng hiệu quả rồi bù đắp lỗ cho doanh nghiệp bằng một khoản hỗ
trợ (vd: cho vay với một lãi xuất thấp...). Biện pháp này hoặc sẽ gây méo mó về
giá cả nếu sử dụng loại thuế không phải thuế khoán hoặc sẽ làm người đóng thuế
thắc mắc nếu áp dụng thuế khoán.

* Doanh nghiệp sẽ định giá gồm những phần khác nhau: phần thứ nhất đưa ra để
phục vụ cho nhưng đối tượng khách hàng co nhu cầu cao đối với sản phẩm đó,
sau một thời gian doanh nghiệp sẽ giảm giá sản phẩm để có thể tăng thêm những
đối tượng khách hàng tiềm năng, ví dụ điển hình về vấn đề này như hãng điện
thoại lớn nhất thế giới Nokia đã giảm giá đối với những dòng diện thoại cao cấp
để nhưng khách hàng khác có thể mua với một mức giá phù hợp hơn sau một
thời gian bán giá cao cho những người có nhu cầu.

III. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Thực trạng của ngành xăng dầu Việt Nam và những tác động của độc quyền
xăng dầu tới kinh tế và xã hội

8


1. Thực trạng về thị trường xăng dầu ở Việt Nam

- Thị trường xăng dầu ở Việt Nam hiện nay là một thị trường độc quyền, vẫn

-


chưa thể thiết lập được một cơ chế theo quy luật cung cầu của thị trường
Chịu tác động mạnh từ thị trường xăng dầu thế giới
Giá cả không ngừng biến động

2. Nguyên nhân
- Có ít doanh nghiệp trong ngành (trong đó Petrolimex chiếm tới 60% thị
phần)
- Do đặc điểm sản xuất , kinh doanh của ngành.
- Nguồn cung chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài
- Tình hình bất ổn tại những nơi có lượng dầu lớn
- Các doanh nghiệp liên minh với nhau
- Có sự trợ giá của nhà nước
- Thuế nhập khẩu và chi phí vận chuyển cao
- Do Chính phủ cản trở gia nhập ngành
3. Tổn thất phúc lợi do độc quyền
- Các doanh nghiệp sẽ sản xuất thấp hơn mức sản lượng cân bằng và giá cân
bằng cao hơn so với thị trường cạnh tranh

9


- Người tiêu dùng mua ít đi, một phần giá trị thặng dư của người tiêu dùng
cũng sẽ mất đi. Đó là phần mất không của thị trường.
4. Hậu quả của độc quyền xăng dầu
- Giá cả của các mặt hàng khác cũng tăng rất mạnh theo giá xăng
- Ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người dân
- Các doanh nghiệp phải chịu ảnh hưởng rất lớn từ giá xăng dầu nên việc sản
xuất gặp nhiều khó khăn khi giá xăng tăng

5. Các biện pháp của chính phủ

- Ban hành luật chống độc quyền
- Điều tiết việc định giá của các doanh nghiệp độc quyền
- Kiểm soát giá cả đối với các doanh nghiệp độc quyền
- Khi một doanh nghiệp chiếm thị phần lớn và có dấu hiệu của việc độc quyền thì
chính phủ có những biện pháp ngăn chặn độc quyền như thêm các DN mới , chia
cắt các DN lớn.
- Quy định mức tối đa về phí lưu thông, lợi nhuận

10


KẾT LUẬN
Độc quyền trong kinh doanh đa phần đều gây ra những hậu quả không tốt cho thị
trường. Độc quyền trong kinh doanh dẫn đến việc giá cả bị đẩy lên cao, gây lũng
đoạn thị trường, ảnh hưởng lớn đến lợi ích của người tiêu dùng. Hầu hết các
nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên va độc quyền nhà nước. Ở nước ta
với xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm đặc trưng của nền kinh tế – xã hội
nên vẫn còn tồn tại khá nhiều ngành độc quyền, Tuy nhiên nhà nước cũng đang
cố gắng hoàn thiện bộ máy pháp luật nhằm kiểm soát, hạn chế những tác hại của
độc quyền gây ra. Đồng thời cũng đưa ra các biện pháp nhằm thay đổi, khắc phục
các vấn đề trên.

Ở nước ta, nhà nước đang cố gẵng thay đổi cơ chế thị trường theo hướng tích cực
hơn bằng cách thừa nhận các thành phần kinh tế, đồng thời khẳng định quyền
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện thì lại không tuân thủ thủ điều đó. Nhà nước và các chủ thể khác tạo ra
nhiều ưu thế, đặc quyền, đặc lợi cho một bộ phận doanh nghiệp nhà nước trong
một số lĩnh vực, ngoài ra còn sử dụng quyền lực của mình để ngăn cản các doanh

11



nghiệp khác tham gia kinh doanh các lĩnh vực này, đông thời can thiệp khá sâu
vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Tài liệu tham khảo
/> />%81_(kinh_t%E1%BA%BF)#C%C3%A1c_h%C3%ACnh_th%C3%A1i

/>
12



×