Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

TẠO ĐIỀU KIỆN ĐỂ THANH NIÊN THỰC HIỆN ƯỚC MƠ KHỞI NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.52 MB, 151 trang )

Lời mở đầu
Thư viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc tập
thư mục tháng 6 năm 2020, gồm có các bài viết được sưu tầm, trích từ các
báo, tạp chí của Trung ương và địa phương, về các lĩnh vực:
- Kinh tế;
- Xã hội;
- Văn hóa;
- Giáo dục;
Trong quá trình sưu tầm và sắp xếp các bài viết trong thư mục không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của
bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn./.
THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM


QUẢNG NAM TẠO ĐIỀU KIỆN
ĐỂ THANH NIÊN THỰC HIỆN ƯỚC MƠ KHỞI NGHIỆP
Ngày 4-6, ông Phan Việt Cường - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư
Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trì diễn đàn đối thoại trực tiếp với hơn 100 cán bộ
Đoàn các cấp và thanh niên tiêu biểu trên địa bàn tỉnh để lắng nghe những tâm
tư, nguyện vọng, những bức xúc và giải đáp những kiến nghị nhằm giúp thanh
niên lập thân, lập nghiệp, khởi nghiệp và sáng tạo.

Đại biểu tham dự diễn đàn.

Phát biểu tại diễn đàn, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam Phan Việt Cường
thông tin đến các đoàn viên thanh niên một số nét lớn về tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh Quảng Nam; đồng thời cho biết buổi đối thoại là cơ hội để các bạn
trẻ bày tỏ suy nghĩ, nguyện vọng của bản thân góp phần vào sự phát triển của
đất nước và tỉnh Quảng Nam, tạo điều kiện để thanh niên thực hiện ước mơ khởi
nghiệp. Đảng và Nhà nước luôn sẵn sàng tạo mọi điều kiện tốt nhất để hiện thực
hóa các ý tưởng, khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ hôm nay trong sự nghiệp


xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Anh Hồ Khá - Bí thư Thành đoàn Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
kiến nghị: Trong giai đoạn phát triển hiện nay Đảng và Nhà nước cần có sự quan
tâm hơn nữa đối với thế hệ trẻ trên nhiều lĩnh vực như công tác phát triển đảng
viên trẻ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên. Để phát triển bền vững, vấn đề quan
trọng là phải bảo vệ tốt môi trường, xử lý rác thải và khuyến khích hoạt động
khởi nghiệp trong thanh niên có liên quan đến giải quyết vấn đề rác thải.
Phong trào khởi nghiệp sáng tạo cùng các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho
thanh niên lập thân, lập nghiệp được nhiều bạn trẻ quan tâm, chia sẻ tại diễn đàn.
Chị Đặng Thị Ngọc Lân - Bí thư Huyện đoàn Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam đề
xuất: Thanh niên với hoài bão, muốn thực hiện ước mơ khởi nghiệp nhưng vấn đề


đặt ra đầu tiên là vốn và kỹ thuật. Do vậy tỉnh cần thực hiện tốt các cơ chế hỗ trợ
thanh niên khởi nghiệp về vốn, kỹ thuật, công nghệ cũng như thị trường.
Trao đổi tại diễn đàn, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh ghi
nhận các sản phẩm khởi nghiệp của thanh niên đang ngày càng được đầu tư bài
bản, có chất lượng cao. Đây là tiền đề quan trọng để tiến tới nền sản xuất hàng
hóa có quy mô và chất lượng, có khả năng tạo ra chuỗi giá trị và có sức cạnh
tranh cao. Muốn khởi nghiệp thành công, bên cạnh những yếu tố cần thiết là vốn,
kỹ thuật, thị trường, thanh niên cần có khát vọng, tự tin, dám nghĩ, dám làm và
dám đương đầu với khó khăn. Tỉnh sẽ tiếp tục quan tâm và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để thanh niên thực hiện những ước mơ của mình, hỗ trợ kịp thời và có
hiệu quả để thanh niên khởi nghiệp thành công.
Tại diễn đàn có nhiều ý kiến, đóng góp trên các lĩnh vực; trong đó, tình
trạng người trẻ vi phạm pháp luật, lạm dụng chất kích thích có chiều hướng gia
tăng đã gây ra những hệ lụy cho gia đình và xã hội, cần được thế hệ trẻ hôm nay
chung sức đẩy lùi.
Ghi nhận các ý kiến, đóng góp tại diễn đàn, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam

Phan Việt Cường nhấn mạnh: Những giải pháp, kiến nghị của thế hệ trẻ hôm
nay sẽ góp phần hình thành những định hướng lớn về phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh của tỉnh Quảng Nam trong nhiệm kỳ tới.
ĐOÀN HỮU TRUNG
ĐOÀN HỮU TRUNG. Quảng Nam tạo điều kiện để thanh niên thực hiện ước
mơ khởi nghiệp/ Đoàn Hữu Trung// Công an Đà Nẵng.- 2020.- Ngày 5 tháng
6.- Tr.8.


TÁI CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG DU LỊCH QUẢNG NAM
Mới đây, tại Tp. Hội An, Sở VHTTDL Quảng Nam phối hợp với
Hiệp hội Du lịch tỉnh Quảng Nam tổ chức hội thảo “Tái cơ cấu thị trường
du lịch Quảng Nam”. Hội thảo nhằm định hướng cơ cấu lại ngành Du lịch
Quảng Nam và tìm hướng đi cho du lịch xanh, bền vững sau khi dịch bệnh
COVID-19 được khống chế và đẩy lùi. Hơn 200 đại biểu là các chuyên gia
về du lịch, các diễn giả trong nước và quốc tế, các công ty lữ hành, đơn vị
cung cấp dịch vụ du lịch đã tham dự.

Ông Lê Trí Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam phát biểu

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Thanh Hồng - Giám đốc Sở
VHTTDL Quảng Nam chia sẻ, dịch bệnh COVID-19 đã gây thiệt hại nặng nề
cho kinh tế du lịch nhưng cũng tạo cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp du lịch
nhìn nhận lại chặng đường hoạt động đã đi qua, thúc đẩy tư duy phát triển, cơ
cấu lại ngành và tìm hướng đi cho du lịch xanh, bền vững. Đây là những vấn đề
cấp thiết đặt ra hiện nay để ngành du lịch Quảng Nam vượt qua khó khăn và lấy
lại đà tăng trưởng.
Đánh giá về thị trường khách du lịch đến Quảng Nam thời gian qua và cơ
cấu thị trường chiến lược cho du lịch Quảng Nam trong thời gian đến, ông Trần
trọng Kiên - Chủ tịch Hội đồng tư vấn du lịch cho rằng, sau đại dịch COVID-19,

xu hướng du lịch có quy mô nhỏ, quy mô hộ gia đình với loại hình du lịch cộng
đồng, du lịch sinh thái đã bắt đầu khôi phục. Đây là cơ sở để kỳ vọng về sự
thành công của chủ trương chú trọng thị trường du lịch nội địa. Du lịch sinh thái,
cộng đồng, trải nghiệm về văn hóa, lịch sử và sự kiện sẽ là những sản phẩm có
khả năng lấy lại sự phục hồi cho ngành Du lịch. Do đó, cộng đồng doanh nghiệp
cần có giải pháp và sản phẩm du lịch, dịch vụ hấp dẫn để đón lấy thị trường
khách du lịch này.


Nhận diện và đề xuất giải pháp xây dựng thương hiệu du lịch Xanh, bền
vững cho Quảng Nam, ông Phan Xuân Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Du lịch
Quảng Nam đề xuất, Nhà nước và doanh nghiệp cùng đồng hành để xây dựng và
bảo trợ thương hiệu du lịch Xanh trên cơ sở giảm thiểu rác thải, khí thải gây ô
nhiễm môi trường. Cộng đồng doanh nghiệp du lịch cùng hợp tác để tạo ra một
mạng lưới hỗ trợ rộng khắp trong quá trình bảo trợ sản phẩm du lịch xanh. Điều
quan trọng nhất là trong quá trình xây dựng thương hiệu du lịch Xanh, cộng
đồng doanh nghiệp và các địa phương phải phối hợp chặt chẽ nhằm tạo ra sự
thay đổi nhận thức trong cộng đồng, cải thiện sinh kế cho cộng đồng, bảo tồn và
phát huy bền vững các giá trị thiên nhiên, di sản và văn hóa truyền thống.
Đánh giá cao vai trò của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong
phát triển du lịch Quảng Nam, ông Micheal Croft - Trưởng đại diện UNESCO tại
Việt Nam chia sẻ, nếu chúng ta coi trải nghiệm thực tế về các giá trị di sản là chìa
khóa thành công thì yếu tố còn lại là tính bền vững của công tác bảo tồn. Du lịch là
nhân tố của sự biến đổi, ngành Du lịch cần phải đi trước để đảm bảo rằng những tác
động từ du lịch đối với môi trường, với di sản đang được quản lý tốt và bền vững.
Đây là điều hết sức quan trọng trước khi triển khai bất kỳ dự án nào.

Toàn cảnh hội thảo

Tại hội thảo, các đại biểu còn chia sẻ nhiều chủ đề như: “Các giải pháp

công nghệ truyền thông và kỹ thuật số hướng đến du lịch trải nghiệm, du lịch
xanh”; “Gia tăng doanh thu cho du lịch từ dữ liệu (Big database)” và “Giới thiệu
bộ tiêu chí xanh cho du lịch Quảng Nam”, đồng thời chia sẻ, tư vấn, những băn
khoăn của các doanh nghiệp du lịch khi chuyển từ thị trường khách quốc tế sang
thị trường khách du lịch nội địa bởi các chuyên gia đầu ngành, các nhà quản lý,
hoạch định chính sách trong lĩnh vực du lịch trình bày.
Kết luận tại hội thảo, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh nhấn
mạnh, dịch bệnh COVID-19 gây thiệt hại nghiêm trọng nhưng cũng là cơ hội


chúng ta cùng nhìn lại chặng đường du lịch đã trải qua, bắt buộc cộng đồng du lịch
phải đồng hành tìm giải pháp thích nghi, đổi mới trong hoạt động du lịch nhằm
tăng sức đề kháng và khả năng ứng phó khủng hoảng, sớm đón lại thị trường khách
du lịch nội địa. Cộng đồng doanh nghiệp du lịch cần phát huy vai trò trong phát
triển theo mô hình du lịch xanh, bền vững, thân thiện với môi trường, tạo ra sản
phẩm mới nhằm tạo đột phá, phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng du lịch. Đồng thời,
mở rộng không gian du lịch, xây dựng các sản phẩm, điểm đến mới gắn với tiềm
năng tự nhiện, các giá trị đặc trưng để thu hút du khách, nhất là thị trường khách
nội địa. Đây cũng là cơ sở để cơ cấu lại ngành và tìm hướng đi cho du lịch xanh,
bền vững trong thời gian tới để du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn, là động
lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam.
HỒ THU
HỒ THU. Tái cơ cấu thị trường du lịch Quảng Nam/ Hồ Thu// Du lịch Việt
Nam.- 2020.- Ngày 16 tháng 6.- Tr.10.


CÁC BẠN ẤY LÀ HỌC SINH MIỀN NAM
Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng sinh năm 1953, quê quán tại xã Tam Xuân,
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 10 và khóa 11. Trước khi

nghỉ hưu năm 2019, ông là Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước đó, Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng
từng giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Sau khi nghỉ hưu, từ tháng 8
năm 2019 đến nay, Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng đảm nhiệm cương vị Phó Chủ
tịch Hiệp hội Đại học, Cao đẳng Việt Nam. Bài viết sau đây của ông về các
thế hệ học sinh miền Nam từng học tập, trưởng thành dưới mái trường miền
Bắc XHCN trong thời gian chiến tranh mà ông là một trong số các thành
viên, để tham gia tập sách Còn lại với thời gian, nhân kỷ niệm 65 năm
Trường Học sinh Miền Nam, như ông tâm sự: “… tôi không định nói về một
thân cây, cho dù nó khỏe mạnh rắn chắc, đứng hiên ngang sừng sững trên
đồi nhưng đơn côi một mình, chơi vơi giữa nắng gió, mà ngược lại, tôi muốn
nói về một rừng cây, với nhiều loại đa dạng và phong phú, bắt rễ từ trong
lòng đất mẹ, và cây lớn đã sinh ra cây con, cây cháu, nối tiếp nhau lớn dần
lên trở thành trùng điệp để đóng góp cho cuộc đời và đất nước…”.

Các học sinh miền Nam ở Trường Học sinh miền Nam đóng ở Vĩnh Yên,
Vĩnh Phúc trước năm 1975.

Tôi không định viết về một cá nhân, mà chỉ xin viết ít dòng về những
người bạn của tôi là Học sinh miền Nam. Nhìn chung, đó là những người bạn tốt
và trong đó, nhiều người rất tốt. Ai đó từng nói, một người bạn cũ bằng hai


người bạn mới. Tôi hiểu câu ấy muốn nói đến những tình bạn đã được thử thách
qua thời gian và sóng gió. Đúng ra, cũng chẳng phải tôi viết về họ mà là muốn
suy nghĩ thử xem họ có những tính cách gì và quan trọng hơn nữa là cái gì đã
góp phần sản sinh ra họ? Như thế, với một cách hiểu nào đó, cũng có nghĩa là tôi
nói về họ bằng một cách khác.
Từ sau hiệp định Genève 1954 cho đến cuối cuộc kháng chiến chống xâm
lược Mỹ và thống nhất đất nước, có nhiều vạn con em của miền Nam được đưa

ra miền Bắc để học tập văn hóa và chuyên môn. Chủ yếu là học tập trung tại các
trường nội trú đối với chương trình phổ thông, sau đó tiếp tục vào các trường đại
học trong và ngoài nước. Đó là tầm nhìn chiến lược của Bác Hồ và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm chuẩn bị một đội ngũ cán bộ để tham gia xây
dựng miền Nam sau ngày thống nhất đất nước. Chúng tôi là những học sinh
trong số đó. Ngày ấy, ngoài tên gọi riêng của từng học sinh, chúng tôi thường
được mọi người gọi một cái tên chung là Học sinh miền Nam và tự chúng tôi
cũng gọi nhau như thế. Cái tên ấy mãi cho đến nay, đã hơn nửa thế kỷ qua rồi,
hầu hết học sinh ngày đó bây giờ đã già, đã về hưu, nhiều người đã ra đi, nhưng
cứ mỗi lần nhắc đến Học sinh miền Nam chúng tôi đều cảm thấy quý mến, thân
yêu, những kỷ niệm từ rất xa, tưởng đã quên rồi lại lần lượt hiện về trong ký ức.
Tất cả đều mang vị ngọt của thời gian với nhiều kỷ niệm đẹp về tình người và
những hình bóng cũ.
Sau này lớn lên ra trường về công tác nhiều nơi, có nhiều người cả đời
hoặc từng một thời gian dài làm công việc giáo dục, nghiên cứu về giáo dục và
các bộ môn khoa học xã hội khác, mỗi khi nhìn lại quá khứ chúng tôi đều nhận
thấy mô hình các trường Học sinh miền Nam nội trú ngày đó là một sự thành
công rất đáng nói, đáng nghiên cứu. Sau khi thống nhất đất nước, hầu hết số học
sinh ấy đã về miền Nam công tác trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau ở tất cả các
tỉnh thành và nhìn chung họ đều rất trưởng thành, tham gia nòng cốt trong thực
hiện các chủ trương mang ý chí thống nhất dân tộc và phát triển đất nước. Kể cả
những người làm cán bộ lãnh đạo (nhiều người là ủy viên Trung ương, Bộ
Chính trị, Thủ tướng, Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Bí thư và Chủ tịch
các tỉnh thành, tướng lĩnh của Quân đội và Công an); là các nhà khoa học, giáo
sư tiến sĩ, bác sĩ, phi công hay anh hùng, chiến sĩ thi đua và các nhân viên bình
thường khác, họ đều có những nhân cách đáng quý trọng (tất nhiên không phải
tất cả nhưng có thể nhìn thấy đa số, phổ biến là vậy). Thời kỳ học tại các trường
nội trú Học sinh miền Nam ấy, về mặt kiến thức khoa học thì nói thật không
phải nhiều lắm, cho dù chúng có ý nghĩa khai mở và đặt nền móng ban đầu rất
quan trọng, nhưng cái lớn hơn, lớn nhất, đáng quý nhất là sự hình thành nhân

cách sống.
Đó là những con người yêu đất nước quê hương, có trách nhiệm cao và
lương tâm trong công việc, trong cuộc đời; kiên định nhưng không bảo thủ;
trung thực, thẳng thắn, cầu thị và có chính kiến; có việc chung, việc nghĩa thì
sẵn sàng ghé vai vào tham gia gánh vác, xong việc thì ra đi mà không cần kể
công; có lúc nóng nảy và khí khái, bất cần nhưng dũng cảm, hào hiệp, hay bênh
vực những người yếu thế; có tinh thần đồng đội và trách nhiệm với bạn bè,


người thân, với cộng đồng và đất nước. Họ sống tự trọng, nghĩa tình và biết cảm
thông chia sẻ. Bất kể người ở địa phương nào trong cả nước, hễ đã cùng là Học
sinh miền Nam, dù học ở bất kỳ trường nào, khi ở trong trường thì có lúc đánh
nhau nhưng ra xã hội gặp nhau, chỉ cần nghe giới thiệu là Học sinh miền Nam
thì cũng đều cảm thấy thân quen và tin tưởng như bạn bè anh em thân thiết, sẵn
sàng chia sẻ với nhau việc này việc khác. Nhưng không phải vì thế mà trong
công việc họ bao che, châm chước thiên vị cho nhau, mà ngược lại rất thẳng
thắn, tự trọng như vốn có và khách quan trong xử lý vấn đề… Kể cả những bạn
ngày trước là học sinh cá biệt, đánh nhau, nghịch ngợm, đi bẻ mía hoặc hái trộm
mít, hái trộm dưa của dân làng, các thầy cô giáo chủ nhiệm lớp đã phải rất vất vả
với các bạn ấy, sau này cũng đều rất trưởng thành, có ý thức trách nhiệm cao với
xã hội, có thành tích xuất sắc và sự dũng cảm, sáng tạo trong công việc và trong
cuộc sống.
Thực tế đã cho thấy mô hình giáo dục các trường nội trú Học sinh miền
Nam ngày đó là thành công, nhất là đối với mục tiêu giáo dục nhân bản và dân
tộc, với phương pháp dạy học dân chủ, yêu thương và tôn trọng học trò, không
áp đặt. Ngày nay có thể tiếp thu những kinh nghiệm của sự nghiệp giáo dục đó
và tất nhiên trong hoàn cảnh mới bây giờ có thể bổ sung thêm mặt giáo dục khai
sáng (khai phóng và sáng tạo) và phát triển để xây dựng nền giáo dục mở của
đất nước, cho đất nước. Điều quan trọng cần rút ra từ câu chuyện giáo dục này là
cái gì đã dẫn đến thành công trong quá trình hình thành nhân cách?

Tất cả Học sinh miền Nam đều sinh ra và lớn lên trong các gia đình giàu
truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông bà, cha mẹ, anh chị và những người
thân khác trong gia đình của họ là các anh hùng, liệt sĩ và những cán bộ trung
kiên gan dạ trong cuộc chiến đấu sinh tử. Truyền thống văn hóa và dòng máu ấy
đã thấm sâu, đọng lại trong họ, góp phần quan trọng để hình thành nhân cách.
Số đông Học sinh Miền Nam đều có nếm trải sự gian khó và tang thương của
chiến tranh, nhiều người đã từng là du kích, dũng sĩ, là liên lạc, tham gia công
việc hiểm nguy, nuôi giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Cuộc sống ấy đã
tôi luyện họ. Trường đời góp vào nhân cách họ.
Số Học sinh miền Nam về công tác ở Quảng Nam – Đà Nẵng khá đông,
hàng trăm người đã tham gia cấp ủy và chính quyền địa phương. Trong đó có
Trương Quang Được, Lê Quốc Khánh, Nguyễn Đức Hạt, Lê Trí Tập, Nguyễn
Hoàng Long, Bùi Công Minh, Huỳnh Năm, Võ Văn Tiên, Vũ Ngọc Hoàng,
Nguyễn Bá Thanh, Hoàng Tuấn Anh, Lê Ngọc Nam, Hồ Thị Thanh Lâm, Bùi
Quốc Đinh, Huỳnh Nghĩa, Diệp Thanh Phong, Ngô Binh, Võ Công Trí, Nguyễn
Văn Lý, Võ Xuân Sơn, Nguyễn Văn Ngữ, Đinh Mướt, Nguyễn Bằng… Trong
đó Phan Đức Nhạn là Học sinh miền Nam, sinh ra trên mảnh đất Bình Dương
(Thăng Bình, Quảng Nam) bất diệt với 3 lần được Nhà nước phong tặng danh
hiệu xã anh hùng, là con của liệt sĩ và mẹ Việt Nam anh hùng, là em ruột của 3
liệt sĩ nữa. Bản thân bạn ấy trước khi ra Bắc học đã từng là người cầm đầu đội
thiếu sinh quân ở xã, dự Đại hội cháu ngoan Bác Hồ của Liên khu 5 năm 1969
và là du kích khi mới 14-15 tuổi, có lần đã tổ chức giải vây thành công cho 2
người nữ du kích đang bị địch vây ráp. Nhà văn liệt sĩ anh hùng Chu Cẩm Phong


đã gặp Nhạn khi anh về vùng đất Bình Dương trong những ngày lửa đạn chiến
tranh, đã kịp ghi lại trong nhật ký của mình trước khi hy sinh. Trong khói lửa
chiến tranh ở vùng đất quyết liệt và gan góc này, Chu Cẩm Phong đã có một
nhận xét: “Nhạn tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã tỏ ra là một người đàn ông”. Điều
kiện và hoàn cảnh sinh ra và lớn lên trong gia đình cách mạng ấy, ở vùng đất

anh hùng Bình Dương ấy đã tác động đến nhân cách của một con người. Trong
thời gian còn công tác ở Quảng Nam – Đà Nẵng và tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Phan Đức Nhạn làm việc ở đâu đều để lại ấn tượng thành công, có sản phẩm cụ
thể trong công việc. Anh Mai Thúc Lân, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam –
Đà Nẵng là người mà chúng tôi rất quý trọng cũng nhận xét như thế về Phan
Đức Nhạn. Từ công việc xây dựng ở Đà Nẵng và Quảng Nam, đến Trưởng Ban
Quản lý Khu Kinh tế mở Chu Lai, Giám đốc Sở Giao thông tỉnh Quảng Nam và
Phó giám đốc Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh… ở đâu cũng có sản phẩm.
Anh đã được giao nhiệm vụ làm Giám đốc Công ty Xây dựng Quảng Nam từ
con số không (trong tay chỉ có duy nhất một tờ giấy đó là quyết định thành lập
Công ty, còn không có gì nữa cả, chưa có bộ máy, không được cấp đồng vốn
nào dù mang danh công ty nhà nước, không có một căn nhà nhỏ để làm trụ sở).
Vậy mà chỉ sau mấy năm đã làm nên sự nghiệp, có thương hiệu, của ăn của để,
tạo được khá nhiều vốn tích lũy). Anh là người tham mưu chính về việc chọn
nhiều địa điểm xây dựng trong đó có Tháp Phát thanh và Truyền hình tỉnh
Quảng Nam, cũng như ý tưởng và chủ trương xây dựng cầu Cửa Đại và con
đường ven biển nối Hội An với Tam Kỳ và Chu Lai để mở ra thế chiến lược mới
về phát triển vùng đông Quảng Nam. Cán bộ thì nhiều, nhưng có được sản phẩm
cụ thể rõ ràng thì không phải dễ. Cán bộ ngày nay, nhiều khi có chức còn dễ hơn
có sản phẩm trong thực tế công tác.
Trong lúc đang có chiến tranh ác liệt, đời sống cả xã hội rất nhiều khó
khăn, thiếu thốn mọi bề, nhưng Chính phủ và bà con miền Bắc đã đùm bọc, nuôi
dưỡng và chăm lo việc học hành, giành sự quan tâm chăm sóc hết lòng với
những ưu tiên về chính sách cho con em của cán bộ chiến sĩ và đồng bào miền
Nam đang chiến đấu tại các chiến trường với tinh thần anh em ruột thịt trong
một đại gia đình Tổ quốc Việt Nam. Tình cảm đó chân thật, tạo nên những xúc
động đủ sức chinh phục con tim của những thanh thiếu niên sống xa quê, xa nhà
và không gần cha mẹ.
Và điều quan trọng nhất chắc chắn thuộc về công lao của các thầy cô giáo,
những người đã nuôi dạy Học sinh miền Nam. Theo chỉ đạo của Chính phủ, các

trường nội trú Học sinh miền Nam là nơi chuẩn bị cán bộ cho miền Nam, cần
phải được quan tâm và ưu tiên nhiều mặt, trong đó, chọn các thầy cô giáo là
những người tận tâm với công việc, là các giáo viên dạy giỏi từ nhiều tỉnh thành
ở miền Bắc được điều về đó công tác, cùng với các cô chú từ miền Nam ra tập
kết đang nặng lòng với quê hương cũng được điều về đây tham gia nuôi dạy Học
sinh miền Nam. Họ là những con người hết lòng tận tụy, yêu thương chăm sóc
học trò như con ruột, ngày đêm không quản ngại khó khăn, suốt đời hết lòng vì
Học sinh miền Nam thân yêu. Bằng những việc làm rất cụ thể, với kinh nghiệm,
tình cảm và sự cao thượng của người thầy, đã kiên trì dìu dắt các học sinh tiến


bộ, trưởng thành lên từng bước một. Có mấy câu thơ của một tác giả nào đó mà
ngày ấy tôi đã được nghe:
Ngày mai con cỡi gió mây
Con bay vượt biển, con bay băng ngàn
Nhưng đường cũng chẳng gian nan
Bằng đi từ ghế tới bàn hôm nay
Nhân cách, hình ảnh những người thầy ở trường Học sinh miền Nam ngày
đó đã để lại trong ký ức học trò nhiều thế hệ mãi về sau này những tình cảm thật
đẹp, thật xúc động, sâu lắng và bền chắc. Chính những con người ấy đã nuôi dạy
Học sinh miền Nam, chăm từng bữa ăn giấc ngủ, cùng vui buồn, sống và lo thay
cho công việc của cha mẹ học sinh trong hoàn cảnh chúng xa nhà, không cha
không mẹ, tổ chức các hoạt động xã hội phong phú dù trong hoàn cảnh bộn bề
khó khăn. Nhân cách là tính người, chất người, những giá trị Người được hình
thành trong cuộc sống. Nó bắt đầu từ con tim được cảm hóa bởi những sự xúc
động chân thành, rồi chọn lọc, chuyển dần lên để ghi khắc lại trong ký ức và
trong vỏ não, biến thành máu thịt và sức mạnh bền lâu ở mỗi con người. Nhân
cách chỉ có thể hình thành từ nhân cách NGƯỜI. Từ nhân cách của ông bà, cha
mẹ, anh chị, của người thầy, người lãnh đạo đã cảm hóa và truyền nối sang
người khác, sang thế hệ sau, và còn lại mãi với thời gian. Văn hóa là vậy đó, là

cuộc sống thực. Chứ không phải những lời răn dạy ồn ào và bay bổng, cũng
không phải từ những lý thuyết trừu tượng mông lung, xa vời.
Viết đến đây bỗng nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện hình như của văn học
Nga mà tôi đã đọc hồi còn ở trường Học sinh miền Nam (nếu nhớ không nhầm).
Có một người anh hùng rất nổi tiếng, được nhân dân vô cùng mến mộ. Các nhà
điêu khắc đề nghị được tạc tượng người anh hùng đó. Anh ấy thì ngược lại đề
nghị không tạc tượng mình mà tạc tượng người thầy của mình. Nhóm nghệ sĩ
nói rằng nhân dân rất ngưỡng mộ và biết tên tuổi nổi tiếng của người anh hùng,
vì vậy mà họ muốn dựng tượng anh, còn thầy của anh thì rất ít người biết đến
tên tuổi. Người anh hùng vẫn giữ quan điểm của mình. Anh nói rằng, nếu mọi
người đã biết nhiều về tên anh và chưa biết nhiều về người thầy thì đề nghị cứ
tạc tượng người thầy rồi ghi phía dưới một dòng chữ “Đây là thầy của người anh
hùng…” và ghi tên anh vào đó.
Bài viết này để tham gia tập sách Còn lại với thời gian, trong đó có nhiều lưu
dấu về nhiều người bạn của tôi, nhưng tôi không định nói về một thân cây, cho dù
nó khỏe mạnh rắn chắc, đứng hiên ngang sừng sững trên đồi nhưng đơn côi một
mình, chơi vơi giữa nắng gió, mà ngược lại, tôi muốn nói về một rừng cây, với
nhiều loại đa dạng và phong phú, bắt rễ từ trong lòng đất mẹ, và cây lớn đã sinh ra
cây con, cây cháu, nối tiếp nhau lớn dần lên trở thành trùng điệp để đóng góp cho
cuộc đời và đất nước, như đồi dương bất tử trên mảnh đất anh hùng…
Tam Kỳ ngày 5/1/2020
Nguồn Văn nghệ số 22/2020
VŨ NGỌC HOÀNG. Các bạn ấy là học sinh miền Nam/ Vũ Ngọc Hoàng//
Văn nghệ.- 2020.- Ngày 30 tháng 5.- Tr.4,5.


KỶ NIỆM 90 NĂM BÁO ĐẢNG QUẢNG NAM (1930 - 2020)

CÓ MỘT BIÊN NIÊN SỬ
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG QUẢNG NAM

Cho đến nay, Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung, dù có nhiều tài liệu,
bài viết đâu đó trên một số tạp chí, đặc san, báo ngày, tuần báo, kỷ yếu ở
địa phương, trong nước, nước ngoài, đề cập hoạt động báo chí, nhưng chậm
có một “công trình”, tác phẩm lịch sử báo chí ở vùng đất này, vì nhiều lý do
khách quan.
Vùng đất, non một thế kỷ qua với bao nhiêu dư chấn, biến động lịch sử,
nhất là từ khi có Đảng ra đời, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng long
trời lở đất, đánh đổ các thế lực thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. Trong đó có mũi nhọn báo chí luôn là lực lượng chủ công, tiếng
nói của nhân dân, của Đảng, là sự hiện diện của cách mạng trong tâm hồn, trái
tim nhân dân, dù cho phong ba bão táp, gian khổ, ác liệt tột cùng.
Báo chí đất Quảng đã làm nên một biên niên sử vẻ vang, là niềm tự hào
của các thế hệ cầm bút qua các thời kỳ. Những sự kiện, những tên tuổi của
người làm báo đất Quảng luôn để lại ấn tượng, dấu ấn khó quên trong ký ức
nhiều người. Về sau này, tôi có may mắn và điều kiện đọc được một số sách, tư
liệu về báo chí đất Quảng, trong đó có cuốn kỷ yếu “Báo Quảng Nam - những
dấu ấn không quên” nhân kỷ niệm 80 năm báo Đảng Quảng Nam (1930 - 2010),
cũng như trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có tham gia làm báo Giải phóng
Quảng Nam từ những năm 1964 - 1970, và cũng từ lâu tôi đã ấp ủ ý tưởng, ghi
chép, thu thập, tập hợp các nguồn tư liệu, tài liệu để thực hiện cuốn sách mà tôi
tâm đắc “Chân dung nhà báo đất Quảng”. Sách đã viết xong, tuy chưa ưng ý,
nhưng trong ấy lấp lánh, hiển lộ những gương mặt nhà báo đất Quảng tiên
phong, tài năng như Bùi Thế Mỹ, Nguyễn Bá Trác, Huỳnh Thúc Kháng, Phan
Khôi, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Lương Khắc Ninh, Huỳnh Thị Bảo Hòa,
rồi Lê Ấm, Phan Thanh, Phan Bôi, Phan Thao, Lưu Quý Kỳ, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Văn Bổng, Đoàn Bá Từ, Vũ Hạnh, Đinh Chương...
Những nhà báo cấp tiến, yêu nước, canh tân gắn liền với tên tuổi tờ báo như
Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng, Sông Hương của Phan Khôi. Thể hiện phong
cách cách tân, đổi mới như Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Thị Bảo Hòa. Đặc biệt,
tiêu biểu và trưởng thành, có vai trò nhất định trong làng báo cách mạng như Phan

Bôi, Phan Thanh, Phan Thao, Lưu Quý Kỳ, Đoàn Bá Từ, Vũ Hạnh... xuôi ngược
trong Nam ngoài Bắc, có người bị tù đày trong nhà lao đế quốc.
Có những người không phải là nhà báo, nhưng lại là những người có vai
trò quyết định, lãnh đạo, chỉ đạo nòng cốt các tờ báo của Đảng qua các thời kỳ
(1930 - 1975) về định hướng nội dung lẫn hình thức, như các Bí thư Tỉnh ủy,
Đặc khu ủy Võ Toàn (Võ Chí Công), Phan Tốn, Phan Văn Định, Bốn Hương
(Võ Trọng Hoàng), Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng, Trần Thận... với các tờ báo
Lưỡi cày, Mõ nhà pha, Còi nhà máy, Khởi nghĩa, Dân tộc, Cứu quốc, Cờ độc


lập, Hừng đông. Từ những năm 1945 - 1975, là các báo Giải phóng, Chiến
thắng, Quyết tiến, rồi Giải phóng (tục bản). Ở miền núi có báo Gung dứr (Đứng
lên) - tiếng dân tộc Cơ Tu, Pru dương (Vùng lên) - tiếng dân tộc Ca Dong.
Trong từng thời điểm, yêu cầu của tình hình họat động chính thức, hợp pháp,
công khai, hoặc bí mật, có một “lực lượng” là những học sinh, sinh viên, giáo chức,
văn nghệ sĩ, phật tử âm ỉ làm báo, ra báo, trở thành phong trào “dấu thân, xuống
đường” trong lòng đô thị Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, đóng góp tiếng nói mạnh mẽ,
đấu tranh chống Mỹ xâm lược và ngụy quân, ngụy quyền tay sai, vạch trần tội ác
và trò hề mị dân của chúng, đòi dân sinh, tự do, dân chủ, ủng hộ Mặt trận Dân tộc
giải phóng, đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước bằng văn xuôi, thơ ca, nhạc,
họa, ảnh chụp sống động, kịp thời. Đó là những tập san, đặc san, bản tin như Tu
thư, của các nhà giáo Phạm Phú Hưu, Phan Khôi, Nguyễn Bội Liên (Hội An); Vượt
sóng, của lực lượng nhân dân tranh thủ hòa bình; Đứng đầu gió, của học sinh, sinh
viên đất Quảng; Tiếng gọi học sinh, của Tổng đoàn học sinh Đà Nẵng; Ý nghĩ,
Tiềm lực, của nhóm Mai Đức Lộc, Huỳnh Kim Sánh; Sinh viên Quảng Đà, của
nhóm Đỗ Hoàng Thiệu, có sự tham gia của nhà văn Nguyễn Văn Xuân, Ngô Thị
Kim Cúc in tại Sài Gòn, phát hành về Quảng Nam, Đà Nẵng; Hồn trẻ, của nhóm
Băng Huyền (Trương Ngọc Bằng), Hoàng Hương Việt, Hoài Thu, Nguyễn Văn
Tám (ra được 3 số viết tay), ở nhà lao Mang Cá, Huế..., được coi là những tờ báo
yêu nước đã đồng hành, chia lửa cùng với báo chí của Đảng trên mặt trận truyền

thông thông tin do Đảng ta lãnh đạo.
Báo Giải phóng Quảng Nam và Giải phóng, Cờ giải phóng Quảng Đà có
thời gian hoạt động dài nhất (1962 - 1975), phục vụ đắc lực cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thần thánh của quân và dân Quảng Nam, Đà Nẵng đến ngày
toàn thắng.
Một vài dòng lược ghi trên đây để thấy rằng, do vị trí đặc thù của vùng
đất đầu sóng gió, luôn đối mặt với nhiều kẻ thù thâm độc đánh phá, chiếm giữ,
áp đặt để thực hiện âm mưu chia cắt, cai trị, cho nên cũng là nơi luôn khởi phát
của các tổ chức, tầng lớp yêu nước, trong đó có báo chí, nhất là từ khi có Đảng.
Báo chí đất Quảng luôn là công cụ đắc lực, kênh thông tin chân chính, trung
thực của cách mạng, vạch mặt và phân hóa kẻ thù, ca ngợi cái đẹp, bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước công luận xã hội, được đông đảo người
đọc đón nhận, ủng hộ. Từ sơ khai đến khi trưởng thành, báo chí đất Quảng
không ngừng cải tiến, đổi mới về nội dung lẫn hình thức, với một đội ngũ làm
báo bản lĩnh và chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin nhiều chiều
của nhiều đối tượng bạn đọc, ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu,
giữ vững và phát huy truyền thống làm báo sáng tạo, năng nổ của các thế hệ đi
trước theo nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng. Thực tiễn đó, thể
hiện thuyết phục trên tờ Báo Quảng Nam - Cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam, “Tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Quảng Nam” ngày nay.
Ban Tuyên huấn Quảng Nam lúc bấy giờ (1960 - 1975) có 13 đơn vị
trực thuộc gồm văn phòng ban, tiểu ban tuyên truyền (có văn nghệ, báo


chí), tiểu ban huấn học, tiểu ban giáo dục, trường Đảng, đài minh ngữ, nhà
in giải phóng, đoàn văn công giải phóng (dân ca kịch), đoàn nghệ thuật
tuồng giải phóng, đoàn ca múa dân tộc miền núi, đội chiếu bóng, đội vũ
trang tuyên truyền (3 tổ), tổ sản xuất ở hậu cứ, với tổng số hơn 200 cán bộ,
công nhân viên.

Đội ngũ này là những anh chị em cán bộ cốt cán trụ lại sau hòa bình 1954,
số đi tập kết về, số khu 5, miền Bắc tăng cường, số rút từ các huyện, thị, thành
phố, ở tù ra và trốn bắt lính lên chiến khu tham gia cách mạng. Đến ngày quê
hương Quảng Nam giải phóng năm 1975, có hơn 50 người là cán bộ lãnh đạo và
các đơn vị thuộc Ban đã anh dũng hy sinh, bị thương tật, hoặc bị địch bắt tù đày.
Có người đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt như anh Văn Đức Hiếu, cô Thanh
Tuyền (quê Thăng Bình), Nguyễn Huyền Vân (quê Quế Sơn), anh Minh Tân
(quê Quảng Ngãi), anh Nguyễn Ri (quê Duy Xuyên) làm ở báo Giải phóng...
Còn nhớ, ngày chúng tôi được điều về Ban Tuyên huấn Quảng Nam, anh Hiệp
(ở bộ phận in li-tô) của ban lên đón chúng tôi, lúc đó đang nằm chờ ở trạm giao
liên Ông Sở (mật danh) gần thị trấn huyện miền núi Trà My, tôi biết loáng
thoáng sẽ vô làm chỗ báo. Lần đầu tiên, tôi được nghe tên báo Giải phóng
Quảng Nam. Sở dĩ chúng tôi ở trạm giao liên Ông Sở, bởi lúc cơ sở móc nối đưa
mấy anh em sinh viên chúng tôi từ Huế, Đà Nẵng ra chiến khu lên tận Ban
Tuyên huấn khu 5, đóng ở Nước Xa, Nước Mỹ, giáp miền núi tỉnh Quảng Ngãi,
sau đưa về Quảng Nam, Quảng Đà công tác.
Khoảng tháng 10 năm 1963, Ban Tuyên huấn Quảng Nam, đóng ở thôn 4
xã Phước Sơn, huyện Tiên Phước, là một trong những xã thuộc căn cứ địa của
tỉnh. Tiểu ban Tuyên truyền đang có anh Triều Phương (Nguyễn Mậu Tý),
Nguyễn Đình Khôi, Nguyễn Ri trọ ở nhà bác Sơn, bác Sim, nằm lưng chừng dốc
núi, gần tuyến đường xuôi đèo Eo Gió xuống chợ Cẩm Khê xã Kỳ Phước, huyện
Tam Kỳ và dốc Vòng Xoay đổ xuống xã Phước Cẩm, huyện Tiên Phước.
Lúc đó, đồng chí Trương Minh Tân, Thường vụ Tỉnh ủy, làm Trưởng ban, đồng
chí Hoàng Minh Hiệu, phó ban. Tôi được ăn ở chung với các đồng chí ấy một
nhà. Các vị nhìn tôi có cái gì đó khang khác, có lẽ vì tôi “quá tiểu tư sản chăng”,
da trắng, tóc tai bù xù, chân mang dép rọ trắng, còn kẹp theo tấm ảnh chân dung
cỡ 18 x 24cm và tập thơ viết tay “Vẻ buồn tình yêu”, lén đem ra đọc, không ngờ
ông Phó ban Hoàng Minh Hiệu bắt gặp, không nói gì, vì biết tôi vừa ở thành phố
lên rừng chưa được vài tháng.
Ba ngày sau, tôi được gặp Trưởng ban Tuyên huấn - Trương Minh Tân,

nghe đồng chí hỏi thăm gia đình , việc học hành, hoạt động của phong trào học
sinh, sinh viên và chuyện bị địch bắt cầm tù, cuối cùng giao việc, dặn dò và giới
thiệu một số anh chị ở các tiểu ban, phần đông đều đi công tác ở các địa phương.
Vậy là tôi được làm ở báo Giải phóng. Báo chí thì tôi biết rõ, vì năm 1958, khi
còn đang đi học tôi đã viết văn, làm thơ gửi đăng các báo ở Sài Gòn, Huế. Khi bị
bắt cầm tù ở nhà lao Mang Cá, Huế, tôi và một số bạn tù quê Quảng Nam bàn
nhau làm tờ Hồn Trẻ (dạng tập san, viết tay, khổ bằng cuốn vở học trò, khoảng
16 trang), nội dung văn, thơ yêu nước, ca ngợi tình yêu cuộc sống, quê hương,
đất nước và một số bài thơ Tố Hữu, danh ngôn học làm người, chuyền đọc trong


nhà lao và gửi ra ngoài qua người thân đi thăm tù. Còn báo Giải phóng, là tờ báo
của cách mạng, thì tôi chưa hình dung ra được.
Trong những ngày đầu chờ việc, tôi đọc mấy tờ Giải phóng in li - tô, khổ
hai tờ giấy vở học sinh nối lại, chữ nghĩa chỗ đậm chỗ lợt, nhưng nội dung xã
luận, mẩu chuyện, tin tức, thơ, ca dao, tranh đả kích thì “mới lạ” phong phú,
theo hướng đánh giặc, cứu nước, giải phóng quê hương bằng 3 mũi giáp công
(đấu tranh chính trị, quân sự, binh địch vận), bằng 3 thứ quân (chủ lực, bộ đội,
địa phương, dân quân du kích) ở cả 3 vùng (miền núi, nông thôn, đô thị).
Những cụm từ quen thuộc, bất cứ người nào ở chiến khu cũng biết. Cách viết
hồi ấy, kể cả sáng tác, mới nghe thì dễ, nhưng không thể nào viết hay và hấp
dẫn, mặc dù hiện thực thì quá phong phú. Nơi vùng đất ngày đêm đạn, bom cày
xới, chất độc hóa học tanh lợm, cỏ cây, hoa màu tàn lụi, đồng ruộng hoang vắng,
những cuộc càn quét và xe tăng của Mỹ lúc ngúc lủi ngủi chà xát liên miên ở các
vùng giáp ranh, vùng mới giải phóng như xã Kỳ Anh, Kỳ Phú, Kỳ Thịnh, Kỳ
Phước, Kỳ Sanh (Tam Kỳ), Bình Định, Bình Quý, Bình Trị, Bình Dương, Bình
Đào, Bình Giang (Thăng Bình), Phú Phong, Phú Hương, Phú Diên (Quế Sơn)...
Nhưng ở đâu, cũng gặp bộ đội giải phóng, anh chị em du kích, dân công vận
chuyển. anh chị em cán bộ, các ngành đi công tác, một số trường học cấp 1, cấp
2 mới mở, thỉnh thoảng hằng đêm vẫn có văn công, tuồng biểu diễn, chiếu phim,

nói chuyện thời sự phục vụ đồng bào, cán bộ, chiến sĩ.
Có thể nói, tình hình từ những năm 1964 đến năm 1968, là thời kỳ cả tỉnh
tiến công mở ra vùng giải phóng nối liền từ Nam Tam Kỳ ra tới Quế Sơn, từ
miền núi xuống vùng đông. Nhiều đồn bốt, căn cứ, nhiều khu dồn, ấp chiến lược
của địch bị ta tấn công tiêu diệt, giải thoát đồng bào trở về ruộng vườn quê cũ
làm ăn, tiếp tục làm chỗ dựa hợp pháp, đóng góp cho các họat động của cách
mạng giữa sự bao vây, ngăn chặn đánh phá ác liệt của Mỹ - ngụy. Những tấm
gương người tốt việc tốt, anh hùng, dũng sĩ diệt Mỹ của quân và dân Quảng
Nam xuất hiện ngày càng nhiều, là niềm tự hào, động lực thúc đẩy, hiệu triệu
sức mạnh đoàn kết một lòng lao động sản xuất, công tác xây dựng và bảo vệ
vùng giải phóng.
Báo Giải phóng Quảng Nam ngày càng định hình về nội dung lẫn hình thức,
nhất là lực lượng. Viết bài tại chỗ có gần như cả Tiểu ban Tuyên truyền,
Văn nghệ, Báo chí, Giáo dục, Huấn học, ngay cả đội công tác vùng sâu cũng
tham gia.
Còn có đội ngũ cộng tác viên từ các ban, ngành trong tỉnh, ở các huyện,
xã gửi đến, các nhà văn, nhà báo ở khu 5 gửi về, Quảng Đà gửi vô. Hoặc một số
anh chị ở khu đi thực tế địa phương về ở hẳn tại Ban Tuyên huấn có khi vài
tháng, như nhà báo Đinh Thành Lê, Trần Phò (Phương), nhà thơ Thu Bồn,
Dương Hương Ly, Hải Lê (Vương Linh), nhà văn Chu Cẩm Phong, Cao Duy
Thảo, Dương Thị Xuân Quý, họa sĩ Thế Vinh, Trần Việt Sơn, nhạc sĩ Phan
Huỳnh Điểu... đều viết cho báo Giải phóng. Với lượng tin, bài, thơ, nhạc, họa đa
dạng, phong phú, có chất lượng như vậy, nên anh em chúng tôi có điều kiện tha
hồ chọn lựa để in.


Năm 1965, có đồng chí Phan Hiền ở miền Bắc về, được trên cử làm Phó
Trưởng ban Tuyên huấn tỉnh, trực tiếp làm Trưởng tiểu ban, phụ trách báo Giải
phóng, với danh nghĩa “Tổng biên tập” báo. Từ năm 1966, đồng chí làm Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng Quảng Nam, dưới tên gọi “Giáo sư

Đông Lương”. Tôi được ban điều đi phục vụ và là phóng viên báo Giải phóng,
chụp ảnh, viết bài tường thuật Đại hội Mặt trận, tổ chức tại thôn 6 xã Tiên Ngọc,
huyện Tiên Phước.
Đến năm 1967 báo có thêm các anh Chí Cao (Nguyễn Kiến) ở Thị ủy
Tam Kỳ lên, rồi Nguyễn Việt Tiến, Dương Chí Lai (nhà giáo), Phạm Hồng (họa
sĩ) từ Hà Nội về. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, có thêm các chị
Thu Hồng, Thanh Tuyền (giáo viên), chị Như Lại, anh Văn Đức Hiếu, Nguyễn
Huyền Vân, Nguyễn Duy Hinh (quê Thăng Bình, Quế Sơn, Tam Kỳ, Tiên
Phước) được giữ lại cơ quan; chị Phan Thị Minh (Phan Thị Mỹ Khanh, con gái
cụ Phan Khôi) hoạt động cơ sở ở Đà Nẵng được tổ chức móc nối đưa lên, đều bổ
sung cho báo Giải phóng.
Ngoài lực lượng chủ công tại tòa soạn như trên, báo tổ chức được một
mạng lưới cộng tác viên đông đảo, gần như trên mọi mặt hoạt động ở khắp mọi
nơi, thường xuyên gửi thư, bài phản ánh về các trận đánh diệt ác, phá kèm, mở
ra vùng giải phóng, các cuộc đấu tranh trực diện của các mẹ, các chị, vận động
binh lính ngụy bỏ ngũ, chống càn, vận chuyển lương thực, phong trào xuống
đường của học sinh, sinh viên ở thành phố, thị xã, những tấm gương người tốt,
việc tốt trong các tổ chức hội, đoàn thể Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh v.v.
Trong sổ tay ghi chép còn giữ được, tôi không thể nào quên các anh chị “thông
tin viên” nhiệt tình, gắn bó với báo Giải phóng Quảng Nam như: Xuân Nho, Nhị
Văn, Hồ Anh Tuấn, Nguyễn Tự Phê, Đức Dũng (Thăng Bình), Nguyễn Phạm
Huỳnh, Nguyễn Hữu Cần, Ngô Xuân Dương, Phạm Tăng, Lê Nho Sơn (Quế
Sơn), Thu Hạnh, Hoàng Mộng Giao (Tiên Phước), Nguyễn Đình Hiến, Hữu
Lượng (Tam Kỳ)... Rồi có Nguyễn Công Toản, Huỳnh Phan Lê (con của Giáo
sư Huỳnh Lý) bên Ban Kinh tế; Duy Nguyễn (Trần Khảm) bên Ban Binh vận;
Võ Tuyển (bác sĩ, Trưởng ban Dân y); Nguyễn Anh Dũng bên Tỉnh đội; các anh
Hoài Hà, Nguyễn Trung Hiếu, Vũ Thành Lê, Hà Phương Diệu ở Quảng Đà; nhà
thơ Liên Nam, Thân Như Thơ ở báo Quân giải phóng Khu 5 và một số anh chị
em khác. Có chi tiết, nhà thơ Thân Như Thơ (quê Hội An) gửi cho báo bài thơ
lục bát “Vườn thơm” viết trên tờ giấy pơ-luya xanh mỏng, nay tôi còn giữ làm

kỷ niệm. Quá lâu rồi tôi không có điều kiện gặp lại các anh chị ấy, biết ai người
còn người mất. Dù xa vắng, cách trở bao nhiêu, hình bóng các anh chị thân yêu
đã một thời gắn bó với báo Giải phóng, không bao giờ phai mờ trong ký ức nhớ
thương của tôi.
Về hình thức, tờ báo vẫn giữ khuôn khổ 30 x 40cm (2 trang vở học trò nối
lại). Măng-sét chữ Giải phóng luôn thay đổi, là do lúc đó, tôi được giao làm
thêm một số việc mà bên bộ phận viết li-tô (chữ ngược) nhà in ít khi làm được
như viết chữ tít, vẽ tranh cổ động, tranh đả kích. Tôi có biết vẽ, viết chút ít, nên
hay ngồi phác họa các kiểu chữ “Giải phóng”, thấy chữ nào hay hay thì sử dụng,
cho nên vài ba số lại có chữ “Giải phóng” khác (lúc chữ đứng, lúc nghiêng, lúc


ba tông chân đe, lúc chữ phông-ta-di). Thay đổi xoành xoạch như vậy nhưng các
anh lãnh đạo ban không có ý kiến gì, không như bây giờ, măng- sét báo phải xét
duyệt và giữ cố định theo giấy phép được cấp.
Báo không ra được đều kỳ, nên không đánh số, chỉ ghi ngày in báo, có khi
một tháng 2 số, có khi cả tháng không in được, do tình hình địch đánh phá, cơ
quan di chuyển, chống càn, lo vận chuyển lương thực, tăng gia sản xuất, tự túc
chi phối. Tuy nhiên, báo vẫn đảm bảo chất lượng, nhất là những số đặc biệt về
những ngày lễ lớn, ngày tết được tăng trang (4 lên 8 trang). Bài vở được đầu tư
chăm chuốt công phu, nặng thể loại “văn chương, lịch sử”, có tranh cổ động 3
màu ở trang đầu. Màu đỏ dùng thuốc đỏ, màu vàng dùng thuốc củ nghệ, màu
xanh có sẵn mực viết, rồi dùng bút tô theo màu sắc họa sĩ vẽ, vậy mà khi báo in
ra trông cũng rực rỡ, bắt mắt. Báo có mấy chuyên mục như “Trên mảnh đất
này”, “Tiếng thơ đất Quảng”, “Tranh đả kích”, nhận được nhiều bài viết, tranh
vẽ của cộng tác viên, bạn đọc tham gia. Thường các bài xã luận, bình luận trên
báo đều do Trưởng ban Tuyên huấn (qua các thời kỳ) như đồng chí Trương
Minh Tân, Nguyễn Minh Mẫn, Võ Thiếp, Việt Dũng, cũng có khi giao cho phó
trưởng ban viết, các đồng chí trưởng ban xem, sửa lại, hoặc bỏ hẳn vì chưa đạt
yêu cầu, rất ít khi anh em phóng viên, biên tập chúng tôi viết, nếu nhỡ các đồng

chí ấy đi vắng, thì báo cũng phải chờ. Còn lại, toàn bộ nội dung, chúng tôi đều
quán xuyến hết. Càng đi nhiều, viết nhiều, lăn lộn với thực tế, cộng với rèn
luyện dần, tích lũy kinh nghiệm, tay nghề nâng lên, làm chủ được ngòi bút, thể
loại, nội dung vấn đề mình viết, nên được lãnh đạo quan tâm, tin tưởng.
Ở tòa soạn báo Giải phóng Quảng Nam cũng có sự phân công, mỗi
anh chị theo dõi một mảng, nhưng khi cần đều viết được các mảng khác
như vũ trang, đấu tranh chính trị, văn hóa, văn nghệ, giáo dục, tin trong
nước, quốc tế v.v.
Được giao nhiệm vụ ghi tin chậm Đài Tiếng nói Việt Nam (từ 8 giờ đến
10 giờ sáng hằng ngày) và Đài Phát thanh Giải phóng (từ 12 giờ đến 13 giờ hàng
ngày), hai chị Phan Thị Minh, Phạm Thị Như Lại đi đâu, ở đâu cũng mang theo
bên mình chiếc đài bán dẫn để nghe, ghi lại rồi chọn lọc làm bản tin cho báo.
Công việc này đòi hỏi phải tinh nhạy, có nhãn quan chính trị, phát hiện nhanh
bản tin nào cần phải sử dụng nguyên văn hoặc tóm tắt.
Ngoài công việc chính, báo Giải phóng có lúc còn cử phóng viên xuống tổ
chức các đợt tập huấn cho cộng tác viên, hoặc nói thời sự ở một số huyện. Năm
1966, báo tổ chức Cuộc thi sáng tác thơ trên toàn tỉnh. Năm ấy bài thơ “Qua đồn
Đất Đỏ” của tác giả Triều Phương đạt giải Nhất (đồn Đất Đỏ ở Tam Kỳ bị qquân
giải phóng Quảng Nam san bằng năm 1965). Sau đó, bài thơ in trong tập thơ
tuyển chọn của báo cùng các bài “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Bình Dương quê ta”, “Bài
ca chào mừng”, “Thư ra tiền tuyến”, “Đường về mùa Xuân”... của các tác giả
khác. Năm nào báo Giải phóng cũng in được vài tập ca dao khổ nhỏ, số lượng
lớn, phát hành rộng rãi, vào tận huyện lỵ, thị xã tạm chiến (Tôi còn giữ được
mươi tập đến nay).


Chưa bao giờ tòa soạn ở lâu một nơi được vài tháng, dù là ở trên núi, chỗ
hiểm trở, mà luôn di dời để tránh địch càn quét, đánh phá. Vất vả nhất là làm lán
trại và đào hầm. Có khi làm xong, chưa ở, lại phải đi nơi khác, hoặc bị tàu gáo
(rọ) Mỹ lùng sục bắn cháy. Suốt những năm tháng ấy, tòa soạn xê dịch, lúc đóng

quân ở thôn 4 xã Phước Sơn, lúc xuống Phước Cẩm, rồi lên xã Phước Hà, huyện
Tiên Phước. Sau đó, tòa soạn vào ở dốc Ông Đồi xã Kỳ Quế, rồi sang Kỳ Sơn,
huyện Tam Kỳ. Lúc phải lên tận nóc Ông Đề gần mỏ vàng Bồng Miêu. Mỹ lết,
B52 nhiều quá, lại đùm túm nhau lên Phương Đông, Dương Yên, xa nhất là Tiên
Lãnh, huyện Tiên Phước. Cách đây 10 năm, thôn 4 Phước Sơn là nơi được đặt
bia đá kỷ niệm địa chỉ lịch sử của Ban Tuyên huấn Quảng Nam đóng quân đầu
tiên tại vùng căn cứ địa cách mạng Sơn Cẩm Hà của tỉnh, trong đó có báo Giải
phóng Quảng Nam, ở nhà bác Sơn. Bây giờ, chỗ ấy không có nhà dân, chỉ có
cây cối um tùm, bao phủ bạt ngàn rừng núi.
Đi đâu, ở đâu anh em phóng viên, biên tập của chúng tôi cũng bám theo
các chiến dịch, hoạt động đánh địch của bộ đội ta. Rồi báo phản ánh các phong
trào, các đợt phát động thi đua giết giặc lập công, tăng gia sản xuất, tòng quân,
vận chuyển lương thực, đấu tranh chính trị, binh vận, xây dựng vùng giải
phóng... Hay các đại hội, liên hoan chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ, đoàn thể
nông dân, thanh niên, phụ nữ; các hội nghị ban, ngành, tỉnh đội; các tấm gương
tiên tiến, người tốt việc tốt... Đi đâu chúng tôi cũng ghi chép, viết tin, bài, tích
lũy tư liệu để sau này có điều kiện viết ký, truyện.
Tôi đã vài lần được lãnh đạo ban, chủ yếu là tòa soạn báo, cử sang Tỉnh
đội, đi theo các đồng chí chỉ huy áp sát trận địa. Như trong trận đánh xáp lá cà
của quân Giải phóng với bọn Mỹ ở Núi Thành năm 1966 lừng danh cả nước,
được tặng 8 chữ vàng “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ” (Tôi có viết bài
thơ “Lời thề diệt Mỹ”, in trên báo Giải phóng và in trong tập thơ tuyển “Tiếng
thơ đất Quảng”, nay tôi còn giữ tập thơ). Hay trận đánh đốt cháy đoàn xe quân
sự của địch trên quốc lộ 1, đoạn Mộc Bài - Bà Rén huyện Quế Sơn, năm 1967.
Trong chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1968, tôi và anh Nguyễn Đình
Khôi được phân công theo cánh quân Huyện đội Tam Kỳ vào thị xã trong đêm
quân ta nổ súng đánh địch, làm nhiệm vụ chiếm phòng thông tin, dùng ô tô gắn
loa đọc tin chiến thắng, kêu gọi ngụy quân ngụy quyền ra hàng, phát báo chí, tờ
tin tới đồng bào và viết tin, bài, chụp ảnh tại chỗ. Nhưng chiến sự không thuận
lợi, sáng hôm sau phải rút về hậu cứ, thì anh Nguyễn Đình Khôi bị địch phản

kích bắt ngay tại tỉnh đường Quảng Tín đưa đi cầm tù. Mùa xuân đó, báo Giải
phóng dốc toàn lực làm tờ báo Xuân Mậu Thân 8 trang, với nội dung phong phú,
in số lượng lớn, cùng với các tập thơ, ca dao chọn lọc, các tờ rơi và áp-phích
được anh em tòa soạn mang theo vào các quận lỵ, thị xã được phân công đi
chiến dịch...
*
*
*
Ngày 26 tháng 3, rồi 29 tháng 3 năm 1975, Quảng Nam, Đà Nẵng hoàn
toàn giải phóng. Tôi không có may mắn được cùng anh chị em trong Ban Tuyên
huấn, đặc biệt là báo Giải phóng Quảng Nam - nơi tôi công tác - đón chào ngày


quê nhà sạch bóng quân thù, vì đang vào học năm đầu đại học báo chí ở Hà Nội.
Ngày ấy, chắc anh chị tòa soạn báo vui mừng và hạnh phúc, vì sau chặng đường
xuôi ngược lại được trở về giữa lòng thành phố Đà Nẵng và đất trời xứ Quảng
thân yêu, để bước vào một thời kỳ mới trong quê hương hòa bình, độc lập, bỏ lại
đằng sau bao nhiêu nhọc nhằn, gian khổ, những vui buồn, mất mát không tránh
khỏi trong chiến tranh. Nhưng một điều khẳng định, chúng tôi có những năm
tháng sống đẹp bằng cây bút, trang giấy như những chiến sĩ ngoài mặt trận, đánh
giặc, cứu nước, góp một phần đáng kể vào sự nghiệp cách mạng, được Đảng và
nhân dân tin yêu, nuôi dưỡng. Có vinh dự và hạnh phúc nào bằng!
Với dung lượng cho phép, tôi chỉ ghi lại được bấy nhiêu chi tiết chưa đầy đủ, coi
như chút ký ức của một người được làm việc trong tòa soạn báo Giải phóng
Quảng Nam, một thời đã qua.
HOÀNG HƯƠNG VIỆT
HOÀNG HƯƠNG VIỆT. Có một biên niên sử báo chí cách mạng Quảng
Nam/ Hoàng Hương Việt// Quảng Nam.- 2020.- Ngày 10 - 15 tháng 6.- Tr.6.



BÁC HỒ TRONG TRÁI TIM CỦA A NHỨI
Chưa đủ tiền nộp học phí, giấc mơ đại học của Pơ Loong A Nhứi
đành đóng lại. Những tưởng tương lai của chàng thanh niên dân tộc Cơ tu
ở xã Tà Bhing, huyện Nam Giang (tỉnh Quảng Nam) sẽ cũng như ông bà,
cha mẹ mình, quẩn quanh nơi miền sơn cước hẻo lánh, xa xôi. Nhưng
không, khát khao học tập, theo đuổi đam mê đã mở ra cánh cửa khác, giúp
A Nhứi có một ngã rẽ quyết định cuộc đời.

Pơ Loong A Nhứi (hàng đứng đầu tiên, thứ 2 từ trái qua) trong đội của mình tại công ty
(Ảnh do nhân vật cung cấp)

Sinh năm 1994, đến nay, Pơ Loong A Nhứi đã gắn bó với thành phố biển
Đà Nẵng 8 năm, trong đó anh làm việc tại Công ty TNHH Asian Tech 5 năm với
mức thu nhập khá tốt. “Cứ 6 tháng một lần, công ty đánh giá chất lượng công
việc, năng lực và hiệu quả mỗi cá nhân mang lại, đóng góp cho công ty để xét
lương, thưởng. Từ mức khởi điểm hơn 4 triệu đồng, đến nay em đã được nhận
mức lương gấp 5 lần như thế”, Nhứi chia sẻ về công việc hiện tại.
Nhứi hiện là kỹ sư phần mềm, làm công việc “vận chuyển” và sắp xếp dữ
liệu. Năm 2017, Nhứi có sáng kiến áp dụng kỹ thuật công nghệ trong dự án
chuyển đổi và theo dõi quá trình nhập liệu. “Công việc chuyển đổi và nhập liệu
rất phức tạp. Nếu theo phương pháp cũ phải mất 3 ngày cho một dự án nhỏ của
đội, từ khi áp dụng sáng kiến mới, thời gian này chỉ còn lại 30 phút. Để có được
kết quả đó là cả một quá trình kéo dài em mày mò và tìm tòi, thử nghiệm”, Nhứi
cho biết.
Cũng như bao người con núi rừng huyện Nam Giang, để theo đuổi con
đường học tập, lên lớp 6, Nhứi đã phải xa gia đình xuống trường huyện để học.
“Hồi mới lên lớp, nhiều bữa nhớ nhà, cũng khóc lóc lắm rồi cùng chúng bạn đi
bộ hơn 20 cây số đường rừng về nhà. Nhưng quyết tâm phải học, em lại quay lại.
Hồi nhỏ, em rất thích mày mò các vật dụng điện, điện tử. Cái đài radio của ba bị
hư, em cũng tháo ra để xem, vì sao nó nhỏ thế mà phát ra được âm thanh, truyền

đi giọng nói…


Cứ thấy cái gì mới liên quan đến công nghệ, thông tin là em lao vào tìm
hiểu”, Nhứi kể. Lên cấp 3, Nhứi xuống Trường dân tộc nội trú ở Hội An (Quảng
Nam) học. “Hết cấp 3, em thi vào Khoa Công nghệ thông tin của Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Khi biết mình đậu, niềm vui vô bờ bến. Ngày
nhập học là ngày cuối cùng nhà trường nhận hồ sơ tân sinh viên. Em lên trường
nộp học phí thì chưa đủ tiền. Thất vọng, buồn và muốn khóc lắm. Nhưng rồi
chợt nhớ, từ tháng 4 trước đó, em từng thi vào Trung tâm Phát triển phần mềm Đại học Đà Nẵng. Em chạy qua trung tâm để tìm hiểu và biết mình đậu. Em cứ
nghĩ mình đã cùng đường nhưng ngã rẽ lại bắt đầu từ đó”, Nhứi hồi tưởng.
Nhờ có tài trợ, Nhứi tiếp tục theo đuổi giấc mơ học tập. Nhứi không chỉ
học chuyên môn phần mềm, mà còn được đào tạo tiếng Anh rất bài bản. Ngay từ
cấp 3, Nhứi đã theo đuổi và có ý thức trong việc học tiếng Anh để giao tiếp và
mở rộng tầm nhìn ra thế giới. Đến nay, Nhứi tự tin giao tiếp tiếng Anh với đồng
nghiệp là các bạn người Nhật trong công ty, kể cả tự đọc văn bản. Lý giải về
động lực học ngoại ngữ, Nhứi chia sẻ một điều rất thú vị: “Từ nhỏ, qua sách vở
nhà trường và qua việc thờ ảnh Bác Hồ của người dân quê em, em biết về Bác
Hồ. Nhưng phải lớn lên, bên cạnh việc học, em tìm hiểu thêm về Bác, biết Bác
ra đi tìm đường cứu nước khi mới 21 tuổi. Từ đó, em hằng mơ về Bác. Hình
tượng của Bác trở thành động lực cho bản thân rèn luyện, phấn đấu. Sắp tới, em
sẽ học thêm tiếng Trung, rồi học tiếng Nhật để biết thêm, hiểu thêm con người,
văn hóa của các nước”, Nhứi nói.
Pơ Loong A Nhứi cho biết đang nỗ lực hằng ngày để đóng góp vào thành
quả của công ty bằng những sáng kiến, những ý tưởng mới mẻ để chia sẻ với
đồng nghiệp và nhóm của mình. Nhứi còn ấp ủ (và đang thử nghiệm) một dự án
của bản thân, đó là xây dựng, lập trình một phần mềm quản lý dữ liệu chia sẻ
với cộng đồng. Phần mềm này sẽ giúp mọi người định hình, lưu trữ và chia sẻ
dữ liệu của mình. “Em luôn xem các ý tưởng, sáng kiến là người bạn đồng hành,
chung thủy với mình trong cuộc sống, công việc. Hiện em đang tập trung làm

việc và tìm tòi thêm các ý tưởng mới để phục vụ công việc và thỏa mãn đam mê
công nghệ thông tin. Mỗi lần về quê, em cũng chia sẻ câu chuyện của mình cho
các em nhỏ và bạn bè để tiếp thêm cho họ niềm tin, động lực.
Mình phải vượt lên khỏi cái bóng của núi rừng, phải vươn ra thế giới rộng
lớn bên ngoài. Em cũng mừng, quê em giờ đã nhiều đổi thay, nhiều bạn học
hành đầy đủ, ra làm việc tại thành phố và có thu nhập tốt. Trước hết là ơn Bác
Hồ, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm đến đồng bào Cơ tu quê em, giúp
chúng em có động lực, điều kiện để học tập, rèn luyện và phấn đấu trưởng
thành”, A Nhứi kể.
Năm 2018, Nhứi là một trong những tấm gương điển hình được trao tặng giấy
khen tại hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của quận Sơn Trà.
Trước đó, năm 2017, cùng với sáng kiến mang tính “nội bộ” về phần mềm ứng
dụng nhập và lưu trữ dữ liệu, Nhứi được nhận giải thưởng tập thể về nâng cao
kỹ năng tiếng Anh cho nhân viên; giải thưởng cá nhân về thuyết trình tạo cảm


hứng, truyền động lực làm việc cho mọi người.

MINH SƠN
MINH SƠN. Bác Hồ trong trái tim của A Nhứi/ Minh Sơn// Đà Nẵng cuối
tuần.- 2020.- Ngày 21 tháng 6.- Tr.14.

CUỐN TIỂU THUYẾT DUY NHẤT CỦA PHAN KHÔI


Trong sự nghiệp trước tác đồ sộ để lại cho hậu thế, Phan Khôi chỉ có
một cuốn tiểu thuyết. Ngày nay, có người nghĩ rằng đó là điều may cho ông,
nhưng cũng có người lại… tiếc!


Trở vỏ lửa ra - cuốn tiểu thuyết duy nhất của Phan Khôi.
Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra
Trở vỏ lửa ra là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Phan Khôi, được Tân Dân
xuất bản năm 1939 dưới hình thức khuôn khổ Phổ thông bán nguyệt san.
Đây là cuốn tiểu thuyết mang tính luận đề, nhằm bênh vực cho nữ quyền vốn là
một đề tài mà ông theo đuổi trong nhiều năm nhất là khi cộng tác với tờ Phụ nữ
tân văn.
Về hoàn cảnh ra đời tác phẩm này, người con gái của ông cho biết: “Cuối
năm 1937, cha tôi vào Sài Gòn dạy Việt văn và Hán văn tại trường Trung học tư
thục Chấn Thanh của ông Phan Bá Lân, đồng thời cộng tác với báo Tao Đàn.
Thời gian này ông sáng tác quyển tiểu thuyết đầu tay “Trở vỏ lửa ra” và bán bản
quyền cho Nhà xuất bản Phổ Thông…” (Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi Phan
Khôi, Nxb Đà Nẵng, 2001, trang 45).
Tên tác phẩm dựa theo một phong tục ngày trước, khi trong nhà có người
sinh đẻ, người ta buộc một cây ráy vào một que củi đã đun dở một đầu, rồi buộc
nó trên một cái cọc cắm ngoài ngõ, gọi bằng “khem”. Đẻ con trai thì quay đầu
đã đun dở của que củi trở vào, con gái thì đầu ấy trở ra. Người đi qua, thấy cái


khem thì biết trong nhà đẻ con trai hay con gái. Tục này thể hiện tư tưởng trọng
nam khinh nữ, theo tinh thần của câu tục ngữ “nữ sinh ngoại hướng” hay “nữ
nhi ngoại tộc” nghĩa là con gái sinh ra thì coi như người ngoài.
Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra được viết với lối văn giản dị và kết cấu đơn
giản, nói về một câu chuyện xảy ra ở vùng Nam Trung Bộ, nhân vật chính là
một cô gái sinh ra trong một gia đình khá giả ở Quy Nhơn được cha mẹ gửi vào
trọ học trong nhà người dì ở Phan Thiết. Cha mẹ cô không có con trai nên nhận
người cháu tên Thưởng làm người kế tự. Thưởng là người tham lam, dốt nát,
keo kiệt nên khi mẹ mất đã tìm cách để chiếm đoạt gia tài bằng cách gả cô cho
một người giàu trong vùng nhưng cô không yêu thương. Tranh chấp gia tài giữa
cô và Thưởng kéo dài. Cuối cùng với sự “tiếp sức” của viên quan địa phương vụ

tranh chấp gia tài bị gác lại. Dù khó khăn cô vẫn cố gắng tiếp tục việc học. Do
không muốn làm phiền những người tốt bụng luôn giúp đỡ, cô đã làm thêm để
có tiền sinh sống. Lao động vất vả làm cô lâm bệnh nan y. Cô gái trút hơi thở
cuối cùng trong một xóm nhỏ thuộc làng Bưởi cạnh Hồ Tây vào năm 1930.
Dư luận
Trở vỏ lửa ra lúc đầu xuất hiện trên văn đàn được dư luận chú ý, theo Vũ
Ngọc Phan vì Phan Khôi là nhân vật uy tín, “một nhà báo viết nghị luận có tiếng”
lại là “nhà Hán học tinh thông”. Không chỉ có thế, lúc này ông đang rất nổi tiếng
trên văn đàn, độc giả đang trông chờ để được đọc những bài viết của ông.
Nhưng có lẽ vì phục vụ cho mục đích lý tưởng xã hội nên người viết ít
dụng công về mặt nghệ thuật nên khi quyển tiểu thuyết ra đời, không được như
những gì người ta mong đợi. Có thể thấy điều này qua nhận xét của ba người
“trong cuộc”. Trước hết là người con gái của ông - Phan Thị Mỹ Khanh trong
tác phẩm đã dẫn cho rằng: “Tiểu thuyết không phải là sở trường của cha tôi nên
ông không thành công. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét, đại
ý: “Kém về nghệ thuật, người đọc dễ chán vì mọi việc đã được tác giả cho biết
trước, còn phê phán, nghị luận đối với từng nhân vật, từng sự việc. Nó chưa phải
là tiểu thuyết mà nó giống như một thiên kỹ thuật… Chính chúng tôi ngày đó
mới học tiểu học, được đọc nhiều tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh,
Nguyễn Công Hoan cũng thấy nhận xét trên là đúng” (trang 45).
Kiều Thanh Quế - một nhà phê bình văn học gốc Nam Bộ, đã “bộc trực”
rằng Phan Khôi viết Trở vỏ lửa ra với “mỹ ý” bênh vực cho nữ quyền là rất đáng
quý. Tuy nhiên “tiểu thuyết không phải là sở trường của Phan Khôi, ông nên
quay về địa hạt sở trường của ông là khảo cứu đề tài tư liệu… Phan Khôi nên để
dành nghệ thuật quý báu của mình mà phụng sự những điều mình sở đắc”.
Chính vì thế “Trở vỏ lửa ra, quyển chuyện đầu tay của Phan Khôi quyết là
quyển chuyện chót của Phan Khôi vậy”, để “Phan Khôi không còn bị Phổ thông
bán Nguyệt san lợi dụng tên tuổi để bán báo cho chạy” (Báo Mai số 104, ngày
29.9.1939).
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, tuy “nhẹ nhàng” hơn nhưng đọc

qua cũng rất “thấm thía”: “Viết quyển này, Phan Khôi đã dùng ngòi bút nhà báo
hơn là ngòi bút tiểu thuyết gia. Những việc trong truyện đều là những việc có
thể có thật và hiện đã có trong xã hội Việt Nam; tác giả đã “thuật” lại việc ấy


một cách quá rõ ràng, làm cho nó giống một thiên kỹ thuật hơn là một thiên tiểu
thuyết. Bởi thế người ta chê là không có nghệ thuật… Phan Khôi đã dùng “nghệ
thuật nọ vào một nghệ thuật kia, do cái tính quá khúc chiết của ông, chứ không
phải quyển Trở vỏ lửa ra không có nghệ thuật…” (Nxb Văn Học, trang 247).
Gần đây, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng phải thừa nhận: “Ông đã từng
viết truyện hư cấu, bằng chữ Hán (đăng Nam Phong) hoặc bằng chữ Quốc ngữ,
tiêu biểu trong số đó là truyện dài Trở vỏ lửa ra. Các mạch truyện hư cấu này
không mấy thành công, do tác giả mạnh ở suy lý, logic, nhưng hơi thiếu linh
hoạt, thiếu sinh động và chất sống trong mô tả, dựng người dựng cảnh” (Bài đọc
trong buổi lễ trao giải Phan Châu Trinh năm 2017).
Có lẽ do “tiếp thu” sự phê bình của công luận nên Phan Khôi từ bỏ hẳn
việc viết tiểu thuyết để tập trung vào thế mạnh của mình là các đề tài khảo cứu.
Vì thế Trở vỏ lửa ra trở thành tiểu thuyết “duy nhất” của ông!
Chúng ta những người yêu mến Phan Khôi thì lại tiếc, ngày đó nếu không
có những nhận xét quá “thẳng thắn” của các nhà phê bình, biết đâu Phan Khôi từ
sự thất bại của quyển này sẽ rút kinh nghiệm mà cho ra đời thêm vài quyển nữa,
hay hơn, hấp dẫn hơn!
Với chúng ta, đọc Phan Khôi, dù hay hoặc chưa hay, đều rất thú vị; mỗi
thứ có cái… thú vị riêng.
LÊ THÍ
LÊ THÍ. Cuốn tiểu thuyết duy nhất của Phan Khôi/ Lê Thí// Quảng Nam.2020.- Ngày 27 & 28 tháng 6.- Tr.2.

KHI NGÒI BÚT CẦN THÊM MỘT DÁNG ĐỨNG



×