Tải bản đầy đủ (.pdf) (576 trang)

Giáo trình luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.18 MB, 576 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

1


1390-2019/CXBIPH/18-14/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
(Tái bản lần thứ 16 có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2019

3


Chủ biên
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Tập thể tác giả


Chƣơng I
Chƣơng II
Chƣơng III
Chƣơng IV
Chƣơng V
Chƣơng VI
Chƣơng VII
Chƣơng VIII
Chƣơng IX
Chƣơng X
Chƣơng XI
Chƣơng XII
Chƣơng XIII

4

PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
TS. PHAN THỊ THANH MAI
TS. PHAN THỊ THANH MAI
TS. PHAN THỊ THANH MAI
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
TS. VŨ GIA LÂM
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
TS. NGUYỄN HẢI NINH
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
TS. VŨ GIA LÂM
TS. VŨ GIA LÂM
TS. NGUYỄN HẢI NINH
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

TS. MAI THANH HIẾU
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH
TS. MAI THANH HIẾU
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH
TS. PHAN THỊ THANH MAI
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH


LỜI GIỚI THIỆU
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kì
họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Với mục tiêu xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự thực sự khoa học,
tiến bộ có tính khả thi cao, là công cụ pháp lí sắc bén để đấu
tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất
cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013
quy định, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa những quy
định còn phù hợp trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; loại
bỏ, sửa đổi những quy định không còn phù hợp; bổ sung, xây
dựng nhiều quy định mới phù hợp với những yêu cầu thực tiễn
của nước ta. Bộ luật tố tụng hình sự là căn cứ pháp lí quan trọng
nhất quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ
quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự,
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính

xác, nhanh chóng và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần
bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
5


chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm...
Việc nắm vững các nội dung cơ bản trên là hết sức cần thiết đối
với mỗi cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật, mỗi sinh viên, học
viên của Trường Đại học Luật Hà Nội - những người đang nghiên
cứu về các ngành luật nói chung và luật tố tụng hình sự nói riêng.
Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập và nghiên cứu của
giảng viên, sinh viên, học viên, Trường Đại học Luật Hà Nội đã
tổ chức biên soạn và chỉnh sửa, bổ sung Giáo trình luật tụng hình
sự Việt Nam trên cơ sở kế thừa các giáo trình đã được xuất bản
trước đây. Giáo trình do PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ
biên và nhóm tác giả bao gồm các phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã
có nhiều năm làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động
thực tiễn trong các cơ quan bảo vệ pháp luật tham gia biên soạn.
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam được biên soạn dựa
trên cơ sở lí luận chính thống, các quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật khác về tố tụng
hình sự đã được ban hành.
Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan cũng như chủ quan
trong quá trình biên soạn nên Giáo trình không tránh khỏi những
điểm thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của các nhà
khoa học, các cán bộ giảng dạy và bạn đọc để lần tái bản sau
Giáo trình sẽ hoàn chỉnh hơn.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Giáo trình luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT NGÀNH LUẬT TRONG
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Khái niệm luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là vấn đề quan trọng
trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này một cách kiên quyết, kịp
thời, có hiệu quả, Quốc hội đã thông qua nhiều văn bản pháp luật
quan trọng, trong đó Bộ luật hình sự(BLHS) quy định hành vi nào
là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt.
Khi có hành vi phạm tội xảy ra, việc phát hiện, xác định tội phạm
và ngƣời phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống tội
phạm. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa
của hình phạt... hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải
nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt.

7


Điều quan trọng không phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng phạt
nặng mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện".(1)
Để bảo đảm phát hiện chính xác và xử lí công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để
lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội đồng thời góp phần bảo
vệ công lí, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi ngƣời ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, pháp
luật cần phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án hình sự. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định
thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành
án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa
vụ của ngƣời tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nếu xác định
có dấu hiệu của tội phạm hoặc khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trực tiếp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì
quyết định khởi tố vụ án hình sự theo thẩm quyền; tiến hành các
hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh
tội phạm và ngƣời phạm tội, lập hồ sơ vụ án hình sự, ra bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố chuyển sang viện kiểm sát, nếu có đủ
chứng cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra và ngƣời đã thực
hiện hành vi phạm tội đó. Nếu xét thấy việc khởi tố vụ án không

có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh
đƣợc bị can đã thực hiện tội phạm... thì cơ quan điều tra ra bản kết
luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu bị can bị bệnh
(1).Xem: V.I. Lênin toàn tập, Tập 4, Nxb. Sự thật, Hà Nội,tr. 508.

8


tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội đồng
giám định pháp y;(3) chƣa xác định đƣợc bị can hay không biết bị
can đang ở đâu thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ
điều tra. Khi nhận đƣợc hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, tuỳ
từng trƣờng hợp viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định
nhƣ trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ vụ án hay quyết định truy tố bị can trƣớc toà án bằng bản cáo
trạng hoặc bằng quyết định truy tố (nếu vụ án đƣợc giải quyết
theo thủ tục rút gọn). Khi nhận đƣợc hồ sơ do viện kiểm sát
chuyển đến, toà án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cần thiết để
giải quyết vụ án hoặc quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Bản án của
tòa án quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và biện
pháp tƣ pháp...
Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi xét xử là một
quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó
xét xử là hoạt động trung tâm và mang tính quyết định. Điều 13
BLTTHS năm 2015 quy định: "Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục
Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu
lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận

người bị buộc tội không có tội". Nhƣ vậy, xét xử là một hình thức
hoạt động nhà nƣớc đặc biệt do toà án thực hiện, nhằm xem xét và
giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Để việc xét xử
đƣợc tiến hành đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án hình
sự phải đƣợc khởi tố, điều tra, truy tố trƣớc khi xét xử. Sau khi xét
xử, toà án ra bản án tuyên bố bị cáo có tội hoặc không có tội và
các quyết định khác. Bản án và quyết định của toà án đã có hiệu
lực pháp luật phải đƣợc thi hành và đƣợc các cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách

9


nhiệm của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết
định của toà án. Nhƣ vậy, tố tụng hình sự không chỉ bao gồm hoạt
động xét xử vụ án mà còn bao gồm cả những hoạt động trƣớc khi
xét xử (nhƣ khởi tố, điều tra, truy tố) và những hoạt động sau khi
xét xử (nhƣ thi hành án). Mặt khác, để phát hiện, xử lí tội phạm và
ngƣời phạm tội, luật tố tụng hình sự còn quy định sự tham gia tố
tụng của những ngƣời có liên quan đến vụ án, của cá nhân, cơ
quan và tổ chức khác.
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự). Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà
án); ngƣời tiến hành tố tụng (thủ trƣởng, phó thủ trƣởng cơ quan
điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra; viện trƣởng, phó viện trƣởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, kiểm tra viên; chánh án, phó
chánh án toà án, thẩm phán, hội thẩm và thƣ kí toà án, kiểm tra
viên); cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra (các cơ quan của bộ đội biên phòng, các cơ quan của hải

quan, các cơ quan của kiểm lâm, các cơ quan của lực lƣợng cảnh
sát biển, các cơ quan của kiểm ngƣ, các cơ quan của công an nhân
dân đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các
cơ quan khác trong quân đội nhân dân đƣợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra;(1) ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời tố
giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, ngƣời bị giữ trong
trƣờng hợp khẩn cấp, ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, ngƣời làm chứng, ngƣời chứng kiến, ngƣời
giám định, ngƣời định giá tài sản, ngƣời phiên dịch, ngƣời dịch
thuật, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
(1).Xem: Khoản 2 Điều 35 BLTTHS năm 2015.

10


bị hại, đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, ngƣời đại diện theo pháp
luật của pháp nhân phạm tội, ngƣời đại diện khác theo quy định
của BLTTHS), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần
vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Nhƣ đã phân tích ở trên, quá trình giải quyết vụ án phải trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thực hiện nhiệm vụ
nhất định của tố tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng hình sự là những
bƣớc trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về
phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Theo chúng
tôi, Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành
các giai đoạn sau:(1)
- Khởi tố vụ án hình sự: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình

sự, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu
của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;
quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo
quy định của pháp luật.
- Điều tra vụ án hình sự:Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật,
tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ làm rõ đối
tƣợng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình
chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra và các quyết định
khác theo quy định của pháp luật.
- Truy tố: Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các
hoạt động cần thiết để truy tố bị can trƣớc toà án bằng bản cáo
trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật.
(1). Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình
sự. Ví dụ: Có quan điểm cho rằng khởi tố và điều tra là một giai đoạn. Trong
giáo trình này, căn cứ vào tinh thần của các quy định trong BLTTHS, tố tụng
hình sự đƣợc chia làm 7 giai đoạn.

11


- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, toà án cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến
hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết
định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn này, toà án
cấp trên trực tiếp (cấp xét xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án,
quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,

kháng nghị theo quy định của pháp luật.(1)
- Thi hành án hình sự: Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành
án hình sự và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành
các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết định của toà án đã
có hiệu lực pháp luật.(2)
- Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, toà
án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án (giám đốc thẩm)(3) hoặc có những tình tiết mới
đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,
quyết định mà toà án không biết đƣợc khi ra bản án, quyết định đó
(tái thẩm).(4) Ngoài thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn này
còn có thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.(5)
Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của
(1). Có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là một giai đoạn.
(2). Hiện nay, có quan điểm cho rằng thi hành án không phải là một giai đoạn của
tố tụng hình sự nhƣng trong BLTTHS năm 2015 vẫn quy định một số vấn đề về
thủ tục thi hành án, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn xem thi hành án là một
giai đoạn của tố tụng hình sự.
(3). Xem: Điều 370 BLTTHS năm 2015.
(4).Xem: Điều 397 BLTTHS năm 2015.
(5).Xem: Chƣơng 27 BLTTHS năm 2015.

12


từng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy
độc lập nhƣng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau

và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trƣớc là tiền đề của
giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trƣớc. Kết thúc
một giai đoạn phải có kết luận dƣới hình thức văn bản tố tụng để
giải quyết vụ án.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của
luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập có đối tƣợng điều
chỉnh và phƣơng pháp điều chỉnh riêng. Đối tƣợng điều chỉnh của
luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các
chủ thể khác nhau trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giữa cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng và những ngƣời tham gia tố tụng
phát sinh mối quan hệ nhất định. Ví dụ: Để thu thập chứng cứ, cơ
quan điều tra phải tiến hành các hoạt động khởi tố bị can và hỏi
cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của ngƣời làm chứng... từ đó,
phát sinh mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với bị can, với ngƣời
làm chứng... Khi tiến hành các hoạt động khác cũng phát sinh các
mối quan hệ tƣơng tự nhƣ trên và luật tố tụng hình sự điều chỉnh
các mối quan hệ đó.
Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những
cách thức dùng để tác động đến các quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự. Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự đƣợc xác
định căn cứ vào tính chất đặc thù của quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự. Luật tố tụng hình sự Việt Nam có hai phƣơng pháp điều
chỉnh đặc trƣng, đó là: Phƣơng pháp quyền uy và phƣơng pháp
phối hợp - chế ƣớc.
Phƣơng pháp quyền uy là phƣơng pháp điều chỉnh đặc trƣng
của luật tố tụng hình sự. Quyền uy thể hiện ở quan hệ giữa cơ
13



quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với ngƣời tham gia tố tụng.
Các quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ
quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức và mọi cá
nhân. Quyền uy không có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền muốn
làm gì thì làm mà các cơ quan này phải thực hiện quyền lực của
mình trong khuôn khổ của pháp luật. Phƣơng pháp quyền uy còn
thể hiện ở việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp cƣỡng chế tố tụng...
Phƣơng pháp phối hợp - chế ƣớc điều chỉnh mối quan hệ giữa
cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án... Các cơ quan này có
nhiệm vụ phối hợp với nhau tiến hành các hoạt động của mình
theo quy định của BLTTHS. Cơ quan này làm sai thì cơ quan
khác có quyền phát hiện, tự mình sửa chữa hoặc đề nghị sửa chữa
những sai lầm đó. Mức độ chế ƣớc đƣợc thể hiện trong quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia
giải quyết vụ án hình sự.
3. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tố tụng đƣợc các quy phạm pháp luật tố tụng hình
sự điều chỉnh trong đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đƣợc
pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự có các đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà
nƣớc, phát sinh từ khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện hoặc tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Một trong
các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự luôn là cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan mật thiết với
quan hệ pháp luật hình sự. Khi một ngƣời thực hiện hành vi phạm
14


tội thì xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự giữa ngƣời đó với Nhà
nƣớc. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đƣợc xác lập để giải
quyết quan hệ pháp luật hình sự.
- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan chặt chẽ với các
hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng hình sự làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Việc phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt hoạt động tố tụng.
Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự bao gồm
khách thể, chủ thể và nội dung. Trong một quan hệ pháp luật nhất
định, việc thực hiện quyền chủ quan và nghĩa vụ pháp lí của
những ngƣời tham gia quan hệ bao giờ cũng nhằm đạt đƣợc mục
đích nhất định. Khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các
bên nhằm đạt đƣợc khi thiết lập với nhau một quan hệ pháp luật
cụ thể. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là việc
giải quyết đúng đắn vụ án.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự gồm: Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, ngƣời tham gia tố tụng cũng nhƣ cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quyền và
nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự quy định các chủ thể có tƣ cách
pháp lí khác nhau có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau.
4. Khái quát lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam
a. Giai đoạn trước năm 1945
Luật tố tụng hình sự nƣớc ta trải qua quá trình phát triển lâu dài,
nhiều sử liệu cho phép khẳng định sự tồn tại của luật tố tụng hình
15


sự trong chế độ phong kiến. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự với tƣ
cách là ngành luật độc lập nhƣ hiện nay thì chƣa có ở giai đoạn lịch
sử đó. Các quy định của luật tố tụng hình sự đƣợc ban hành lẫn
trong các quy định của luật hình sự, đất đai, hôn nhân và gia đình.
Các triều đại phong kiến nƣớc ta đã sử dụng triệt để luật tố
tụng hình sự để bảo vệ lợi ích của mình. Hình thƣ triều Lý, Quốc
triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ... đều chứa đựng các quy định
về tố tụng nhƣ: “Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu
xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng hay có thù oán thì không cho
phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng
thì bị ghép vào tội không nói đúng sự thực. Hình quan, ngục quan
biết điều đó mà dung túng việc đó đều bị tội”.(1)Hay khi lấy khẩu
cung ngƣời phạm tội, quan tra án phải xem xét kĩ, tìm ra sự thực
để cho ngƣời phạm tội phải nhận tội; không đƣợc hỏi quá rộng
tìm đến ngƣời ngoài để tìm chứng cứ bậy; nếu trái điều này thì xử
tội phạt. Ngoài ra, Quốc triều hình luật còn quy định về thủ tục
xét xử, thời hạn xét xử và thủ tục thi hành án. Điều 658 Quốc triều
hình luật quy định: “Những tù bị giam, kẻ nào đáng giam mà
không giam, đáng gông cùm mà không gông cùm; hay cho bỏ
cùm, nếu tù phạm tội biếm thì người coi tù bị phạt 60 trượng; nếu
kẻ phạm tội đồ trở lên thì sẽ xử tăng dần một bậc. Những tù phạm
không đáng giam mà giam, không đáng gông cùm mà gông cùm
thì người coi tù bị phạt 70 trượng”.

Trong Hoàng Việt luật lệ cũng chứa đựng các quy phạm luật
tố tụng hình sự. Điều này chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn cũng
coi trọng hình thức tổ chức kiện tụng, xét xử.
Trong thời kì thuộc địa, pháp luật nƣớc ta chịu sự ảnh hƣởng
của pháp luật phong kiến và pháp luật tƣ sản của Pháp. Chính vì
lẽ đó đã có sự phân định các ngành luật. Luật tố tụng hình sự đ(1).Xem: Điều 714 Quốc triều hình luật.

16


ƣợc pháp điển hoá và đƣợc thực hiện cho đến năm 1945. Ở Nam
kì, Bộ luật hình sự tố tụng của Pháp đƣợc áp dụng đối với những
vụ án mà bị can, bị cáo là ngƣời Pháp. Nếu bị can, bị cáo là ngƣời
Việt Nam thì toà án cũng áp dụng Bộ luật này đồng thời áp dụng
bổ sung một số quy định trong các sắc lệnh của Tổng thống
Pháp.(1) Tại Bắc kì trong thời kì này áp dụng Bộ luật hình sự tố
tụng đƣợc ban hành ngày 01/11/1918 và tại Trung kì áp dụng Bộ
luật hình sự tố tụng đƣợc ban hành vào năm 1935.(2)
b. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Luật tố tụng hình sự Việt Nam hình thành và phát triển gắn
liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trƣớc Cách mạng tháng Tám đã có những quy định về tố tụng
hình sự. Ví dụ: Chỉ thị ngày 16/4/1945 của Tổng bộ Việt Minh
quy định về lề lối làm việc của tiểu ban tƣ pháp và thẩm quyền xét
xử của các tiểu ban này. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công, để bảo đảm cho việc xử lí tội phạm đƣợc kịp thời, Nhà nƣớc
đã ban hành Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 quy định việc thành
lập toà án quân sự và đƣợc bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày
14/02/1946. Trong đó có quy định: "Toà án quân sự có thẩm
quyền xét xử các tội phạm phương hại đến nền độc lập của nước

Việt Nam dân chủ cộng hoà". Trong khi tiến hành xét xử, các toà
án quân sự đã quán triệt chính sách trấn áp kết hợp với khoan
hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục và cải tạo. Ban đầu, việc xét
xử những vụ án hình sự thƣờng do Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm.
Sau đó theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, các vụ án này do toà
án thƣờng xét xử với sự tham gia của phụ thẩm nhân dân. Sắc
lệnh số 85 ngày 22/5/1950 đổi tên toà án thƣờng thành toà án
nhân dân v.v..
(1).Xem: Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 463.
(2).Xem: TS. Trần Quang Tiệp, Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 48, 49.

17


Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ở miền Bắc việc
xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong đó có pháp
luật tố tụng hình sự đƣợc quan tâm. Quốc hội đã thông qua nhiều
đạo luật quan trọng về tự do dân chủ nhƣ Luật số 103
SL/L005ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền
bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thƣ tín của công dân. Năm
1958, Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao và
hệ thống các toà án địa phƣơng, Viện công tố trung ƣơng cùng hệ
thống viện công tố các cấp. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật
tổ chức toà án nhân dân năm 1960 và Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân năm 1960 đƣợc ban hành. Chế độ bầu cử thẩm phán
thay thế chế độ chính phủ bổ nhiệm thẩm phán.
c. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1988
Ở miền Nam sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 01

SL/76 ngày 15/3/1976 về tổ chức toà án nhân dân.
Khi Việt Nam thống nhất về mặt nhà nƣớc thì hệ thống toà án
nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trong cả nƣớc đƣợc tổ chức,
hoạt động theo Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ
chức toà án nhân dân ban hành năm 1960. Năm 1980, Quốc hội
thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980,
Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 1981 thay thế Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Các văn bản pháp luật
trên đã góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong việc
giải quyết vụ án hình sự.
d. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xoá bỏ cơ chế tập trung,
18


quan liêu, bao cấp, từng bƣớc hình thành nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lí
của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những
kết quả đã đạt đƣợc, thực tế cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp
trong quá trình tố tụng ảnh hƣởng đến việc điều tra, truy tố và xét
xử. Các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn hành
không thể hiện đƣợc toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Chính vì vậy, việc ban hành BLTTHS là vấn đề mang tính khách
quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lƣợc là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc.(1)

Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nƣớc ta từ
Cách mạng tháng Tám đến nay với tinh thần đổi mới trên mọi mặt
của đời sống xã hội, ngày 28/6/1988 tại kì họp thứ ba, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua
BLTTHS. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989.
Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, BLTTHS quy định trình tự, thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm xử lí công
minh, kịp thời tội phạm và ngƣời phạm tội.
Trên tinh thần lấy dân làm gốc, đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lí
kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội, BLTTHS năm 1988
đã đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều (lần thứ nhất)(2) tại kì họp
(1).Xem: Trần Quang Tiệp, Lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003, tr. 146.
(2). BLTTHS đã đƣợc bổ sung thêm ba điều mới là Điều 42a quy định về ngƣời
bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự; Điều 168a quy định về thời hạn hoãn phiên toà và
Điều 215a quy định về việc toà án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn và sửa đổi, bổ sung 35 điều trong tổng số 286 điều luật.

19


thứ bảy Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
VIII và thông qua vào ngày 30/6/1990. Với những sửa đổi lần
này, Bộ luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và
công dân trong tố tụng hình sự, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã
hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Sau một thời gian thi hành, căn cứ vào thực tiễn tố tụng trong
việc giải quyết vụ án hình sự và Hiến pháp năm 1992, để khắc
phục những vƣớng mắc và thiếu sót trong quy định của BLTTHS
đối với việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự,
Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX tại
kì họp thứ hai đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTHS (lần thứ hai) vào ngày 22/12/1992 cho phù hợp với tình
hình mới và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời phù hợp với
Hiến pháp năm 1992. (1)
Với sự ra đời của BLHS (đƣợc Quốc hội thông qua ngày
21/12/1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000), nhiều quy
định của BLTTHS hiện hành liên quan không còn phù hợp nữa.
Do vậy, ngày 09/6/2000 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTHS (lần thứ ba)(2) nhằm thi hành
(1). BLTTHS đã đƣợc bổ sung thêm ba điều mới là: Điều 143a quy định về việc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Điều 143b quy định về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án; Điều 160a quy định về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm và sửa đổi bổ sung 5 điều luật.
(2). BLTTHS đã đƣợc bổ sung thêm hai điều mới là Điều 10a quy định về trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và Điều 234a quy
định về thi hành hình phạt trục xuất. Bỏ các điều khoản sau: Các khoản 3, 4 Điều
145 quy định về thẩm quyền xét xử của toà án các cấp; Điều 160a quy định về
thành phần xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm; điểm a khoản 1 Điều 226 quy
định về những bản án và quyết định đƣợc thi hành. Sửa đổi, bổ sung 21 điều luật
và sửa đổi một số điều khoản của BLHS năm 1985 thành điều khoản tƣơng ứng
của BLHS năm 1999 đợc viện dẫn trong BLTTHS. Sau ba lần sửa đổi, BLTTHS
năm 1988 gồm 293 điều.

20



BLHS năm 1999 cũng nhƣ phù hợp với tiến trình dân chủ và đổi
mới của đất nƣớc. BLTTHS lần này chỉ tập trung vào một số
những quy định nhằm thực hiện BLHS năm 1999; giải quyết một
số vấn đề bức xúc cần khắc phục trong quá trình tố tụng nhằm
nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS lần này “dựa trên
nguyên tắc không hạn chế quyền của bị can, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, đồng thời bảo đảm hoạt động có
hiệu quả của các cơ quan bảo vệ pháp luật trước yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới”.(1)
Qua gần 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung,
BLTTHS năm 1988 là căn cứ pháp lí để cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và toà án tiến hành các hoạt động của mình một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ, góp phần bảo đảm việc phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nƣớc
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có cải cách tƣ pháp, BLTTHS
năm 1988 không còn phù hợp nữa và đã bộc lộ một số hạn chế
nhất định.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới
đã tạo sự thay đổi, chuyển biến lớn về hoạt động của các cơ quan
tƣ pháp nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nói riêng.
Cùng với sự đổi mới hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, đổi mới
hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án trong tố
tụng hình sự là một trong những nhân tố đột phá quan trọng thúc
đẩy quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(1). “Những nội dung chủ yếu của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

BLTTHS”, Tạp chí toà án nhân dân, số 7/2000, tr. 4.

21


Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
Các nghị quyết của Đảng đã đƣợc thể chế hoá thành những
quy định pháp luật nhƣ Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân,
Luật tổ chức toà án quân sự, BLTTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự... để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản
pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong
giai đoạn mới. Với tinh thần các nghị quyết của Đảng, BLTTHS
năm 2003 đƣợc Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tƣ thông qua
ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 đã đáp ứng đƣợc
yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ quan tƣ pháp theo hƣớng
tinh giảm bộ máy, thống nhất đầu mối, nâng cao chất lƣợng hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. BLTTHS năm 2003 có 8 phần, 37 chƣơng và 346
điều luật, trong đó giữ nguyên 25 điều luật của BLTTHS năm
1988; bổ sung 48 điều luật mới; sửa đổi, bổ sung 267 điều của
BLTTHS năm 1988 thành 273 điều, trong đó có 4 điều sửa đổi, bổ
sung về tiêu đề; bỏ 1 điều (Điều 257). Nhƣ vậy, so với BLTTHS
năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định thêm 1 phần, 5 chƣơng
và 49 điều luật. BLTTHS năm 2003 với những nội dung đƣợc sửa
đổi, bổ sung đã nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong tình hình mới; nêu cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan nhà
nƣớc đối với công dân, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân
đã đƣợc hiến pháp và pháp luật quy định; đề cao trách nhiệm và

xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và ngƣời tiến hành
tố tụng, xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham
gia tố tụng; các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đƣợc sửa đổi rõ
ràng, cụ thể, dễ hiểu, có tính khả thi hơn, tạo điều kiện cho những
ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và
trách nhiệm của mình. BLTTHS năm 2003 đƣợc bố cục nhƣ sau:

22


- Phần thứ nhất: Những quy định chung, gồm 7 chƣơng (từ
Điều 1 đến Điều 99) quy định về nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật
tố tụng hình sự; những nguyên tắc cơ bản; cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và việc thay đổi ngƣời tiến hành tố
tụng; ngƣời tham gia tố tụng; chứng cứ; những biện pháp ngăn
chặn; biên bản, thời hạn, án phí.
- Phần thứ hai: Khởi tố,điều tra vụ án hình sự và quyết định
việc truy tố gồm 8 chƣơng (từ Điều 100 đến Điều 169) quy định
về khởi tố vụ án hình sự; những quy định chung về điều tra; khởi
tố và hỏi cung bị can; lấy lời khai của ngƣời làm chứng, ngƣời bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hình sự, đối chất, nhận dạng; khám xét, thu
giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trƣờng, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra,
giám định; tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra; quyết định
việc truy tố.
- Phần thứ ba: Xét xử sơ thẩm gồm 7 chƣơng (từ Điều 170 đến
Điều 229) quy định về thẩm quyền của toà án các cấp; chuẩn bị
xét xử; quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên toà; thủ tục bắt
đầu phiên toà; thủ tục xét hỏi tại phiên toà; tranh luận tại phiên

toà; nghị án và tuyên án.
- Phần thứ tƣ: Xét xử phúc thẩm gồm 2 chƣơng (từ Điều 230
đến Điều 254) quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm và
quyền kháng cáo, kháng nghị; thủ tục xét xử phúc thẩm.
- Phần thứ năm: Thi hành bản án và quyết định của toà án gồm
5 chƣơng (từ Điều 255 đến Điều 271) quy định về những quy định
chung về thi hành bản án, quyết định của toà án; thi hành hình
phạt tử hình; thi hành hình phạt tù và các hình phạt khác; giảm
thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt; xoá án tích.
- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực
23


pháp luật gồm 2 chƣơng (từ Điều 272 đến Điều 300) quy định về
thủ tục giám đốc thẩm; thủ tục tái thẩm.
- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt gồm 4 chƣơng (từ Điều 301
đến Điều 339) quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa
thành niên; thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thủ tục
rút gọn; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế gồm 2 chƣơng (từ Điều 340
đến Điều 346) là những quy định chung về hợp tác quốc tế trong
tố tụng hình sự; dẫn độ, chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng
của vụ án.
Sau 12 năm thi hành, các quy định của BLTTHS đã tạo cơ sở
pháp lí cho các cơ quan và ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong việc giải quyết vụ án hình sự, góp phần hạn chế oan, sai.
Thực tiễn thi hành đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS
năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trƣờng ổn định

cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các quy
định của BLTTHS đã tạo cơ sở pháp lí hữu hiệu cho các cơ quan
tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt
tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời
tham gia tố tụng, đặc biệt là ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, ngƣời bào chữa, bảo đảm tính minh bạch, khách quan
trong tố tụng hình sự. Các vụ án cơ bản đƣợc giải quyết đúng
trình tự, thủ tục, thời hạn do BLTTHS quy định.(1) Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng, BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những
(1).Xem: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo số 11/BC-VKSTC Tổng kết 10
năm thi hành BLTTHS năm 2003, 2015.

24


vƣớng mắc, bất cập là: Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu và có những nội dung chƣa
phù hợp nên ảnh hƣởng đến chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan tố tụng; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là
những ngƣời trực tiếp giải quyết vụ án nhƣng chỉ đƣợc giao
những thẩm quyền rất hạn chế nên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến
chất lƣợng và tiến độ giải quyết vụ án; thiếu một số quyền quan
trọng bảo đảm cho ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
ngƣời bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; quy định về
căn cứ tạm giam còn định tính và chủ yếu dựa vào sự phân loại tội
phạm đang là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong
thực tiễn; quy định về một số biện pháp cƣỡng chế tố tụng còn
chƣa đầy đủ và cụ thể, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong

trƣờng hợp ngƣời tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; quy định về
chứng cứ còn nhiều bất cập, chƣa phù hợp với diễn biến tình hình
tội phạm, chƣa thể hiện đƣợc yêu cầu tranh tụng đã trở thành
nguyên tắc hiến định và chƣa theo kịp sự phát triển của khoa học
công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng
cứ truyền thống, chƣa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu
điện tử đƣợc thu thập từ mạng internet, từ các thiết bị điện tử; chế
định thời hạn tố tụng chƣa thật hợp lí, vẫn còn những hoạt động tố
tụng chƣa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài;
một số thời hạn quá chặt chẽ nên thiếu tính khả thi; Bộ luật hiện
hành mới chỉ quy định thủ tục áp dụng cho ngƣời chƣa thành niên
phạm tội, chƣa quy định thủ tục cho ngƣời chƣa thành niên là bị
hại, ngƣời làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ ngƣời làm
chứng và những ngƣời tham gia tố tụng khác; Căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến kháng nghị giám đốc thẩm còn nhiều nhƣ hiện nay và có nguy
cơ trở thành cấp xét xử thứ ba; thủ tục rút gọn, thủ tục đối với
ngƣời chƣa thành niên, khiếu nại, tố cáo, hợp tác quốc tế chƣa phù
hợp với thực tiễn, chƣa bảo đảm tính đặc thù; kĩ thuật trình bày
25


×