Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Công cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 70 trang )




Mục lục



LỜI MỞ ĐẦU





Trang
Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán



1.1. Quyền chọn chứng khoán 1
1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán 4
1.3. Thực hiện quyền chọn 4
1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn 7
1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn 7
1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 8
1.6.1 Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE) 8
1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) 18
Chương 2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và quyền chọn chứng
khoán




2.1 Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22
2.2 Sự bất ổn của thị trường chứng khoán 25
2.2.1 Quan sát chung toàn thị trường 25
2.2.2 Quan sát trên một số cổ phiếu cụ thể 27
2.3 Những bất cập còn tồn tại 29
2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 34
2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng 34
2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ 33

Chương 3 Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam


3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 39
3.1.1 Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán 39
3.1.2 Xây dựng cơ chế giao dịch 43
3.2 Đối với Công ty chứng khoán 44
3.2.1 Một số quy định cơ bản 44
3.2.2 Cách thức giao dịch và khớp lệnh 45
3.2.3 Định giá quyền chọn 47

Kết luận
54

Phụ lục và tài liệu tham khảo


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TTCK: Thị trường chứng khoán
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước

HOSE: Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
HASTC: Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
CP: cổ phiếu

MỤC LỤC HÌNH, BẢNG:
Trang
Hình 1.1.1: Quyền chọn mua cổ phiếu ..................................................................... 2
Hình 1.1.2: Quyền chọn bán cổ phiếu ...................................................................... 3
Hình 1.1.3: Đồ thị quyền chọn mua - quyền chọn bán ............................................. 3
Hình 1.3.1: Sơ đồ giao dịch quyền chọn .................................................................. 6
Hình 2.1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP 2000 - 2007 của Việt Nam ................................ 23
Hình 2.1.2: Tốc độ tăng trưởng tổng mức vốn hoá thị trường từ 2005 – 2007 .......... 23
Hình 2.1.3: Biểu đồ thể hiện số lượng thành viên tham gia nhập TTCK năm 2007 .. 24
Hình 2.1.4: Biểu đồ thể hiện sự gia tăng giá trị giao dịch tại hai sàn năm 2007 ........ 24
Hình 2.2.1.1: Biểu đồ VN-INDEX từ tháng 6/2006 đến tháng 3/2008 ..................... 28
Hình 2.2.2.1: Bảng thể hiện tỷ suất sinh lợi và mức độ dao động của cổ phiếu từ tháng
8/2004 đến tháng 3/2008 ......................................................................................... 28
Bảng 3.1.1.1: Các mã cổ phiếu có thể giao dịch quyền chọn .................................... 41
Hình 3.2.3.1: Cơ chế giao dịch trực tiếp .................................................................. 46
Hình 3.2.3.2: Cơ chế giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ............................. 47
Hình 3.2.4.1: Bảng tóm tắt các nguyên tắc định giá quyền chọn .............................. 49
Lời mở đầu


Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, một sự kiện được đánh
dấu là mở cửa trên đường hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO, ngày 28 tháng 7 năm 2000 với hồi chuông vang lên từ sở giao dịch
chứng khoán TP.HCM đã đánh dấu một bước ngoặc trong lịch sử với phiên giao dịch
chứng khoán đầu tiên đã được thực hiện. Khi bắt đầu chỉ có hai công ty niêm yết với
mã cổ phiếu là REE và SAM. Trải qua bao sóng gió trên thị trường và trên lộ trình cổ

phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân niêm yết cổ
phiếu trên sàn giao dịch cho đến thời điểm ngày 7 tháng 3 năm 2008 đã có hơn 145 cổ
phiếu niêm yết trên sàn.

Thị trường chứng khoán là huyết mạch của nền kinh tế đối với các nước phát triển trên
thế giới, ở Việt Nam thị trường cũng đi vào hoạt động được hơn 7 năm, nhưng thật sự
sôi động từ tháng 11 năm 2006. Thị trường vừa là kênh huy động vốn cho các doanh
nghiệp và cũng là nơi cho các nhà đầu tư mua bán giao dịch cổ phiếu. Trong thời gian
vừa qua với biểu hiện tình trạng bong bóng chứng khoán trên thị trường, sự hoan mang
của các nhà đầu tư trong nước khiến chỉ số VN-Index không ngừng biến động và các
chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước thật sự không dự báo được.

Hiện tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam các nhà đầu tư chỉ đầu cơ giá lên, khi
giá xuống tới mức nào đó thì bán để cắt lỗ. Thật sự chưa có công cụ bảo vệ các nhà đầu
tư. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài nghiên cứu mang tên “Công cụ phòng ngừa
cho thị trường chứng khoán Việt Nam”. Đề tài này em sẽ đi sâu tìm hiểu về thực trạng
thị trường chứng khoán Việt Nam để thấy được sự cần thiết ra đời sản phẩm phái sinh
mang tên quyền chọn cổ phiếu: vừa là công cụ phòng ngừa hữu hiệu, vừa là kênh đầu
tư mới cho nhà đầu tư. Có thể nói đây cũng là thời điểm chín mùi để quyền chọn cổ
phiếu ra đời không những đáp ứng nhu cầu đông đảo từ phía các nhà đầu tư mà quyền
chọn cổ phiếu còn có thể là công cụ bảo vệ, bình ổn thị trường từ đó có thể giúp thị
trường phát triển bền vững hơn.

Chương 1
Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán

1.1. Quyền chọn chứng khoán.
Khái niệm:
Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán – trong đó cho người
mua có quyền thực hiện hợp đồng nhưng không bắt buộc để mua hoặc bán một tài sản nào đó

vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay.
Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một khoản tiền gọi là phí quyền chọn.
Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo các điều khoản của hợp
đồng nếu người mua muốn thế.
Hợp đồng quyền chọn có hai loại: quyền chọn mua và quyền chọn bán.
Quyền chọn mua cổ phiếu
Hợp đồng quyền chọn mua là thỏa thuận cho phép người mua có quyền mua tài sản từ người
bán với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn hợp đồng.
Người mua quyền chọn mua sẽ trả cho người bán quyền chọn mua một khoản tiền, gọi là giá
trị quyền chọn hay phí quyền chọn và người mua quyền chọn mua sẽ có quyền được mua
nhưng không bắt buộc phải mua một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng
hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai
(theo kiểu châu Âu) hoặc được thực hiện trước ngày đó (theo kiểu Mỹ). Người bán quyền
chọn mua nhận được tiền từ người mua quyền chọn mua nên họ có trách nhiệm phải bán một
số lượng cổ phiếu nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định
trong tương lai hoặc được thực hiện trước ngày đó, khi người mua quyền chọn mua muốn thực
hiện quyền được mua.
Hình 1.1.1 Quyền chọn mua

Trên đồ thị ta cũng dễ dàng thấy được, khi mua quyền chọn mua cổ phiếu nếu giá thực hiện ở
80.000đ/cp và phí quyền chọn là 2000đ/cp, điểm hoà vốn khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng
lên 82.000đ/cp. Người mua quyền chọn có vùng lời không giới hạn và lỗ có giới hạn còn
người bán quyền chọn thì ngược lại. Ngoài ra người mua quyền chọn cũng có thể bán hợp
đồng quyền chọn của mình khi hợp đồng chưa đáo hạn đối với quyền chọn mua kiểu Mỹ.
Nhưng nếu giá cổ phần ABC không tăng lên theo dự đoán của bạn, nó giảm liên tục, cho tới
ngày đến hạn trên hợp đồng giá vẫn giảm thì bạn sẽ không thực hiện quyền chọn mua của
mình và bạn chỉ lỗ phí quyền chọn mà thôi.
Điểm hoà vốn quyền chọn mua = Giá thực hiện + Phí quyền chọn mua
82.000 đ = 80.000 đ + 2.000 đ
Quyền chọn bán cổ phiếu

Hợp đồng quyền chọn bán cổ phiếu: là thỏa thuận cho phép người bán bán một số lượng cổ
phiếu nhất định ghi trong hợp đồng cho người mua với giá đã thoả thuận trong tương lai vào
ngày đáo hạn hợp đồng hoặc trước ngày đáo hạn nhưng không bắt buộc thực hiện.
Trong giao dịch bán quyền chọn cũng có 2 bên tham gia: người mua quyền chọn bán và người
bán quyền chọn bán.
Hình 1.1.2 Quyền chọn bán

Người mua quyền chọn bán sẽ trả cho người bán quyền chọn bán một khoản tiền – phí quyền
chọn. Người bán quyền chọn bán nhận được tiền từ người mua, nên người bán sẽ có trách
nhiệm phải mua một cổ phiếu nhất định theo một mức giá đã được thỏa thuận trước vào một
ngày xác định trong tương lai hoặc được thực hiện trước ngày đó, khi người mua quyền chọn
bán muốn thực hiện cái quyền được bán của nó.


Hình 1.1.3

Ví dụ: giá cổ phần ABC là 80.000 đ, dự báo giá cổ phần ABC sẽ giảm trong thời gian tới. Vậy
để có lời, bạn sẽ vay cổ phiếu của người khác và bán nó đi. Sau đó nếu giá cổ phần giảm
80.000 đ, bạn sẽ mua lại để trả cho khoản vay cổ phiếu trước đó. Nhưng nếu thực tế giá trị cổ
phiếu ABC trên thị trường lên 100.000 đ/cp chẳng hạn, nếu bạn muốn an toàn, ít rủi ro và vẫn
thực hiện được dự báo của mình (cổ phiếu ABC giảm giá), bạn thử đầu tư vào quyền chọn
bán, cụ thể bạn mua quyền chọn bán cho cổ phần ABC với giá thoả thuận trước là 80.000
đ/cp, với mức phí là 2.000 đ cho 1 quyền chọn bán 1 cổ phiếu ABC, nếu đầu tư 1.000 cổ phiếu
thì phí quyền chọn bán là 2.000.000 đ. Nếu giá cổ phiếu ABC giảm theo đúng dự báo, giảm
xuống còn 50.000 đồng/cổ phiếu, thì bạn sẽ được quyền bán cổ phiếu ABC với giá thoả thuận
trước 80.000 đồng/cổ phiếu, so với giá thị trường bạn sẽ có chênh lệch là 30.000 đồng/cổ
phiếu, trừ phí mua quyền chọn bán 2.000 đồng/cổ phiếu, bạn sẽ có lợi ròng là 28.000 đồng/cổ
phiếu, 1.000 cổ phiếu thì bạn sẽ có lợi nhuận là 28 triệu đồng.
1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán.
Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn:

- Không ràng buộc nghĩa vụ đối với bên mua hợp đồng quyền chọn phải mua hay bán
một lượng cổ phiếu nhất định khi hợp đồng quyền chọn đến hạn.
- Người mua có thể thực hiện quyền hoặc bán quyền cho người khác hay không thực
hiện quyền. Để thực hiện quyền này, khi ký kết hợp đồng người mua phải trả phí quyền chọn,
giá trong hợp đồng gọi là giá thực hiện và ngày định trong hợp đồng là ngày đáo hạn. Tương
tự như vậy đối với người bán trong hợp đồng quyền chọn bán.
- Tùy theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào
trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn.
1.3. Thực hiện quyền chọn.
Đặt lệnh mở: Sau khi mở tài khoản ở công ty môi giới, khi tham gia giao dịch các nhà đầu tư.
Một cá nhân đặt lệnh quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở công ty môi giới. Sau đó
cá nhân này sẽ đặt lệnh thông qua người môi giới. Người môi giới gởi lệnh đến người môi giới
sàn giao dịch của công ty trên sàn giao dịch quyền chọn. Tất cả các lệnh phải được thực hiện
trong giờ giao dịch bình thường, trong trường hợp có thay đổi trung tâm giao dịch sẽ thông
báo.Các giao dịch được thực hiện tại các trạm giao dịch thiết kế cho các quyền chọn riêng biệt.
Một nhà giao dịch có thể đặt nhiều lệnh:
 Lệnh thị trường chỉ thị cho các nhà môi giới trên sàn giao dịch nhận giá tốt nhất.
 Lệnh giới hạn quy định cụ thể mức giá cao nhất có thể trả để mua hoặc mức giá thấp
nhất chấp nhận bán, các lệnh giới hạn có thể có giá trị cho đến khi bị huỷ hoặc có giá
trị trong ngày.
 Lệnh dừng ở mức giá thấp hơn mức giá hiện tại.
 Lệnh tất cả hoặc không cho phép người môi giới thực hiện một phần lệnh giá này, và
phần còn lại với giá khác.
 Lệnh tất cả hoặc không, cùng giá yêu cầu người môi giới hoặc là thực hiện toàn bộ
lệnh với cùng một mức giá hoặc là không thực hiện lệnh.
Vai trò của trung tâm thanh toán: Sau khi các giao dịch được thực hiện. Trung tâm thanh toán
(Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn OCC) là một công ty độc lập đảm bảo cho việc thực
hiện của người bán. OCC là trung gian cho mỗi giao dịch. Người mua thực hiện giao dịch
không hướng vào người bán mà hướng vào OCC vì vậy OCC thực hiện một trách nhiệm quan
trọng là bảo đảm cho việc thực hiện của người bán quyền. Người mua không cần biết đến hay

nhận dạng của người bán.
Vì là công ty thanh toán thành viên nhận lấy một số rủi ro, OCC áp đặt một yêu cầu vốn tối
thiểu cho công ty này. OCC có quyền đối với thành viên thanh toán về tài khoản ký quỹ của
họ trong trường hợp họ không thể chi trả. Để nâng tính bảo vệ hơn, OCC duy trì một mức ký
quỹ đặc biệt được hỗ trợ bởi các thành viên. Nếu quỹ bị kiệt quệ, OCC có thể đánh giá chất
lượng của các thành viên khác để đảm bảo sự tồn tại của mình cũng như thị trường quyền
chọn nói chung.
Dĩ nhiên trên OTC không có trung tâm thanh toán nên người mua nhạy cảm với rủi ro tín dụng
từ phía người bán.
Đặt lệnh bù trừ: Giả định một nhà đầu tư đang nắm giữ một quyền chọn. Giá cổ phiếu hiện
nay đang tăng, và giá của quyền chọn hiện nay đã cao hơn nhiều so với giá mua lúc đầu. Tính
thanh khoản của thị trường quyền chọn cho phép các nhà đầu tư kiếm lời bằng cách bán quyền
chọn trên thị trường. Lệnh này được thực hiện giống lệnh mở.
Thực hiện một quyền chọn: Một quyền chọn kiểu Mỹ có thể được thực hiện vào bất kỳ ngày
nào cho đến ngày đáo hạn. Quyền chọn kiểu Châu âu chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo
hạn.
Vào ngày đáo hạn, nếu bạn cho rằng giá cổ phiếu thấp hơn giá thực hiện, hoặc đối với quyền
chọn bán, giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện, bạn để cho quyền chọn hết hiệu lực bằng cách
không làm gì cả.
Hình 1.3.1 Sơ đồ giao dịch quyền chọn

(1a) (1b) Người mua và người bán chỉ thị cho người môi giới riêng của mình tiến hành một
giao dịch quyền chọn.
(2a) (2b) Người môi giới của người mua và người bán yêu cầu nhà môi giới trên sàn của công
ty mình thực hiện giao dịch.
(3) Các nhà môi giới trên sàn gặp gỡ trên sàn giao dịch quyền chọn và thống nhất giá cả.
(4) Thông tin về giao dịch được báo cáo cho trung tâm thanh toán bù trừ.
(5a) (5b) Nhà môi giới trên sàn thông báo giá cho người môi giới của người mua và người
bán.
(6a) (6b) Người môi giới của người bán và người mua thông báo giá về cho người bán và

người mua.
(7a) (7b) Người mua (người bán) ký gửi phiếu quyền chọn cho người môi giới.
(8a) (8b) Người môi giới của người mua và người bán ký gửi phí quyền chọn và tiền ký quỹ
cho công ty thanh toán của mình.
(9a) (9b) Công ty thanh toán của người môi giới của bên mua và bên bán ký gửi phí quyền
chọn và tiền quỹ cho trung tâm thanh toán bù trừ.
1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn.
Nhà tạo lập thị trường: Vai trò của nhà tạo lập thị trường trên sàn giao dịch là đảm bảo cho các
lệnh mua bán của các nhà đầu tư công chúng luôn luôn được khớp lệnh, khi các nhà đầu tư
mua hay bán quyền chọn mà không có nhà đầu tư khác bán hay mua quyền chọn thì nhà tạo
lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó.
Nhà tạo lập thị trường về bản chất là một doanh nghiệp, các nhà tạo lập thị trường sử dụng đa
dạng các biện pháp kỹ thuật để giao dịch quyền chọn một cách thông minh và để có lợi nhuận.
Môi giới sàn giao dịch: thực hiện giao dịch cho các thành viên công chúng có thể nhận được
một mức lương thuần hoặc nhận hoa hồng trên mỗi lệnh thực hiện được. Nhà môi giới trên sàn
không quan tâm đến việc giá tăng hay giảm. Tuy nhiên một nhà môi giới sẽ làm việc mẫn cán
để đạt được một kết quả tốt nhất cho khách hàng.
Nhân viên giữ sổ lệnh (OBO): đảm bảo cho lệnh giới hạn của công chúng luôn luôn được thực
hiện trước lệnh của các nhà tạo lập thị trường.
Các hệ thống giao dịch quyền chọn: Các sàn giao dịch đã đưa các tiện ích của công nghệ hiện
đại vào hoạt động xử lý lệnh của họ, sử dụng nhiều phương tiện điện tử để đẩy nhanh tốc độ
thực hiện lệnh. Ví dụ hầu hết các nhà kinh doanh của CBOE hiện nay đều sử dụng thiết bị đầu
cuối cầm tay thay vì cấp thẻ viết tay hoặc các mảnh giấy để gửi theo dõi các giao dịch của
mình.
Những nhà kinh doanh quyền chọn trên sàn: Các tổ chức lớn như quỹ hưu bổng, quỹ uỷ thác,
quỹ hỗ tương, số lượng các tổ chức nước ngoài giao dịch quyền chọn cũng tăng lên. Ngoài ra
còn có nhiều nhà đầu tư có tổ chức lớn, dĩ nhiên là nhiều cá nhân – giàu có hoặc không – mua
bán quyền chọn. Số tiền tham gia giao dịch quyền chọn trên sàn khá nhỏ nên hầu hết bất cứ ai
cũng có thể tham gia.
1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn.

Phí giao dịch trên sàn và phí thanh toán: là khoản phí tối thiểu do sàn giao dịch ấn định, chi
phí này trả cho trung tâm thanh toán và các thành viên xử lý các giao dịch trên sàn. Đối với
những nhà kinh doanh thông qua môi giới, các phí này được tính gộp trong hoa hồng của
người môi giới. Đối với người tạo lập thị trường thì các khoản này do công ty thanh toán của
nhà tạo lập thị trường thu.
Công ty thanh toán ký kết một thoả thuận theo hợp đồng với một nhà tạo lập thị trường để
thanh toán giao dịch với mức phí thường được tính trên cơ sở từng hợp đồng.
Trên thực tế tại các sàn giao dịch thì các nhà tạo lập thị trường đều phải tốn chi phí nhất định
cho mỗi giao dịch, chi phí này còn tuỳ thuộc vào khối lượng giao dịch. Ngoài ra nhà tạo lập
thị trường còn phải gánh chịu một số chi phí cố định.
Đối với quyền chọn trên thị trường OTC, không phải gánh chịu các dạng chi phí này, nhưng
có những khoản chi phí tương đương. Liên quan đến hoạt động giao dịch của công ty và liên
quan đến việc xử lý các giao dịch được thiết lập theo yêu cầu của khách hàng.
Hoa hồng: Một trong những lợi thế chính của việc sỡ hữu seat trên sàn giao dịch là tránh được
việc phải trả hoa hồng cho mỗi giao dịch. Nhà tạo lập thị trường chỉ gián tiếp thông qua chi
phí cơ hội của các khoản tiền liên quan đến giá của seat, công sức thực hiện giao dịch, bỏ qua
các lợi nhuận có thể thu được theo một kênh khác. Tuy nhiên khoản hoa hồng tiết kiệm được
thì rất đáng kể.
Các nhà môi giới chiết khấu thu tỷ lệ hoa hồng thấp nhất nhưng các giao dịch thường xuyên và
các giao dịch lớn đôi khi cần phải tận dụng lợi thế về giá. Các công ty môi giới chiết khấu cho
bạn những lời khuyên và không cung cấp các nghiên cứu như các nhà môi giới trọn gói. Mặc
dù vậy, nhà môi giới trọn gói sẻ cho bạn nhiều thông tin một cách đầy đủ hơn.
Hoa hồng quyền chọn dựa trên một khoảng giá trị cố định tối thiểu và một khoảng phí trên
mỗi hợp đồng.
Khi thực hiện quyền chọn cổ phiếu, nhà đầu tư phải trả hoa đồng cho việc mua bán cổ phiếu.
Nếu một nhà đầu tư thực hiện một quyền chọn thanh toán bằng tiền, giao dịch này chỉ kéo
theo một bút toán kế toán. Một công ty môi giới không thực hiện việc tính phí thanh toán
quyền chọn bằng tiền. Khi bất kỳ quyền chọn nào hết hiệu lực mà không được thực hiện
thường thì công ty môi giới không tính hoa hồng.
Đối với quyền chọn OTC thường không cần trả hoa hồng, vì người mua và người bán quyền

chọn thường giao dịch trực tiếp với đối tác.
Chênh lệch giá mua bán: Mức chênh lệch do nhà tạo lập thị trường đưa ra là một khoản phí
giao dịch đáng kể. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nhà đầu tư có thể kiếm lời. Giá
quyền chọn mua có thể tăng giá đáng kể trước khi quyền chọn được bán đi, nhưng nếu khoản
chênh lệch không đổi, giá hỏi mua phải tăng lên ít nhất bằng khoản chênh lệch giá mua – bán
rồi mới có thể kiếm được lợi nhuận.
Các chi phí giao dịch khác: Ngoài ra không có các chi phí như: tiền ký quỹ và thuế. Hầu hết
các nhà kinh doanh quyền chọn đều giao dịch cổ phiếu. Vì vậy chi phí giao dịch cổ phiếu cũng
là nhân tố ảnh hưởng chi phí giao dịch quyền chọn.
Yêu cầu ký quỹ đối với quyền chọn cổ phiếu: Khoản ký quỹ ban đầu thấp nhất đối với mua và
bán khống cổ phiếu là 50%. Mức ký quỹ duy trì thấp nhất là 25%. Nhiều công ty môi giới
cộng thêm khoản 5% hay hơn nữa với các mức yêu cầu này.
1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới
1.6.1. Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE).
Thông tin về thị trường Quyền chọn
Trong thập niên 80 thị trường quyền chọn đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng
future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường CBOE trao đổi quyền chọn chỉ số chứng khoán của S &
P 100 và S & P 500. Thị trường chứng khoán Mỹ giao dịch quyền chọn về chỉ số chứng khoán
của một số thị trường chính, và thị trường chứng khoán New York giao dịch chỉ số NYSE.
Hầu hết các thị trường đều giao dịch quyền chọn đối với những hợp đồng future. Thị trường
CBOE giao dịch quyền chọn đối với hợp đồng tương lai về các sản phẩm nông nghiệp. Hiện
nay thị trường quyền chọn tồn tại khắp nơi trên thế giới.
Từ khi ra đời, thị trường quyền chọn của Mỹ, đặc biệt là sàn giao dịch quyền chọn CBOE phát
triển mạnh. Theo những tiêu chuẩn của sàn CBOE, một hợp đồng quyền chọn được xác định
rõ bởi 6 phần : loại quyền chọn, cổ phiếu hoặc tài sản gốc, số lượng hợp đồng, cách thức thực
hiện hợp đồng, giá thực hiện và ngày đáo hạn. Tiêu chuẩn của những phần này như sau:
 Tiêu chuẩn của cổ phiếu được giao dịch quyền chọn
Những cổ phiếu được chọn ra từ sàn giao dịch làm cơ sở cho quyền chọn phải chắc chắn tuân
theo những tiêu chuẩn:
- Giá của cổ phiếu cơ sở phải thấp nhất là $7.50 trong 1 thời kỳ 3 tháng niêm yết.

- Cổ phiếu cơ sở phải có ít nhất 2000 cổ đông
- Tổng giá trị giao dịch của cổ phiếu cơ sở phải ít nhất là 2.4 triệu trong suốt 12 tháng
niêm yết.
- Cổ phiếu cơ sở cần phải có ít nhất 7 triệu cổ phiếu đang lưu hành được nắm giữ bởi
những nhà đầu tư không phải là thành viên của công ty.
 Đơn vị hợp đồng
Một hợp đồng là số lượng cổ phiếu cơ sở mà người nắm giữ quyền chọn được quyền mua hay
bán tại mức giá thực hiện lúc đáo hạn. Ở thị trường quyền chọn của Mỹ, tiêu chuẩn của một
hợp đồng là một số chẵn cổ phiếu cơ sở thường là 100 cổ phiếu. Tuy nhiên, một hợp đồng có
thể tăng thêm nếu cổ phiếu cơ sở bị chia tách không chẵn trong suốt thời kỳ tồn tại quyền
chọn. Ví dụ: nếu cổ phiếu cơ sở được chia tách với tỷ lệ 3/2. Trong trường hợp đó hợp đồng
quyền chọn sẽ tăng thêm lên 3x100:2=150 cổ phiếu, số lượng hợp đồng vẫn như cũ không
thay đổi, giá cổ phiếu và giá của thực hiện sẽ giảm đi 2/3.
 Giá thực hiện
Giá thực hiện được cố định là 2½ điểm nếu giá của cổ phiếu cơ sở thấp hơn $25, và 5 điểm
nếu giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ $25 đến $200 và 10 điểm cho những cổ phiếu có giá từ
$200 trở lên. Những quyền chọn mới được thiết lập với giá thực hiện gần bằng với giá của cổ
phiếu hiện tại và cùng thời gian trên. Ví dụ như, nếu cổ phiếu đang được giao dịch với giá 51
¾, thì những quyền chọn có giá 45, 50 và 55 được niêm yết vào lúc đầu. Những danh sách
mới sẽ được thêm vào khi cổ phiếu giao dịch qua giá thực hiện cao nhất hoặc thấp nhất.
 Tháng đáo hạn
Cổ phiếu làm cơ sở cho những quyền chọn đầu tiên được quy vào tháng 1, tháng 2 hoặc tháng
3 trong chu kỳ 4 tháng. Khi đó hợp đồng quyền chọn với thời hạn đáo hạn là 4 tháng được
niêm yết vào bất kì lúc nào. Tháng đáo hạn sẽ là 2 tháng liên tục gần nhất và 2 tháng kế tiếp
trong chu kỳ 4 tháng. Ví dụ như nếu hợp đồng quyền chọn hết hiệu lực vào tháng 1 thì chu kỳ
4 tháng sẽ là cột bên trái, tháng mở hợp đồng sẽ ở cột bên phải của bảng dưới.
Chu kỳ 4 tháng Hợp đồng mở
Tháng 1, tháng 4, tháng 7, tháng 10
Tháng 2, tháng 5, tháng 8, tháng 11
Tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12

Tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 7
Tháng 2, tháng 3, tháng 5, tháng 8
Tháng 2, tháng 3, tháng 6, tháng 9
Ngày đáo hạn thường là ngày thứ bảy sau ngày thứ 6 của tháng đáo hạn cho quyền chọn cổ
phiếu và quyền chọn chỉ số được niêm yết trên thị trường Mỹ. Ngày cuối cùng trên hợp đồng
có thể được giao dịch vào ngày làm việc ngay trước ngày đáo hạn (thường là ngày thứ 6 của
tháng có ngày đáo hạn).
Những điểm lưu ý khi tham gia trên sàn CBOE
Một phần quan trọng trên thị trường quyền chọn đó là nhà tạo lập thị trường. Cấu trúc và
những cơ quan riêng biệt của thị trường quyền chọn cổ phiếu của Mỹ phát thảo những mục
sau:
 Đặt lệnh
Có hai loại lệnh mua và bán là lệnh thị trường (market order) và lệnh giới hạn (limit order).
Lệnh thị trường là một cấu trúc mua hay bán tại mức giá tốt nhất ngay khi lệnh tới sàn giao
dịch. Lệnh giới hạn là cấu trúc mua hay bán chỉ tại mức giá đã định trước hoặc tốt hơn. Lệnh
giới hạn là được định rõ là lệnh trong ngày đặt lệnh hay GTC. Lệnh trong ngày tự động hết
hiệu lực vào cuối ngày giao dịch nếu như nó không được khớp. Một lệnh GTC vẫn có tác
dụng cho đến khi nó được thực hiện, huỷ bỏ bởi khách hàng hay quyền chọn hết hiệu lực.
Lệnh spread là lệnh mua hoặc bán đồng thời hai quyền chọn như là một sự kết hợp. Giao dịch
mở là một cách để tăng số lượng quyền chọn mua hay bán trong một tài khoản. Giao dịch
đóng bù lại những giao dịch ưu tiên và bao gồm quyền chọn bán để làm giảm bớt số lượng
hợp đồng trong một vị thế bán hiện tại hoặc là người mua quyền chọn để giảm bớt số lượng
hợp đồng trong vị thế bán hiện tại.
 Giới hạn vị thế
Trung tâm giao dịch sẽ quy định tổng số lượng quyền chọn lớn nhất đối với một cổ phiếu cơ
sở mà một cá nhân riêng lẽ có thể mua hoặc bán. Giới hạn này tương ứng với số lượng cổ
phiếu đang lưu hành và lượng giao dịch của cổ phiếu đó trong 6 tháng trước và hiện tại là
25000, 20000, 10500, 7500, 4500 hợp đồng. Giới hạn này áp dụng cho bất kỳ hợp đồng kết
hợp nào mà được lập trên cùng một thị trường.
Giới hạn vị thế thường là số lượng hợp đồng lớn nhất trên cùng một thị trường mà có thể đáo

hạn trong 5 ngày làm việc liên tiếp.
 Giao dịch và đáo hạn
Khách hàng sẽ chỉ rõ thông số yêu cầu như trên đã nói và người môi giới sẽ chuyển lệnh bằng
điện thoại hay máy tính đến trung tâm viễn thông trên sàn giao dịch nơi mà quyền chọn được
giao dịch. Từ nơi đó, lệnh sẽ chuyển tới môi giới sàn của công ty. Nếu công ty môi giới không
thuê những môi giới sàn, thì sau đó lệnh sẽ đưa tới một người độc lập hay một môi giới sàn
của công ty khác.
Môi giới sàn là thành viên của sàn giao dịch hay nói cách khác là người ngồi ở sàn giao dịch
nghĩa là họ được cho phép có 1 vị trí trong sàn và được phép giao dịch với những thành viên
khác. Môi giới sàn không được phép mua hay bán trên tài khoản của họ mà chỉ có thể thực
hiện các lệnh của khách hàng.
Nhà tạo lập thị trường là một thành viên của sàn giao dịch, là người được yêu cầu duy trì kiểm
kê chính xác những quyền chọn còn tồn đọng để mua và bán những tồn đọng đó. Thông
thường có nhiều nhà tạo lập trong cùng một thị trường. Nhà tạo lập thị trường được yêu cầu
định ra giá chào mua, giá cao nhất mà họ sẽ mua và giá chào bán là giá thấp nhất mà họ sẽ
bán. Tuy nhiên, môi giới sàn không được tiết lộ đó là lệnh mua hay lệnh bán. Hệ thống đấu giá
công khai qua có thể đấu giá một cách nhanh chóng và sẽ tìm ra giá hiệu quả, chắc chắn rằng
nhiều lệnh có thể khớp tại cùng 1một giá và đưa đến một yêu cầu thanh toán tiền mặt.
Người thứ 3 của trung tâm giao dịch quyền chọn đó là nhân viên giữ sổ lệnh. Nếu một môi
giới sàn cố gắng đáp ứng một lệnh giới hạn mua ở mức $10, nhưng hiện tại giá chào bán hiện
tại của nhà tạo lập thị trường là $11, thì lệnh đó không được thực hiện. Lệnh giới hạn khi đó sẽ
được chuyển tới nhân viên giữ sổ lệnh. Nhân viên giữ sổ lệnh nhập lệnh giới hạn vào máy
tính, nó có thể được theo dõi bởi những thành viên khác trong sàn giao dịch. Lệnh sau đó được
thực hiện khi mà giá giới hạn được định bởi nhà tạo lập thị trường. Giá của những quyền chọn
được xác định và giao dịch trên sàn cần phải đầy đủ những giá trị phức tạp nhỏ nhất được quy
định tại sàn giao dịch.
Cơ cấu hệ thống này chỉ có tại CBOE. Trung tâm giao dịch quyền chọn Hoa Kỳ (AMEX) và
trung tâm giao dịch quyền chọn Philadelphia (PHLX) sử dụng hệ thống nhỏ hơn. Tại những
sàn giao dịch đó, những chuyên gia sẽ đảm nhận cả 2 vai trò là nhà tạo lập thị trường và nhân
viên giữ sổ lệnh. Với vai trò là nhà tạo lập thị trường, họ thực hiện hoạt động điều phối bằng

cách duy trì thống kê và giao dịch với những tài khoản họ sở hữu. Với vai trò là nhân viên giữ
sổ lệnh, họ thực hiện nhiệm vụ của người môi giới bằng cách chấp nhận và thực hiện những
lệnh giới hạn của khách hàng. Tuy nhiên, không giống như nhân viên giữ sổ lệnh tại CBOE,
chuyên gia không bị bắt buộc công bố lệnh giới hạn đến những thành viên khác. Một đặc điểm
khác của hệ thống những nhà chuyên biệt là sự có mặt của những người giao dịch tài sản khác,
họ tự giao dịch cho chính họ và cố gắng để thu được lợi nhuận từ việc mua hay bán quyền
chọn. Một số sàn quyền chọn chính trên thế giới như là Amsterdam Options Exchange (AEX
Options) and the Australian Stock Exchange, Derivatives (ASXD), cũng có hệ thống giao dịch
và đấu giá như nhau.
Tuy nhiên, những sàn giao dịch lớn khác như là Swiss Options & Financial Futures Exchange
(SOFFEX), Deutsche Terminborse (DTB), OM Stockholm, và Marche des Options
Negociables de Paris (MONEP), sử dụng hệ thống bảng điện tử. Hệ thống điện tử thay thế cho
đấu giá công khai trong sàn giao dịch với hệ thống đặt lệnh, gởi lệnh từ xa, và khớp lệnh. Hệ
thống giao dịch điện tử rẻ hơn so với đấu giá công khai bởi vì hệ thống này không cần có một
toà nhà rộng để đặt sàn giao dịch và cần ít nhân viên hơn. Những sàn giao dịch phái sinh mới
hầu như sử dụng hệ thống này vì chúng cung cấp hiệu quả và năng suất để bắt đầu hoạt động.
Sàn giao dịch Mỹ được dự đoán trong tương lai có khả năng tiếp tục với phương thức đấu giá
mở, và sẽ tiếp tục phát triển những sản phẩm phái sinh.
 Thanh toán, trả tiền, và trung tâm thanh toán bù trừ (OCC)
Trung tâm thanh toán bù trừ cung cấp yêu cầu khả năng thanh toán tiền mặt cho hoạt động trên
thị trường thứ cấp bởi vì người mua hay người bán đều mong muốn quyền chọn của mình
được giao dịch đầu tiên.
Như là một thành viên đối lập trong mỗi giao dịch, trung tâm thanh toán bù trừ bảo đảm mối
quan hệ của tất cả các hợp đồng và theo cách đó chuyển dịch rủi ro của người tham gia vào thị
trường cho trung tâm thanh toán bù trừ.
Trung tâm thanh toán bù trừ phục vụ riêng cho thị trường quyền chọn cổ phiếu của Mỹ là
Option Clearing Corporation (OCC). OCC là một công ty được sở hữu như nhau bỡi 4 trung
tâm giao dịch quyền chọn cổ phiếu lớn nhất: AMEX, CBOE, PHLX, và Pacific Stock
Exchange (PCX).
Sau một giao dịch được thực hiện trên sàn giao dịch, điều kiện thoả thuận của giao dịch phải

được chuyển tới OCC, và giao dịch cần phải trả bằng tiền mặt. Người mua và người bán sẽ
xác nhận trước nhất với công ty môi giới. Nếu công ty môi giới là công ty thanh toán thì sau
đó báo cáo chi tiết giao dịch sẽ được chuyển trực tiếp đến OCC. Công ty thanh toán bù trừ
quyền chọn là môi giới/điều phối hay công ty chứng khoán mà phải là thành viên của OCC.
Để trở thành thành viên của OCC, công ty đó cần phải là thành viên của một sàn giao dịch nào
đó thuộc quản lý của OCC. Thêm vào đó, công ty cần phải thỏa mãn những điều lệ về mức
vốn thấp nhất và cần phải đặt cọc tại quỹ thanh toán để có thể đảm bảo khả năng tài chính của
bất kỳ quyền chọn nào được phát hành bởi OCC. Chỉ có những công ty thanh toán mới có thể
đệ trình những giao dịch đến trung tâm thanh toán cuối cùng OCC. Nhận được chi tiết của
giao dịch, trung tâm OCC so sánh với dữ liệu từ cả hai bên giao dịch, và nếu thông tin khớp
với nhau thì sau đó giao dịch trở thành chuyển giao. Trung tâm OCC trở thành cả người mua
và người bán và bất kỳ liên kết trực tiếp giữa người mua và người bán đều bị huỷ bỏ
Thành viên thanh toán bù trừ giải quyết những giao dịch tiền mặt trong những ngày tiếp theo,
và quyền chọn được phát hành cùng một ngày. Thủ tục này cũng cho phép người mua hay
người bán dễ dàng từ bỏ vị thế của mình vào bất kỳ lúc nào mà không cần phải giao dịch với
đối tác. Một người sở hữu quyền chọn chỉ cần viết hợp đồng tương tự cho bất kỳ ai sẳn lòng
mua và khi thanh toán giao dịch, số tiền bù trừ sẽ được nhập vào trong tài khoản của khách
hàng ở OCC và ngay cả khi giao dịch bị huỷ bỏ.
 Thực hiện và chuyển nhượng
Tất cả các cổ phiếu niêm yết trên thị trường Mỹ thì thanh toán theo kiểu Mỹ, vì vậy quyền
chọn có thể thực hiện bất kì ngày làm việc nào trước khi đến ngày đáo hạn. Chỉ có người sở
hữu quyền chọn mới có quyền thực hiện hợp đồng. Theo đó, người bán quyền chọn phải xác
định rõ nghĩa vụ trong tất cả những điều khoản hợp đồng. Chính quy định đó yêu cầu giao cổ
phiếu trong trường hợp của mua quyền chọn và thanh toán tại mức giá thực hiện đối với bán
quyền chọn.
Người thực hiện sau đó trở thành bị ép buộc phải trả tiền tại mức giá thực hiện của những
quyền chọn mua dài hạn cho lượng cổ phiếu giao, hoặc giao trả cổ phiếu cho quyền chọn bán
dài hạn.
Nhà đầu tư mong muốn thực hiện quyền chọn thì trước hết phải khai báo với người môi giới ý
định của mình. Thành viên thanh toán sau đó sẽ chuyển một lưu ý giá thực hiện đến OCC

trong khoảng thời gian từ 10giờ sáng đến 8 giờ tối.
Khi trung tâm OCC chấp nhận thông báo thực hiện, quyền chọn chỉ định ngẫu nhiên một hoặc
nhiều thành viên thanh toán có cùng vị thế quyền chọn. Thành viên được chỉ định sẽ nhận
được thông báo vào ngày làm việc đầu tiên sau khi trung tâm OCC nhận được thông báo thực
hiện. thành viên thanh toán ấn định một quyền chọn trong số những quyền chọn ngắn hạn.
 Phí hoa hồng và phí giao dịch.
Nhân viên môi giới quyền chọn sẽ tính phí hoa hồng cho những dịch vụ như là thực hiện lệnh
của khách hàng, quản lý tài khoản của khách hàng, cung cấp báo cáo giao dịch và tư vấn.
Khách hàng trả phí hoa hồng khi:
o Quyền chọn được mua hay bán để xác minh vị thế của quyền chọn
o Quyền chọn được mua hay bán để đóng vị thế hiện tại.
o Quyền chọn đáo hạn. Một quyền chọn mua hay bán đáo hạn cần phải trả phí
hoa hồng trên cổ phiếu được mua hay bán tại mức giá thực hiện. Tương tư vậy, người bán
quyền chọn mua hay quyền chọn bán cần phải trả phí hoa hồng cho cổ phiếu mua hay bán vào
mức giá thực hiện.
Không cộng thêm phí hoa hồng vào số tiền phải trả nếu quyền chọn được thực hiện. Phí hoa
hồng mà nhà đầu tư trả cho người môi giới cho giao dịch quyền chọn là khoảng từ $1 đến
$3/hợp đồng, nhưng cũng có thể thương lượng và thay đổi tuỳ người môi giới. Điều này phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và người môi giới và phụ thuộc và kích cở của giao
dịch, tỷ lệ phần trăm chi phí sẽ giảm khi giá trị của hợp đồng tăng. Những nhà đầu tư nhỏ,
giao dịch thông qua tài khoản của người môi giới luôn trả phí hoa hồng thấp hơn khi tổng giá
trị giao dịch tăng lên nhưng việc bán lẻ thường không thể thương lượng được. Điển hình là,
phí trả cho 1 hợp đồng lẻ là $25, $8 cho 10 hợp đồng lẻ, $5 cho 20 hợp đồng lẻ hoặc hơn.
Chi phí giao dịch khác là mức chênh lệch giá đặt mua bán. Nhà tạo lập thị trường và những
chuyên gia trên sàn giao dịch quyền chọn được yêu cầu mua bán quyền chọn từ chính những
nhà đầu tư của họ. Để bù đắp cho rủi ro mà họ nhận được khi thực hiện dịch vụ này, họ mua
tại giá thấp hơn mức giá mà họ bán, điều này được gọi là mức chênh lệch giá đặt mua bán.
Chênh lệch lớn nhất cho phép được thiết lập bởi sàn giao dịch và phụ thuộc vào giá quyền
chọn theo biểu sau:
Giá quyền chọn Chênh lệch lớn nhất

Nhỏ hơn $0,05 4-Jan
Từ $0,05 đến $10 2-Jan
Từ $10 đến $20 4-Mar
Từ $20 trở lên 1
Thực tế thì khoảng chênh lệch thật sự mà khách hàng trả thường thấp hơn giới hạn đó bởi vì
sự cạnh tranh giữa những nhà tạo lập thị trường. Mức chênh lệch thường do cung cầu và việc
tăng lên kích cở giao dịch khi nhu cầu thực hiện ngay tăng lên. Thông thường nhu cầu giảm và
khoảng chênh lệch tăng lên khi thời gian đáo hạn tăng lên và khi quyền chọn trở nên có lời.
Nhà đầu tư dùng quyền chọn như một cổ phiếu thay thế hay để cô đọng danh mục chứng
khoán hiện thời để có thể gánh chịu cùng chi phi giao dịch như nhà đầu tư nắm giữ vị thế
tương đương.
 Ký quỹ
Khi những cổ phiếu được mua bảo chứng, người mua phải đặt cọc ít nhất 50% giá trị mua vào
tài khoản ký quỹ và vay của người môi giới. Khi cổ phiếu được bán thấp giá, người bán đặt
cọc ít nhất 50% giá bán cộng toàn bộ số tiền thu được do bán cổ phiếu vào trong tài khoản. Ký
quỹ cho giao dịch cổ phiếu là một khoảng tiền mặt ít hơn 50% giá trị của cổ phiếu cộng với
khoản vay.
Ký quỹ cho giao dịch quyền chọn bằng tiền mặt hoặc tương đương tiền, người bán quyền chọn
phải trả trước cho người môi giới khi lượng ký quỹ đảm bảo rằng họ thực hiện nghĩa vụ cam
kết giao cổ phiếu hay tiền mặt nếu quyền chọn được ấn định.
Ký quỹ trong thị trường quyền chọn sau đó là một giao kèo thực hiện để bảo vệ các công ty
môi giới và thành viên thanh toán chống lại thua lỗ những hợp đồng có giá không thoả mãn.
Khoảng ký quỹ thấp nhất do Quỹ dự trữ liên bang Hoa Kỳ quy định và những tổ chức quyền
chọn trung gian.
Những công ty môi giới là thành viên môi giới của trung tâm OCC thông báo lỗ hoàn toàn
nếu khách hàng không trả được nợ vì vậy khách hàng được yêu cầu ký quỹ nhiều hơn mức
thấp nhất.
Những điều luật quy định cho khoản yêu cầu ký quỹ thường phức tạp và dựa trên cơ sở tổng
hợp các rủi ro của một vị thế quyền chọn hay vị thế kết hợp giữa quyền chọn, cổ phiếu và giao
sau.

Yêu cầu ký quỹ được xác định rõ trong việc sử dụng những mô hình thống kê và được thiết kế
đủ lớn để đảm bảo rằng sự sụt giảm trong giá trị của vị thế trong cả 7 ngày kinh doanh vượt
qua chỉ 5% lượng ký quỹ của các tác động có thể xảy ra.
Yêu cầu ký quỹ thay đổi thường xuyên vì những biến số rủi ro dùng để tính toán cũng thay
đổi. Bởi vậy, thật khó khăn để lập một danh sách những điều luật ký quỹ cho tất cả khách
hàng và cho mỗi vị thế. Tuy nhiên, cũng phải ký quỹ một mức thấp nhất nào đó cho hầu hết
các hợp đồng quyền chọn.
1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE)
Thị trường chứng khoán Tokyo ra đời 1878 thuộc sự quản lý của Sở chứng khoán Tokyo
(Tokyo Stock Exchange). Năm 1943 – 1945 Sở giao dịch chứng khoán đóng cửa do thế chiến
thứ II, cho đến năm 1949 luật chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán mới hoạt động trở
lại, Tokyo Stock Exchange đứng thứ 2 trên thế giới về doanh số sau NYSE.
Trên TSE, việc giao dịch, mua bán chứng khoán được quy định dựa trên các nguyên tắc cơ
bản quan trọng nhất là:
 Nguyên tắc công khai: công khai về hoạt động của người phát hành; các loại chứng
khoán được chào bán, đặt mua, giá cả, số lượng chứng khoán được mua bán...
 Nguyên tắc trung gian mua bán: mọi hoạt động mua bán chứng khoán đều phải qua
môi giới là các công ty chứng khoán được quyền hoạt động trên TSE (TSE có 125 công ty
chứng khoán, trong đó có 25 công ty nước ngoài để đảm bảo sự tin cậy của thị trường, tránh
sự giả mạo; lừa đảo.)
 Nguyên tắc tập trung: có nghĩa là tập trung tất cả mọi đơn đặt hàng, đơn chào bán TSE
để đảm bảo hình thành giá cả trung thực, hợp lý.
 Nguyên tắc đấu giá: bao gồm quyền ưu tiên giá (ưu tiên giá chào bán thấp nhất và giá
đặt mua cao nhất) và quyền ưu tiên về thời gian.
Sau khi đưa hệ thống giao dịch bằng máy tính chính thức đi vào hoạt động (ngày 18/03/1991).
Hiện nay, các cổ phiếu trên TSE vẫn được giao dịch theo hai phương thức khác nhau: giao
dịch tại sàn và thông qua hệ thống máy tính.
Trên TSE, hầu hết các giao dịch mua bán chứng khoán được thanh toán vào ngày làm việc thứ
3 sau ngày giao dịch (T + 3).
Hiện nay, Nhật Bản có 8 Sở giao dịch chứng khoán theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là:

Sapporo, Niigata, Tokyo, Nagoya, Kyoto, Osaka, Hiroshima và Fkuoka. Trong đó 3 Sở giao
dịch chứng khoán Tokyo, Nagoya, Osaka là Sở giao dịch chứng khoán mang tính "quốc gia",
giao dịch chiếm tới 98,1% tổng giá trị giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Nhật Bản.
Bên cạnh các Sở giao dịch chứng khoán, tại Nhật Bản còn có các thị trường chứng khoán phi
tập trung, tiêu biểu đó là Nhật Bản có hai thị trường OTC cùng hoạt động đồng thời, đó là thị
trường Jasdaq và thị trường J-net.
Năm 1997 Sở giao dịch chứng khoán Tokyo giới thiệu đến giới đầu tư một sản phẩm phái sinh
với tên gọi “Quyền chọn cổ phiếu” nhằm thoả mản nhu cầu sử dụng, đồng thời làm công cụ
phòng ngừa cho những chứng khoán riêng lẽ.
Trong số các công ty được niêm yết trên TSE thì có 143 cổ phiếu được giao dịch quyền chọn
tham khảo phụ lục 1.
Cũng tương tự như CBOE, tại TSE cũng quy định một hợp đồng quyền chọn cổ phiếu: tham
khảo phụ lục 2.
Giới hạn vị thế
Ngoài những thành viên tham gia giao dịch (có tài khoản) không phải là khách hàng, họ cũng
có thể nắm giữ vị thế hổn hợp trong nhiều hợp đồng về quyền chọn cổ phiếu vượt quá số
lượng cổ phiếu cơ bản, nó tương đương với một sự kết hợp giữa vị thế bán trong quyền chọn
bán với vị thế mua trong quyền chọn mua của những cổ phiếu cơ bản giống nhau hoặc là sự
kết hợp giữa vị thế mua của quyền chọn bán với vị thế bán trong quyền chọn mua của các cổ
phiếu cơ sở tương tự nhau.
(a) 1% hoặc hơn số lượng cổ phiếu cơ bản được niêm yết.
(b) 0,7% hoặc hơn số lượng cổ phiếu cơ bản được niêm yết nếu như tỷ lệ mua bán của
chứng khoán cơ sở dưới 10%.
Có những vị thế có rủi ro giới hạn bởi sự kết hợp những vị thế mua hoặc bán cổ phiếu và bản
thân những cổ phiếu tương tự hoặc những chứng khoán có liên quan sẽ được miển thuế từ giới
hạn vị thế này. Tham khảo phụ lục 3 bảng giới hạn vị thế
Hệ thống hỗ trợ quyền chọn cổ phiếu của TSE được thiết lập từ Goldman Sachs
Goldman Sachs sẽ cung cấp giá hỏi mua và giá chào bán, dựa trên giá của chứng khoán cơ sở
vào phiên giao dịch buổi sáng cuối cùng. Sở giao dịch chứng khoán Tokyo sẽ công bố những

thông tin này thông qua mục tiêu đảm bảo sự minh bạch thông tin.
Lịch giao dịch trên TSE cho hàng tháng cho các được công bố vào đầu năm: Tham khảo phụ
lục 4
Trên thị trường chứng khoán Tokyo thông tin giao dịch và ngày đáo hạn trên các hợp đồng
quyền chọn được công khai cụ thể:
Hợp đồng theo tháng: 2 tháng gần nhất trong quý (tháng 3, 6, 9, 12 và xoay vòng) và 2 tháng
tiếp theo.
Ngày giao dịch đầu tiên: Ngày làm việc sau ngày đáo hạn của hợp đồng trong tháng trước đó.
Ngày giao dịch cuối cùng của hợp đồng hay ngày đáo hạn: Trước ngày thứ 6 của tuần thứ 2
trong tháng (hoặc ngày làm việc trước thứ 6 tuần thứ 2 nếu thứ 6 là ngày nghỉ lễ do Nhà nước
quy định).
Ngày thanh toán: Khi giao nhận cổ phiếu cơ sở và thanh toán hoặc nhận tiền mặt được thực
hiện vào ngày làm việc thứ 4 sau ngày đáo hạn.
Giới thiệu đến hệ thống khớp lệnh tự động (give-up)
Trong hệ thống này bao gồm một thành viên giao dịch và thành viên thực hiện thanh toán bù
trừ (“ETP”: executing trading participant và “CTP”: clearing trading participant).
Bộ phận “Take-up” trong hệ thống sẽ đo lường khi CTP đồng ý thực hiện thanh toán bù trừ
cho các hoạt động quyền chọn hay giao sau được huỷ bỏ bởi ETP.
Một CTP: là một thành viên giao dịch, thành viên này sẽ công bố có tiếp tục khi thành viên đó
đã đồng ý thực hiện thanh toán bù trừ của hoạt động quyền chọn hoặc giao sau, và thông báo
tiếp tục không chấp nhận khi thành viên không đồng ý thực hiện thanh toán bù trừ.
Mục đích của hệ thống khớp lệnh tự động: Khi các nhà đầu tư uỷ thác cho các thành viên giao
dịch các hợp đồng quyền chọn và giao sau, thanh toán bù trừ (quản lý quyền lợi công khai,
thanh toán hay nhận về khoảng chênh lệch bằng tiền mặt hay là cổ phiếu) phải được thực hiện
bởi các thành viên tương tự. Tuy nhiên, khi có nhu cầu từ các nhà đầu tư thực hiện sự uỷ thác
đến một vài thành viên giao dịch khác để thống nhất về việc thanh toán bù trừ để giảm gánh
nặng tài chính cũng như khoảng chênh lệch biên yêu cầu. Trái lại, cũng có nhu cầu từ các nhà
đầu tư phân quyền thực hiện thanh toán bù trừ theo mục đích giao dịch.
Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã quyết định giới thiệu hệ thồng “Give-up” được sử dụng
rộng rải trong giao dịch hợp đồng quyền chọn và giao sau để các nhà đầu tư có thể chọn thành

viên giao dịch mà những thành viên này sẽ thực hiện các hoạt động và cũng là những thành
viên sẽ thực hiện dịch vụ thanh toán, và vì vậy đề cao sự tin cậy và hiệu quả của thị trường
phái sinh.
Hoạt động của hệ thống Give-up
Give-up có thể hoàn thành tất cả các giao quyền chọn và giao sau theo chỉ dẫn hoặc cung cấp
bởi một thành viên giao dịch trong thị trường phái sinh của sở giao dịch chứng khoán Tokyo.
Give-up có thể thực hiện giao dịch hợp đồng quyền chọn và giao sau trong 1 giây.
Nhận hay thanh toán hoa hồng qua hoạt động hệ thống khớp lệnh tự động (phân chia hoa hồng
nhận được từ phía khách hàng).
Các thành viên giao dịch có thể trả hay nhận một khoảng hoa hồng đối với hoạt động hệ thống
khớp lệnh tự động thông qua Sở giao dịch chứng khoán Tokyo là tùy thuộc vào quyền chọn
của họ.
Khoảng phân chia sẽ được tính toán dựa trên sự sắp xếp bởi thành viên thực hiện thanh toán
bù trừ cung cấp khi có sự đồng ý của thành viên thực hiện giao dịch với mỗi khách hàng theo
từng tháng.
Để xây dựng một hệ thống giao dịch quyền chọn trên thị trường chứng khoán Việt Nam Uỷ
ban chứng khoán cần phải nổ lực học hỏi các kinh nghiệm từ thị trường nước ngoài, từ đó xây
dựng một khung pháp lý và không ngừng hoàn thiện cho ngày càng phù hợp với điều kiện tại
Việt Nam. Trước hết chúng ta cùng nhau tìm hiểu thực trạng thị trường chứng khoán và thị
trường quyền chọn ở Việt Nam.
Chương 2
Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
và Quyền Chọn Chứng Khoán.

2.1. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài
chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn
vốn đầu tư và thị trường chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng đối với việc

huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
Nhận thức rõ việc xây dựng TTCK là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,
phù hợp với các điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới,
TTCKVN đã ra đời.mSự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng
việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.
Tuy ra đời từ năm 2000 nhưng TTCKVN thực sự phát triển và trở thành nguồn huy động vốn
lớn trong nền kinh tế kể từ năm 2005 trở lại đây. Với mức độ gia tăng GDP luôn duy trì ở mức
7%-8%, nền kinh tế Việt Nam luôn nằm trong tình trạng phát triển nhanh luôn cần có những
nguồn vốn lớn đề tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Hình 2.1.1 Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP 2000-2007 ở Việt Nam
0,00%
1,00%
2,00%
3,00%
4,00%
5,00%
6,00%
7,00%
8,00%
9,00%
năm
2000
năm
2001
năm
2002
năm

2003
năm
2004
năm
2005
năm
2006
năm
2007
nguồn: GSP & VNeconomy
Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam

0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
năm 2005 năm 2006 năm 2007
nguồn: BIDV securities
Vốn hoá thị trường / GDP
Trong khi giá trị vốn hoá TTCK trong năm 2006 chỉ chiếm 22,7% GDP, thì năm 2007 tỷ lệ
này tăng lên đến 39,4% với 250 công ty niêm yết trên sàn giao dịch. Nếu tính luôn cả trái
phiếu thì giá trị vốn hoá thị trường có thể tăng lên gần 50%GDP. Tổng vốn hoá TTCKVN
trong năm 2007 đạt khoảng 491 nghìn tỷ đồng tương đương 30,7 tỷ USD (Trong đó: sàn
HOSE chiếm 361 nghìn tỷ đồng, HASTC chiếm 130 nghìn tỷ đồng). Đây quả thật là những
con số đáng kinh ngạc về sự phát triển của thị trường trong thời gian ngắn chỉ 7 năm.

Hình 2.1.2 Tốc độ tăng trưởng mức vốn hoá thị trường từ năm 2005 – 2007

Tuy nhiên con số này xem như còn rất khiêm
tốn nếu so với các nước trong khu vực và
trên toàn thị trường thế giới.
Trong năm 2007, 179 công ty cổ phần đã
phát hành ra thị trường 2,46 triệu cổ phiếu
(tương đương 3 tỷ USD), tăng 26 lần so với năm
2006. Uỷ ban chứng khoán nhà nước cũng đã phát hành thành công 3,468
triệu trái phiếu (tương đương 235 triệu USD) và 25 triệu chứng chỉ quỹ đầu tư (tương
đương15,6 triệu USD). Tính đến cuối năm 2007, có tất cả 80 công ty chứng khoán được phép
thành lập, trong đó có 68 công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội. Ngoài ra, theo báo cáo của uỷ ban chứng khoán nhà nước thì vẫn còn khoảng
70 đơn xin thành lập công ty chứng khoán đang chờ xét duyệt thông qua.
Hình 2.1.3 Biểu đồ thể hiện số lượng thành viên gia nhập TTCKVN năm 2007
Sự thay đổi của các thành viên trong thị trường chứng khoán
Việt Nam
193
55
18
6
256
80
24
8
0
50
100
150
200

250
300
CT niêm yết CT chứng khoán CT quản ký quỷ ngân hàng ký quỷ
nguồn: uỷ ban chứng khoán nhà nước
năm 2006 năm 2007

TTCKVN ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. Tính tới thời điểm hiện
nay có hơn 7,500 tài khoản của những nhà đầu tư nước ngoài được mở, trong số đó có khoảng
300 tài khoản thuộc về các tập đoàn đầu tư. Những nhà đầu tư này giữ từ 25% đến 30% cổ
phiếu của những công ty niêm yết với khối lượng giao dịch chiếm khoảng 18% tổng thị
trường.
Hình 2.1.4 Biểu đồ thể hiện sự gia tăng giá trị giao dịch tại 2 sàn trong năm 2007.
Giá trị giao dịch của 2 sàn HOSE và HASTC
4.039.711
63.422.000
35.472.342
200.716.849
- 50.000.000 100.000.000 150.000.000 200.000.000 250.000.000
2006
2007
nguồn: HOSE và HASTC
HOSE
HASTC

2.2. Sự bất ổn của thị trường chứng khoán:
2.2.1. Quan sát chung toàn thị trường
Hình 2.2.1.1 Biểu đồ VN-Index từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2008

Để có thể thấy được bức tranh toàn cảnh về sự biến động của TTCK gần 8 năm qua, chúng ta
có thể chia ra làm 2 giai đoạn và sau đó xem xét sự biến động thật sự của thị trường:

Giai đoạn trước tháng 5 năm 2006: mặc dù thị trường đã đi vào hoạt động khá lâu nhưng ít
mấy ai quan tâm tới cổ phiếu, quá trình cổ phần hoá chậm chạp của các công ty nhà nước. Tuy
vậy, chỉ số VN-Index cũng biến động lên tục qua số liệu thống kê từ 28/07/2000 đến tháng
05/2006.
Từ lúc bắt đầu VN-Index chỉ 100 điểm, sau gần một năm VN-Index tăng hơn 5 lần lên tới
517,04 vào ngày (25/06/2001), trong năm phiên giao dịch tăng bình quân 6,77% và có khi

×