Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đái tháo đường type 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.68 KB, 30 trang )

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Học viên:
Người hướng dẫn:

Đại học Meiho
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chăm sóc sức khoẻ

Tháng 2, 2014
1


2

Chương 1. Giới thiệu
1.1. Đặt vấn đề
Có thể nói rằng đái tháo đường (ĐTĐ) hiện nay là một đại dịch nhận được
sự quan tâm lớn trên toàn thế giới. Số người mắc ĐTĐ tăng từ 153 triệu vào
năm 1980 lên đến 347 triệu người vào năm 2008 (Danaei et al., 2011). Trong
năm 2004, ước tính có 3,4 triệu người chết do tăng đường huyết lúc đói và >
80% ca tử vong do ĐTĐ xảy ra tại các nước thu nhập kém và trung bình
(Mathers & Loncar, 2006). WHO ước tính rằng ĐTĐ sẽ là nguyên nhân gây tử
vong đứng hàng thứ 7 vào năm 2030 (WHO, 2011).
Tại Việt Nam, ĐTĐ cũng được coi như là một vấn đề y tế công cộng nổi
cộm trên toàn quốc. Theo Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong những
quốc gia có tỷ lệ người mắc ĐTĐ cao nhất trên thế giới (8-10%/năm) (WHO,
2011). Thêm vào đó, cuộc khảo sát toàn quốc năm 2012 cho biết số hiện mắc
ĐTĐ chiếm 5,7% tổng dân số, cao gấp 2 lần so với năm 2002. Nữ có nguy cơ
mắc ĐTĐ cao hơn so với nam. Mặc dù tỷ lệ người chưa được chẩn đoán trên


thế giới chỉ có 50% còn tại Việt Nam con số này lên đến 63,6% (MOH, 2012).
Tồi tệ hơn là kiến thức về kiểm soát ĐTĐ của người bệnh ĐTĐ thường rất thấp
(Nguyen et al., 2013) và điều này dẫn đến những biến chứng nặng đối với hầu
hết các ca bệnh đến khám tại cơ sở y tế.
ĐTĐ là một vấn đề sức khoẻ có thể lập lại nhiều lần gây ra những tác động
lớn lên chức năng thể chất cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. ĐTĐ
không chỉ gây ra nhiều biến chứng phức tạp mà còn tác động mạnh mẽ đến tình
trạng thể chất, tâm lý và xã hội của bệnh nhân. Vì vậy, bên cạnh việc đo lường
các tác động lâm sàng của ĐTĐ, các bác sĩ ngày nay còn tập trung đánh giá
chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khoẻ của bệnh nhân ĐTĐ. Việc đánh
giá chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ phản ánh nhận thức chủ quan của
bệnh nhân về cách mà ĐTĐ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ và các
rào cản mà họ phải đối mặt trong suốt quá trình trị liệu. Dựa trên những thông
tin thu thập được từ các cuộc khảo sát chất lượng cuộc sống, bác sĩ có thể thay
2


3

đổi phương pháp điều trị cho bệnh nhân và giúp họ vượt qua được những rào
cản của họ.
Gần đây, mặc dù chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ vẫn còn là một
khái niệm mới tại Việt Nam nhưng nhiều nghiên cứu cũng đã được tiến hành để
đánh giá chất lượng cuộc sống tổng quát hay chất lượng cuộc sống đặc hiệu
theo bệnh trên bệnh nhân. Một số nghiên cứu tập trung đánh giá chất lượng
cuộc sống của cộng đồng chung, đặc biệt các cộng đồng dân cư nông thôn,
trong khi đó một số nghiên cứu đã bắt đầu khảo sát chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân mắc một số loại bệnh như đột quỵ (Cao & Tran, 2013), ung thư vú (T.
V. Tran & Nguyen, 2009), suy thận mạn (Dao & Nguyen, 2013) v.v. Trong bối cảnh y
tế công cộng, các nghiên cứu CLCSLQSK đóng vai trò quan trọng trong việc xác định

các yếu tố nguy cơ có thể tác động đến CLCSLQSK của cộng đồng chung và dựa trên
những thông tin này, nhà quản lý có thể phát triển các chính sách y tế công cộng hiệu
quả hơn nhằm loại bỏ các yếu tố nguy cơ đồng thời phân phối lại nguồn lực y tế sao
cho phù hợp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Trong lĩnh vực lâm
sàng, đánh giá CLCSLQSK giúp bác sĩ có thể đánh giá được căn bệnh hoặc phương
pháp điều trị tác động mức độ nào đến CLCSLQSK của bệnh nhân.
Giống như các căn bệnh khác, ĐTĐ cũng là đối tượng để đánh giá CLCSLQSK.
Tuy nhiên từ năm 2003 đến năm 2013, chỉ có hai nghiên cứu đánh giá CLCSLQSK
của bệnh nhân ĐTĐ được triển khai tại Việt Nam. Nghiên cứu của Võ Tuấn Khoa (Vo
& Nguyen, 2007) năm 2007 đánh giá tính giá trị của bộ công cụ SF-36 trong việc đánh
giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ĐTĐ sau đoạn chi và nghiên cứu của Trần
Thị Vân Anh sử dụng bộ câu hỏi SF-36.vn để đánh giá tác động của biến chứng đái
tháo đường trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 (H. N. Tran, 2011). Những nghiên cứu này
cho thấy rằng ĐTĐ có tác động đáng kể đến CLCSLQSK của bệnh nhân ĐTĐ và việc
nghiên cứu CLCSLQSK của bệnh nhân ĐTĐ là điều cần thiết. Đây cũng chính là mục
đích của nghiên cứu này.

1.2 Tầm quan trọng của nghiên cứu
Bệnh viện đa khoa quận 11 không phải là một bệnh viện tuyến đầu trong điều trị
ĐTĐ tại thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên mỗi năm số bệnh nhân ĐTĐ đến khám và
điều trị tại bệnh viện khá cao. Có đến 26,292 bệnh nhân ĐTĐ được điều trị tại bệnh
3


4

viện trong năm 2012 trong đó có 26,203 bệnh nhân ngoại trú và 89 bệnh nhân nội trú.
Hầu hết bệnh nhân đều được điều trị theo quy định chuẩn bao gồm khám, chẩn đoán,
điều trị và theo dõi định kỳ. Theo kinh nghiệm của các nhân viên y tế tham gia điều trị
cho bệnh nhân ĐTĐ, người bệnh gặp nhiều khó khăn chẳng hạn như suy giảm chức

năng vận động, các rối loạn tâm thần và sự kỳ thị của cộng đồng khiến họ khó có thể
tuân thủ phác đồ điều trị dẫn đến làm giảm CLCSLQSK của họ. Tuy nhiên, chưa có
một nghiên cứu nào được tiến hành tại bệnh viện để đánh giá những việc này. Nghiên
cứu này vì vậy được tiến hành để trả lời câu hỏi này. Những kết quả từ nghiên cứu này
có thể giúp ban lãnh đạo bệnh viện có thể thấy được bức tranh toàn cảnh về tác động
tâm lý cũng như thể chất của bệnh ĐTĐ lên bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Kết quả
này cũng sẽ giúp phát hiện các cách thức chăm sóc bệnh nhân ĐTĐ phù hợp hơn đồng
thời qua đó cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

1.3. Mục đích của nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu là để đánh giá được CLCSLQSK tổng quát của bệnh
nhân ĐTĐ type 2 của bệnh viện đa khoa quận 11, Hồ Chí Minh. Để đạt được mục đích
này nghiên cứu đề ra các mục tiêu sau:
1. Xác định 5 thành phần của mô hình CLCSLQSK bao gồm các đặc điểm sinh học
và tâm lý của bệnh nhân, tình trạng triệu chứng, tình trạng chức năng, sức khoẻ
tổng quát, và CLCSLQSK chung của bệnh nhân ĐTĐ type 2 tại bệnh viện đa khoa
quận 11.
2. Xác định các đặc điểm cá nhân và đặc điểm môi trường ở bệnh nhân ĐTĐ type 3
đang điều trị tại bệnh viện đa khoa quận 11.
3. Xác định mối quan hệ giữa các đặc điểm cá nhân và môi trường với 5 thành phần
của mô hình CLCSLQSK của bệnh nhân tại bệnh viện đa khoa quận 11.
4. Xác định mối quan hệ giữa CLCSLQSK chung và 4 thành phần còn lại của mô
hình CLCSLQSK của bệnh nhân tại bệnh viện đa khoa quận 11.

4


5

Chương 2. Tổng Quan Y Văn

2.1Định nghĩa chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống là một khái niệm có thể được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau.Hörnquist định nghĩa chất lượng cuộc sống là một khái niệm đa chiều về
trải nghiệm của một người từ những trải nghiệm liên quan đến nhu cầu thiết yếu của
con người như lương thực, nơi ở cho đến những trải nghiệm liên quan đến việc đạt
được cảm giác hạnh phúc cá nhân và sự hoàn thiện (Hörnquist, 1982). Revecki và
cộng sự mô tả chất lượng cuộc sống là những trải nghiệm chủ quan và nhận thức của
cá nhân liên quan đến sức khoẻ tổng quát của cá nhân. Nó bao gồm các khía cạnh về
kinh tế, xã hội, tâm thần, và chính trị. Wallander và cộng sự định nghĩa chất lượng
cuộc sống là sức khoẻ nhiều mặt khác nhau của cuộc sống được xem như là phản
chiếu của văn hoá và thời gian của một người. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định
nghĩa chất lượng cuộc sống là "nhận thức của cá nhân về vị trí của họ trong cuộc sống
với bối cảnh văn hoá và hệ thống giá trị mà họ đang sống và có liên hệ đến những sự
quan tâm và chuẩn kỳ vọng mà họ muốn đạt đến". Nó là một khái niệm mang tính bao
quát tác động bởi tình trạng thể chất và tinh thần, mức độ độc lập của các mối quan hệ
xã hội và mối quan hệ của họ đối với các đặc điểm của môi trường sống.
Mặc dù cho đến hiện nay chưa có một sự thống nhất về định nghĩa chất lượng
cuộc sống, nhưng hầu hết các nhà khoa học đều đồng ý rằng chất lượng cuộc sống là
một cấu trúc đa khía cạnh bao gồm nhiều khía cạnh tinh thần xã hội và thể chất. Nó
được xem như là sự phản ánh các đánh giá chủ quan của bệnh nhân về sức khoẻ chứ
không phải là quan điểm của bác sĩ. Để đánh giá chấ lượng cuộc sống của bệnh nhân,
cách hiệu quả nhất chính là đo lường cấu trúc này dưới dạng bảng câu hỏi hoặc một
loạt các thang đo (Groot, 1986).

2.2Định nghĩa chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ
Khi chất lượng cuộc sống được xem xét trong bối cảnh sức khoẻ và bệnh tật thì nó
được gọi là CLCSLQSK để phân biệt với các khía cạnh khác của chất lượng cuộc
sống. Walker và Rosser định nghĩa CLCSLQSK chính là "một khái niệm có phạm trù
rộng về các đặc điểm thể chất và tinh thần và các hạn chế được mô tả khả năng của cá
5



6

nhân đối với chức năng và tạo ra sự thoả mãn khi làm điều đó" (Walker, 1987). Testa
và Simonson định nghĩa CLCSLQSK là "các khía cạnh liên quan đến thể chất và tinh
thần xã hội của sức khoẻ và được xem như là một lĩnh vực tác biệt bị ảnh hưởng bởi
trải nghiệm kỳ vọng của cá nhân và nhận thức của họ".
Ở mức độ cá nhân, CLCSLQSK bao gồm các lĩnh vực có thể đo lường: (1) chức
năng thể chất (2) chức năng xã hội (3) chức năng tình cảm, (4) chức năng nhận thức
(5) sự đau đớn, (6) khả năng sinh sống, và (7) sức khoẻ chung (Maciejewski, 2006).
Mỗi lĩnh vực có thể được đo lường theo hai hướng": (1) đánh giá khách quan về tình
trạng chức năng và sức khoẻ và (2) nhận thức chủ quan về sức khoẻ.

2.3. Tầm quan trọng của việc đáinh giá chất lượng cuộc sống liên
quan sức khoẻ
Cải thiện các chỉ số lợi ích cho bệnh nhân
Thu thập thông tin về CLCSLQSK cho phép bác sĩ và nhà nghiên cứu xem xét
một lượng thông tin bao quát hơn mà không thể thu thập qua các số đo lâm sàng hoặc
cận lâm sàng và cung cấp một cách nhìn chủ quan của bệnh nhân về chức năng của
họ. Thông qua việc thu thập các nhận thức của bệnh nhân về can thiệp nhân viên y tế
có thể hiểu rõ hơn về khí cạnh nào của sức khoẻ được bệnh nhân đánh giá cao nhất và
vì vậy loại điều trị nào có thể cung cấp lợi ích tốt nhất. Ví vụ khi hoá trị cho bệnh
nhân ung thư giai đoạn tiến triển được xem như là cách điều trị duy nhất mang lại hiệu
quả. Các thông số truyền thống như thời gian hết bệnh-đáp ứng và tỷ lệ sống sót có thể
thiếu tính chính xác. Các thử nghiệm lâm sàng kết hợp đánh giá CLCSLQSK có thể
cung cấp nhiều thông tin hơn và giúp làm rõ được những nguy hại và lợi ích của việc
hoá trị và hỗ trợ quyết định của bệnh nhân khi cơ hội sống sót rất mong manh. .
Xác định nhu cầu can thiệp hỗ trợ
Các liệu pháp đã được chứng minh có hiệu quả hầu như luôn luôn có những tác

dụng phụ không mong muốn có thể gây nặng đủ để một bác sĩ hướng sang một cách
chữa trị hoặc ngừng điều trị cho bệnh nhân. Việc đánh giá CLCSLQSK một cách có
hệ thống có thể giúp bác sĩ loại trừ được những tác dụng phụ này và bản chất tạm thời
của chúng. Điều này có thể hỗ trợ trong việc quyết định loại can thiệp hỗ trợ có thể
cần để thay thế các tác dụng phụ không mong muốn.
Chất lượng cuộc sống là một chỉ tố tiên đoán bệnh
Người ta cho rằng bệnh nhân có chất lượng cuộc sống tốt tại thời điểm ban đầu
6


7

khi điều trị sẽ phục hồi tốt hơn bệnh nhân có chất lượng cuộc sống ban đầu thấp,
nhưng cũng có một số nghiên cứu ngày càng nhiều đối với nhiều loại ung thư khác
nhau chứng minh được việc sử dụng CLCSLQSK làm chỉ số tiên đoán hiệu quả. Việc
đánh giá CLCSLQSK đã được chứng minh có thể cung cấp ước lượng chính xác hơn
về khả năng sống sót so với các số đo có đặc trưng lâm sàng.
Ra quyết định
Một số liệu pháp điều trị mới chỉ có thể mang lại hiệu quả ít nhưng lại có thể
mang lại tác dụng phụ ít, số khác có thể có hiệu quả cao và mang lại tác dụng phụ cao.
Khi các lựa chọn điều trị được đưa ra cho bệnh nhân và người bác sĩ cần lựa chọn loại
điều trị lựa chọn tốt nhất. Khi đó việc đánh giá hệ thống CLCSLQSK có thể giúp bác
sĩ lựa chọn phương pháp hiệu quả nhất đồng thời ít mang tác dụng phụ nhất.
Phân bố lại nguồn lực và chính sách chăm sóc y tế
Tất cả hệ thống chăm sóc sức khoẻ đều phải cân nhắc về vấn đề tài chính cũng
như những như cầu vô hạn của cơ sở y tế. Việc đánh giá dựa trên chỉ số cơ sở y tế
(HUI) và bộ chất lượng cuộc sống châu âu (EQ-5D) được sử dụng để đánh giá số năm
sống chất lượng chung (QALYs). QALYs được sử dụng bởi những nhà kinh tế học để
tính toán chi phí-hiệu quả của nhiều can thiệp khác nhau. Các nhà lập chính sách cũng
có thể thiết lập các ngưỡng QALY khác nhau. Việc sử dụng những ngưỡng này bởi các

cơ quan điều hành khi ra quyết định về trả viện phí trong điều trị hiện nay vẫn gây
nhiều tranh cãi, thật vậy QALYs có nhiều hạn chế bao gồm đánh giá thấp chất lượng
cuộc sống của người già và những người sắp chết.

2.4. Công cụ đo lường đánh giá chất lượng cuộc sống
Như trong định nghĩa của CLCSLQSK, chất lượng cuộc sống biến đổi rất lớn vì
vậy các công cụ đánh giá cũng rất đa dạng. Các công cụ đánh giá có thể đơn giản chỉ
là một câu hỏi nhưng chúng cũng có thể rất phức tạp dưới dạng một bộ câu hỏi gồm
nhiều câu tìm hiểu về các khía cạnh khác nhau liên quan đến CLCSLQSK. Công cụ
đánh giá CLCSLQSK có thể được chia thành hai loại: công cụ tổng quát và công cụ
đặc hiệu.
Công cụ CLCSLQSK tổng quát
Công cụ CLCSLQSK tổng quá đánh giá tất cả khía cạnh quan trọng của
CLCSLQSK và cho phép so sánh rộng nhưng không đánh giá một bệnh cụ thể. Các số
đo trong công cụ này được sử dụng để so sánh kết quả giữa các dân số khác nhau và
7


8

các can thiệp để có thể kiểm tra hiệu quả về chính sách và các chương trình chăm sóc
y tế cho mục đích phân phối nguồn lực. Những số đo này đặc biệt có ích đối với các
quyết định chính sách diện rộng nhưng việc đánh đổi là thiếu độ nhạy và độ đặc biệt
đối với một bệnh cụ thể. Những công cụ này có thể ít đáp ứng với thay đổi bởi vì
chúng cung cấp thang điểm tóm tắt chung cho CLCSLQSK. Một số bộ câu hỏi là:
WHOQOL, SF-36, EQ-5D, QWB-SA, HALex, HUI.
Công cụ CLCSLQSK đặc hiệu
Công cụ CLCSLQSK đặc hiện có mục tiêu đánh giá một quần thể dân số bệnh cụ
thể. Trong khi công cụ chung cho phép so sánh rộng thì công cụ đặc hiệu đáp ứng tốt
hơn đối với những thay đổi về CLCSLQSK trong một nhóm dân số bệnh nhân đang

khảo sát. Nhiều số đo CLCSLQSK đặc hiệu được phát triển để đo lường CLCSLQSK
của nhiều bệnh khác nhau như béo phì, viêm khớp, ĐTĐ, suyễn, viêm phổi, ung thư,
ilao và HIV. Các công cụ đo lường đặc hiệu này ngày càng được sử dụng nhiều để
đánh giá các điều trị y khoa để đưa ra quyết định điều trị và phân phối nguồn lực.

2.5. Dịch tễ học đái tháo đường
Trong suốt 40 năm qua, số mắc đái tháo đường ngày càng gia tăng trên thế giới
(Cowie et al., 2008), và xu hướng trong tương lai là bệnh tiếp tục gia tăng ở mọi nhóm
dân tộc, nam cũng như nữ và ở mọi lứa tuổi. Sự gia tăng này đặc biệt được lưu ý ở
ĐTĐ type 2. Tỷ lệ mắc cao nhất có thể thấy ở các quốc gia có nền kinh tế mới nổi ka2
tại đó các cơ quan độc lập đã ghi nhận được nhiều ca mới và tại đó việc tiếp cận với
chăm sóc sức khoẻ còn bị nhiều hạn chế và ở đó các thực phẩm hiện đại và cuộc sống
ít vận động ngày càng gia tăng trong dân số (Flegal et al., 2010).
Trong năm 1995, có khoảng 135 triệu bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi ĐTĐ và số
này được ước tính sẽ tăng lên đến 300 triệu vào năm 2025 (King et al., 1998). Trong
năm 2011, số mắc đã lên đến 336, và con số này dẫn đến việc phải ước tính lại con số
người mắc đến năm 2030 lên đến 552 triệu người (IDF, 2011).
Ở cấp độ quốc tế, số hiện mắc ĐTĐ thay đổi ngay cả trong cùng khu vực địa
lý, phụ thuộc vào dân tộc. Tại Mỹ người Tây Ban Nha/Latin, người Mỹ gốc Phi và
người Mỹ bản xứ và người Mỹ Châu Á có số mắc ĐTĐ type cao gấp 2-6 lần người da
trắng không phải gốc tây ban nha (Reimer et al., 2001).
Cũng có sự khác biệt giữa môi trường nông thôn và thành thị. Một số nghiên
cứu cho thấy ĐTĐ cao gấp 2-3 lần ở khu vực thành thị so với khu vực nông thôn, tuỳ
8


9

thuộc vào khu vực địa lý được nghiên cứu (Wild et al., 2004). Vì sự gia tăng sự tiếp
cận của người dân với y tế tại khu vực nông thơn và nhiều hơn tại khu vực cận nông

thôn và việc thu nhận nhiều nhiều khám sàng lọc tại các khu vực này, nhiều ca bệnh đã
được chẩn đoán dẫn đến một sự gia tăng số mắc tại khu vực nông thôn so với khu vực
thành thị, với xu hướng gấp đôi trong vòng 20-40 năm tới theo một số tác giả (Massey
et al., 2010).
Vào năm 2003, theo sự phân loại quốc gia có tần số mắc ĐTĐ cao, ĐTĐ phổ
biến tại Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Nga và Nhật Bản (IDF, 2011). Trong năm 2007, thứ
tự các nước đã thay đổi bắt đầu từ vị trí thứ 5 trong đó là Đức và theo sau là Nga. Một
số ít nguyên nhân cho tỷ lệ cao tại Ấn Độ, trung Quốc và Mỹ chính là sự gia tăng dân
số ngày càng cao, sự gia tăng tỷ lệ người già, giảm khả năng tiếp cận y tế và việc
phòng ngừa ĐTĐ và hoặc tiếp cận với thực phẩm hiện đại. Theo thời gian dài, tiên
đoán tại Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ rất tối tăm những quốc gia này sẽ luôn đứng ở vị
trí đầu các nước có tỷ lệ cao nhất. Năm 2011 tại Châu Âu, tỷ lệ mắc ĐTĐ trong độ
tuổi 20-79 với 12 thứ hạng đầu dao động từ 9,2% tại Romania đến 12,7% tại Bồ Đào
Nha (IDF, 2011).

2.6. Chất lượng cuộc sống ở người đái tháo đường
Mặc dù thử nghiệm lâm sàng biến chứng và kiểm soát ĐTĐ (DCCT, 1993) đã
phát hiện rằng hạ thấp lượng đường thông qua điều trị tích cực có thể ngăn ngừa và
làm chậm các biến chứng ĐTĐ, tác động của việc kiểm soát tích cực đường huyết lên
chất lượng cuộc sống bệnh nhân vẫn chưa được quan tâm. Việc kiểm soát đường huyết
dẫn đến việc hạn chế CLCSLQSK của bệnh nhân bởi vì nó thường liên quan đến việc
tự kiểm soát mức đường huyết và tự uống thuốc, chế độ ăn hạn chế và tập thể dục đều
đặn (Hanestad & Albrektsen, 1991). Hầu hết các nghiên cứu kiểm tra CLCSLQSK ở
bệnh nhân ĐTĐ báo cáo rằng họ trải nghiệm chất lượng cuộc sống thấp so với người
khoẻ mạnh (Graue, Wentzel-Larsen, Hanestad, Batsvik, & Sovik, 2003; Mayou,
Bryant, & Turner, 1990) và cảm giác khoẻ mạnh thường biến mất khi biến chứng xảy
ra nặng nề hơn và các phương pháp điều trị trở nên nhiều hơn (Jacobson, 1994;
Nerenz, Repasky, Whitehouse, & Kahkonen, 1992). Vì vậy, điều quan trọng là bác sĩ
và người nghiên cứu cần tiến hành đánh giá chất lượng cuộc sống trong kết cục mà họ
đo lường.


9


10

2.7. Các yếu tố quyết định CLCSLQSK của bệnh nhân đái tháo
đường
Tuổi
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tuổi cao thường đi kèm với
CLCSLQSK kém. Trong 310 bệnh nhân thu nhập thấp mắc ĐTĐ tại Bắc Carolina,
người cao tuổi đi kèm với điểm chức năng thể chất SF-36 rất thấp nhưng lại có chỉ số
sức khoẻ tinh thần SF-36 cao (Camacho et al., 2002). Trief và cộng sự cũng sử dụng
bộ SF-36 và DQOL để đánh giá CLCSLQSK của bệnh nhân ĐTĐ và so sánh với hai
bộ câu hỏi đặc hiệu là PAID và (ADS). Họ báo cáo rằng người cao tuổi có chỉ số thấp
đáng kể về điểm Vai trò-chức năng và điểm tình cảm-chức năng và trên thang PAID và
ADS, nhưng lại có điểm chức năng xã hội SF-36 và điểm hài lòng của DQOL cao hơn
so với các đối tượng trẻ tuổi (Trief et al., 2003). Paschalides và cộng sự tiến hành một
nghiên cứu khảo sát CLCSLQSK chung của 184 bệnh nhân mắc ĐTĐ type 2. Họ phát
hiện những sự kết hợp tiêu cực giữa tuổi và điểm thể chất SF-36 và điểm thành phần
thể chất SF-36 (Paschalides et al., 2004).
Giới tính
Mối quan hệ giữa giới và CLCSLQSK đã rõ ràng khi đo bằng bộ đo lường
chung và bộ đặc hiệu. Orfila và cộng sự kiểm tra sự khác biệt giới tính trong
CLCSLQSK giữa những người cao tuổi. Họ thấy rằng phụ nữ cho thấy có điểm
CLCSLQSK thấp hơn so với đàn ông do có khuyết tật về thể chất và bệnh mạn tính
nhiều hơn ở nam. Họ cũng cho rằng phụ nữ tuổi cao có nhiều khả năng bị suy giảm
chức năng thể chất và chăm sóc cá nhân nhiều hơn đàn ông và điều này làm giảm
CLCSLQSK của họ (Orfila et al., 2006). Tuy nhiên, trong số 5.145 người trưởng thành
béo phì mắc ĐTĐ type 2 thì đàn ông lại có điểm chỉ số thể chất và sức khoẻ tinh thần

trên thang SF-36 cao hơn phụ nữ (Rejeski et al., 2006). Một số nghiên cứu khác báo
cáo rằng không có mối kết hợp giữa giới tính và CLCSLQSK (Camacho, et al., 2002;
Shobhana et al., 2003; Thommasen & Zhang, 2006a)
Tình trạng hôn nhân
Jacobson và cộng sự năm 1994 đã báo cáo rằng tình trạng hôn nhân là yếu tố dân
số xã hội duy nhất có mối liên quan với các chỉ SF-36 và DQOL trong nghiên cứu với
cả các đối tượng mắc ĐTĐ type 2 và type 1. Những cá nhân ly dị hoặc ly thân nhìn
10


11

chung trải nghiệm CLCSLQSK kém hơn so với những người độc thân hoặc đã lập gia
đình (Jacobson et al., 1994). Parkerson và cộng sự (1993) cũng báo cáo rằng lập gia
đình có mối liên quan với sự lo lắng về ĐTĐ và xã hội.
Trình độ giáo dục
Trình độ giáo dục cũng đóng vai trò quan trọng với CLCSLQSK. Trong một
nghiên cứu tại Hy Lạp, người nghiên cứu thấy rằng bệnh nhân có trình độ học vấn
kém sẽ có kiến thức kém về ĐTĐ và có triệu chứng hạ đường huyết tồi tệ hơn. Các
nhà nghiên cứu tại Iran cho thấy rằng các đặc điểm tiền sử của bản thân chẳng hạn sự
hiện diện của những người có trình độ y khoa trong gia đình hoặc bản thân bệnh nhân
là người kiếm sống chính hoặc thất nghiệp đều ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân. Dựa trên những kiến thức về các biến số dân số xã hội học và
chất lượng cuộc sống dường như có mối tương tác với nhau vù vậy điều hợp lý trong
việc đánh giá tình trạng này trong nghiên cứu của chúng tôi và đánh giá tình trạng
kinh tế có ảnh hưởng đến CLCSLQSK hay không. Rejeski và cộng sự báo cáo rằng
trình độ học vấn cao kết hợp với CLCSLQSK cao về chỉ số thể chất trong bộ SF-36
(Rejeski, et al., 2006).
Dân tộc
Sự khác biệt về dân tộc cũng được xác định đóng vai trò tác động đến

CLCSLQSK. Các nhà nghiên cứu xác định rằng có sự khác biệt khác nhau giữa những
người Mayasia gốc Trung Hoa và những người Ấn Độ tại Singapore. Những đối tượng
là người Ấn Độ tham gia trong nghiên cứu có điểm tinh thần cao hơn trong khi những
người Trung Hoa có điểm thể chất và điểm độc lập cao hơn. Trong một nghiên cứu
đánh giá CLCSLQSK theo cảm nhận của bệnh nhân ghép thận, các nhà nghiên cứu
nhận thấy rằng có sự khác biệt về CLCSLQSK giữa các nhóm dân tộc khác nhau.
Nghiên cứu này khảo sát một số khía cạnh của chất lượng cuộc sống trong đó bao gồm
sức khoẻ tâm thần thể chất và sự hài lòng của bệnh nhân. Nghiên cứu đã chứng minh
được rằng có sự khác biệt trong nhận thức về CLCSLQSK giữa những nhóm dân tộc
khác nhau trong nghiên cứu. Điểm CLCSLQSK thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm Châu Á
Indo so với những người châu Âu về điểm tinh thần và thể chất. Tương tự một nghiên
cứu hồi cứu y văn về can thiệp chăm sóc ĐTĐ cho người trưởng thành với những
nhóm văn hoá khác nhau cho thấy sự khác biệt giữa những bệnh nhân này cần được
xác định để có thể can thiệt thành công. Các nghiên cứu này đều cho thấy nhu cầu can
thiệp đều có thể được chấp nhận về mặt văn hoá và khi sử dụng bộ câu hỏi
CLCSLQSK trong những nhóm văn hoá khác nhau thì những bộ câu hỏi này cần được
11


12

đánh giá tính giá trị trước để có thể đảm bảo tính chấp nhận về văn hoá và khả năng
phù hợp của bộ câu hỏi.
Tình trạng kinh tế-xã hội
Glasgow và cộng sự vào năm 1997 đã kiểm tra mối quan hệ giữa tình trạng kinh
tế xã hội và CLCSLQSK chung của những bệnh nhân ĐTĐ. Các đối tượng này có thu
nhập < 15.000 USD báo cáo chỉ số thể chất, tinh thần và xã hội đều thấp hơn nhóm có
thu nhập cao (Glasgow et al., 1997).
Bệnh đi kèm
Nhìn chung, bệnh nhân ĐTĐ có mang các bệnh mạn tính đi kèm có CLCSLQSK

thấp hơn so với những người chỉ mắc ĐTĐ. Nếu số bệnh càng nhiều thì chất lượng
cuộc sống càng thấp. Wee và cộng sự báo cáo rằng các cá nhân mắc ĐTĐ có chỉ số
CLCSLQSK chung thấp hơn những người không có ĐTĐ và sẽ thấp hơn nếu bệnh
nhân ĐTĐ còn mắc thêm cao huyết áp hoặc bệnh tim mạch (Wee et al., 2005). Điều
này hoàn toàn phù hợp với những phát hiện của một nghiên cứu được báo cáo rằng số
bệnh đi kèm kết hợp với CLCSLQSK thấp được đo bằng SF-36 (Thommasen &
Zhang, 2006b).
Mặc dù cao huyết áp là một trong những bệnh đi kèm phổ biến nhất kết hợp với
ĐTĐ, nó có tác động rất thấp đến CLCSLQSK khi đo bằng SF-36 (Alonso et al.,
2004). Rejeski và cộng sự báo cáo rằng sự tồn tại của cao huyết áp ở bệnh nhân trưởng
thành béo phì mắc ĐTĐ type 2 kết hợp với chỉ số thể chất thấp (47.5 so với 49.7, p < .
01) nhưng có chỉ số tinh thần cao hơn (54.2 so với. 53.4, p < .01) đối với thang SF-36
(Rejeski, et al., 2006). Wee và cộng sự phát hiện rằng các đối tượng mắc ĐTĐ có cao
huyết áp trải nghiệm chỉ số CLCSLQSK thấp hơn (2.3 points, p < .05) chỉ có thang
chức năng thể chất của SF-36 là cao hơn những người không có cao huyết áp (Wee, et
al., 2005).
Hai loại bệnh tim mạch chính ở bệnh nhân ĐTĐ chính là bệnh mạch vành và tai
biến mạch máu não (NIDDK, 2005). Những cá nhân mắc ĐTĐ có nguy cơ cao bị đột
quỵ hoặc bệnh tim mạch hơn những người không mắc ĐTĐ (NIDDK, 2005). Otiniano
và cộng sự báo cáo rằng sự đồng hiện diện của đột quỵ và ĐTĐ có mối liên quan
mạnh với khả năng khuyết tật và CLCSLQSK kém, và rằng ảnh hưởng trở nên mạnh
hơn với những bệnh lý đi kèm (Otiniano et al., 2003).
Rocco và cộng sự báo cáo một mối quan hệ có ý nghĩa thống kê ngược giữa
CLCSLQSK và tỷ lệ lọc cầu thận ở bệnh nhân suy thận mạn tính (Rocco et al., 1997).
CLCSLQSK của bệnh nhân suy thận mạn bị suy giảm dẫn đến sự hạn chế chức năng
12


13


thể chất và ảnh hưởng lên điều trị bệnh (Walters et al., 2002). Nghiên cứu của viện
Thận RRI-CKD tiến hành trên 634 bệnh nhân có chức năng thận bị suy giảm nghiêm
trọng (38% số này có ĐTĐ) và báo cáo rằng bệnh nhân suy thận có chỉ số
CLCSLQSK cao hơn ở tất cả các thành phần của bộ câu hỏi sf-36 so với bệnh nhân
chạy thận nhưng có chỉ số thấp hơn ở tất cả các thang đo thành phần ngoại trừ sức
khoẻ tinh thần so với dân số chung của Mỹ (Perlman et al., 2005). Một nghiên cứu
trên 186 người Mỹ gốc Châu Phi mắc ĐTĐ type 2 đã chỉ ra rằng những người suy
chức năng thận có chỉ số SF-36 chức năng thể chất và sức khoẻ tổng quát thấp hơn so
với những người không bị suy chức năng thận (Hill-Briggs et al., 2002).
Một nghiên cứu CLCSLQSK của những người béo phì mắc ĐTĐ type báo cáo
rằng số mắc bệnh thấp khớp ở những đối tượng là 40,9%. Những bệnh nhân mắc bệnh
thấp khớp có chỉ số SF-36 thành phần thể chất thấp (45.0 so với. 50.0, p < .01) nhưng
lại có chỉ số thành phần tinh thần cao hơn (54.3 so với. 53.8, p < .01) khi so với những
người không có bệnh thấp khớp (Rejeski, et al., 2006). Hai nghiên cứu khác cũng báo
cáo số liệu tương tự (Maddigan et al., 2005; Thommasen & Zhang, 2006b).
HbA1c
Nhiều nghiên cứu trong những năm qua đã cố gắng chứng minh mối liên hệ
giữa mức HbA1c và CLCSLQSK ở người ĐTĐ. Một nghiên cứu theo thời gian về
kiểm soát đường huyết và CLCSLQSK ở bệnh nhân ĐTĐ type cho thấy có sự suy
giảm HbA1c sau 2 năm điều trị cũng cải thiện CLCSLQSK ở nhóm dân số này. Tương
tự dự án DIAB.&TE.S đánh giá nhiều nhóm bệnh nhân được điều trị bằng insulin,
thuốc uống hoặc cả hai và họ thấy rằng có mối tương quan giữa CLCSLQSK và kiểm
soát chuyển hoá đường. Những phát hiện này được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Ahlgren
và cộng sự khi phát hiện rằng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiểm soát
đường huyết và CLCSLQSK ở bệnh nhân ĐTĐ. Ở dân số Trung Hoa, các tác giả
nghiên cứu thấy rằng mức đường huyết lúc đói cũng như đường huyết sau nghiệm
pháp 2 giờ có liên quan đến CLCSLQSK. Ngoài ra những nghiên cứu khác cũng cho
thấy có mối liên quan giữa hai yếu tố này mặc dù một số ít nghiên cho thấy không có
mối liên quan.
Thời gian mắc ĐTĐ

Thời gian mắc ĐTĐ cũng như loại ĐTĐ và các biến chứng của bệnh cũng
được cho rằng đóng vai trò trong CLCSLQSK nhận thức của bệnh nhân. Những
nghiên cứu này cho thấy biến chứng là một yếu tố phổ biến nhất liên quan tiêu cực
đến CLCSLQSK. Dữ liệu cũng có sẵn cho thấy những người ĐTĐ điều trị bằng
13


14

insulin cũng như những người không bị phụ thuộc insulin cảm thấy ĐTĐ tác động đến
CLCSLQSK của họ. Mối tương quan giữa thời gian ĐTĐ và chỉ số CLCSLQSK
không rõ ràng như là với chỉ số đường huyết. Wang và cộng sự báo cáo rằng trong dân
số nghiên cứu của đề tài thời gian mắc bệnh có mối tương quan có ý nghĩa thống kê
với chỉ số CLCSLQSK của các đối tượng. Ngược lại với kết quả của một nghiên cứu
dựa trên dân số của Thuỵ Điển cũng như của các đối tượng ở Kuwait báo cáo rằng
thời gian bệnh không liên quan đến CLCSLQSK.
BMI và vòng eo
BMI và vòng eo là những chỉ số đo lường dinh dưỡng phổ biến bởi vì chúng
đã được biết như là những chỉ số tiên đoán độc lập tình trạng tim mạch cũng như ĐTĐ
type 1 và type 2. Cả BMI và vòng eo đều được nhiều nghiên cứu chứng minh rằng có
liên quan đến cơ chế sinh bệnh của nhiều yếu tố nguy cơ trong đó có ĐTĐ. Quan sát
này dẫn đến một số khuyến cáo rằng hai chỉ số này thường được sử dụng để xác định
những người có nguy cơ sức khoẻ và dùng để theo dõi thường xuyên ở những người
mắc ĐTĐ. Kết quả của mối quan hệ giữa hai chỉ số này đã được đánh giá bởi nhiều
nghiên cứu với CLCSLQSK. Những phân tích trong các nghiên cứu nhìn chung cho
thấy béo phì có sự kết hợp làm giảm CLCSLQSK của bệnh nhân. Các mối quan hệ
giữa CLCSLQSK và những chỉ số nhân trắc học khác cũng không rõ ràng. Trong một
nghiên cứu tìm kiếm mối liên quan giữa sức khoẻ và sự hài lòng với điều trị ở người
trưởng thành mắc ĐTĐ phát hiện rằng BMI và điểm từng phần CLCSLQSK không có
liên quan. Ngược lại một số nghiên cứu tại Ý cho thấy chỉ số BMI thấp tương ứng với

chỉ số CLCSLQSK cao hơn. Tương tự trong một nghiên cứu đánh giá CLCSLQSK
liên quan đến cân nặng ở người béo phì mắc ĐTĐ type 2 báo cáo có mối liên quan có
ý nghĩa thống kê giữa CLCSLQSK cân nặng và chỉ số BMI. Dựa trên mối quan hệ
giữa vòng eo và chất lượng cuộc sống hiện vẫn còn thiếu thông tin. Một nghiên cứu
tham khảo mối liên quan giữa CLCSLQSK và vòng eo là một nghiên cuu1 tìm kiếm
mối quan hệ giữa CLCSLQSK và sụt cân ở bệnh nhân béo phì điều trị với các loại
thuốc giảm cân. Nghiên cứu báo cáo rằng những bệnh nhân uống thuốc giảm cân có
thể giảm đáng kể chỉ số BMI và vòng eo và hậu quả là cho thấy cải thiện đáng kể chỉ
số CLCSLQSK liên quan cân nặng.

2.8. Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân đái tháo đường
Trong suốt 3 thập kỷ vừa qua có nhiều cách đo lường CLCSLQSK đã được xây
14


15

dựng cho bệnh ĐTĐ bao gồm cả bệnh nhân ĐTĐ type 1 và type 2. Nhìn chung có hai
loại đo lường CLCSLQSK được sử dụng để đánh giá CLCSLQSK ở bệnh nhân ĐTĐ:
đo lường CLCSLQSK chung và CLCSLQSK đặc hiệu cho bệnh ĐTĐ.
Các công cụ đánh giá CLCSLQSK chung được sử dụng để đánh giá CLCSLQSK
ở bệnh nhân ĐTĐ có thể đánh giá đầy đủ nhận thức của bệnh nhân ĐTĐ về
CLCSLQSK của họ (Gill & Feinstein, 1994). Tuy nhiên, khi sử dụng những công cụ
này thì mối liên quan giữa CLCSLQSK đặc hiệu và các đo lường khách quan chẳng
hạn các biến kiểm soát chuyển hoá có thể khó được phát hiện đặc biệt khi các kết cục
chuyển hoá chẳng hạn mức HbA1c thường đi kèm với chỉ số mắc các biến chứng
chẳng hạn hạ đường huyết. Một số bộ công cụ đánh giá CLCSLQSK chung của bệnh
ĐTĐ bao gồm bộ (MOS SF-36 or SF-36), Nottingham Health Profile (NHP), Sickness
Impact Profile (SIP), Duke Health Profile (DUKE) và General Health Perceptions
Questionnaire (GHP: Ware).

Không giống như những bộ công cụ đo lường CLCSLQSK chung, bộ câu hỏi đo
lường đặc hiệu được thiết kế để giải quyết những lĩnh vực cụ thể liên quan trực tiếp
đến ĐTĐ chẳng hạn kiến thức, thái độ, niềm tin, sự hài lòng trong điều trị và tác động
và hành vi tự chăm sóc. Những công cụ đo lường đặc hiệu cho ĐTĐ đáp ứng tốt hơn
và nhạy hơn đối với hiệu quả điều trị và những vấn đề phong cách sống hơn là các chỉ
số đo lường chung bởi vì chúng có nhiều câu đánh giá về các lĩnh vực này (Bott et al.,
1998). Chúng có thể tiết lộ nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với việc điều trị ĐTĐ và sự
hiện diện của các biến chứng (Bradley, 2001). Những ví dụ về các bộ công cụ đo
lường ĐTĐ đặc biệt là Diabetes Quality of Life Measure (DQOL), the Diabetes Care
Profile (DCP), the Diabetes Health Profile (DHP), the Problem Areas in Diabetes
(PAID) scale, the Diabetes Health Profile (DHP), the Diabetes-39, the Diabetes
Symptom Checklist-type 2 (DSC-2), Diabetes Quality of Life Clinical Trial
Questionnaire (DQLCTQ) and the Audit of Diabetes Dependent QoL (ADDQoL).
Sự trang cãi về việc chọn lựa công cụ nào tốt nhất để đánh giá CLCSLQSK ở
bệnh nhân ĐTĐ vẫn còn. Bất chấp sự thật là một số nghiên cứu kết luận rằng những
đo lường chung cung cấp nhiều thông tin về CLCSLQSK hơn so với bộ công cụ đặc
hiệu (Parkerson et al., 1993), một số nghiên cứu cho thấy rằng bộ CLCSLQSK chung
lại có tính giá trị kém hơn (Anderson et al., 1997), và có thể phát hiện sự khác biệt
trong điều trị và bệnh chỉ khi những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng xảy ra (Jacobson et
al., 1994). Tuy nhiên các bộ công cụ chung và đặc hiệu đều kiểm tra CLCSLQSK và
bỗ trợ lẫn nhau (Jacobson, et al., 1994). Vì vậy việc kết hợp sử dụng cả bộ đo lường
15


16

đặc hiệu và chung là điều được khuyến cáo (Garratt et al., 2002; Woodcock et al.,
2001).

2.9Sự lựa chọn công cụ đo lường CLCSLQSK trong nghiên cứu này

Khi quyết định loại công cụ nào sẽ được sử dụng có một số tiêu chí cần phải
thoả. Điều quan trọng là bộ công cụ đó đã được kiểm tra tính giá trị và tính tin cậy
(bên trong lẫn bên ngoài). Khi bàn luận về những nghiên cứu trên bệnh nhân type 1 và
type 2 điều cần thiết là những câu hỏi này phải đặc hiệu cho ĐTĐ và chúng phải được
áp dụng cho cả hai nhóm. Những công cụ này phải được đánh giá và xem xét và một
số được gợi ý sử dụng bởi vì chúng có tính tin cậy và giá trị cao và đặc hiệu cho bệnh
và bộ câu hỏi phải được sử dụng trong tương lai và đáp ứng tốt với những thay đổi.
Tại Việt Nam, việc đánh giá CLCSLQSK ở bệnh nhân ĐTĐ chỉ được quan tâm
trong một vài năm gần đây. Hiện nay chỉ có hai nghiên cứu đánh giá CLCSLQSK trên
bệnh nhân ĐTĐ. Cả hai đều sử dụng bộ Sf-36 làm công cụ đánh giá CLCSLQSK ở
bệnh nhân ĐTĐ. Bộ Sf-36 đã được dịch sang tiếng Việt và đã chứng minh có tính giá
trị và tính tin cậy khi đo lường CLCSLQSK. Vì lý do này bộ SF-36 sẽ được sử dụng
trong nghiên cứu này.

16


17

Chương 3.
KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Xây dựng khung nghiên cứu
3.1.1. Khung nghiên cứu
Wilson và Cleary (1995) đề xuất một mô hình khái niệm toàn diện dành cho
CLCSLQSK trong đó có thể sử dụng để đưa vào bối cảnh khoa học xã hội và y sinh
học. Mô hình này vạch ra các mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm y tế. Mô hình
bao gồm một loạt các biến số đặc trưng bao gồm các đánh giá CLCSLQSK bên cạnh
kết hợp hai khía cạnh khác của sức khoẻ một trong số này được tạo bởi các nhà kho
học và một tạo bởi các nhà khoa học xã hội. Mô hình bao gồm 5 đặc trưng của bệnh
nhân bao gồm

(1) các yếu tố tâm sinh lý (2) tình trạng triệu chứng (3) trạng thái chức năng (4)
nhận thức sức khoẻ chung và (5) chất lượng cuộc sống chung. Bên cạnh đó các đặc
trưng của cá nhân cũng như các yếu tố môi trường cũng được đưa vào mô hình như là
những biến số tiên đoán không đặc hiệu của trạng thái triệu chứng, trạng thái chức
năng, nhận thức sức khoẻ tổng quát và chất lượng cuộc sống chung. Trước khi xây
dựng nên mô hình này phần lớn các nghiên cứu về CLCSLQSK ít khi dựa vào khung
lý thuyết (Sousa & Kwok, 2006). Việc đo lường CLCSLQSK mà không tham khảo
một mô hình khái niệm sẽ làm hạn chế sự hiểu biết về CLCSLQSK trong nhiều năm.
Mô hình của Wilson và Cleary đặt các khái niệm trong một bối cảnh và hướng dẫn
phát triển sự hiểu biết mới về các mối quan hệ giữa các yếu tố và kết quả là giúp nhân
viên y tế có thể xác định được và đo lường hợp lý các kết cục của bệnh nhân phản ánh
chăm sóc bệnh nhân.
Các phần dưới đây sẽ trình bày về mỗi khái niệm trong mô hình cụ thể hơn.
Yếu tố tâm sinh lý
Khái niệm đầu tiên, yếu tố tâm sinh lý tập trung vào chức năng của tế bào, cơ
quan và hệ thống cơ quan. Các ví dụ bao gồm các giá trị xét nghiệm chẩn đoán đối với
ĐTĐ type 1 và 2 chẳng hạn HbA1c và các kết quả khám lâm sàng chẳng hạn huyết áp
tâm thu và tâm trương. Sự ảnh hưởng lên sức khoẻ của các đặc điểm chịu ảnh hưởng
chủ yếu từ những thay đổi tế bào, cơ quan hoặc hệ thống cơ quan cũng bao gồm trong
thành phần này của mô hình.
17


18

Nghiên cứu này sử dụng nồng độ HbA1c, BMI như là biến thuộc yếu tố sinh lý
học. HbA1c được sử dụng thay cho đường huyết lúc đói bởi vì đây là một chỉ số dùng
để kiểm soát ĐTĐ tốt hơn so với đường huyết lúc đói. Giá trị HbA1c phản ánh bệnh
nhân quản lý đường huyết tốt như thế nào vào thời điểm khảo sát số liệu. Vì vậy
HbA1c được xem như là số đo tốt hơn so với nồng độ glucose lúc đói.

Tình trạng triệu chứng
Wilson và Cleary định nghĩa tình trạng triệu chứng là "nhận thức của bệnh nhân
về một trạng thái bất bình thường về tình cảm, thể chất hoặc nhận thức" và chia triệu
chứng thành (1) triệu chứng thực thể (2) triệu chứng tâm lý và (3) triệu chứng có
nguồn gốc không rõ là thực thể hay tâm lý chẳng hạn như ức chế tình cảm, sợ hãi, lo
lắng và mệt mỏi. Mô hình gợi ý rằng trạng thái triệu chứng bị ảnh hưởng bởi yếu tố
sinh lý học cũng như các đặc trưng của cá nhân và môi trường mặc dù ảnh hưởng của
các biến số về sinh lý học lên triệu chứng khá mơ hồ (Wilson & Cleary, 1995). Một
vài nghiên cứu về ĐTĐ báo cáo rằng nhiều bệnh nhân có nồng độ HbA1c tăng cao bất
thường trong một số thời điểm nhưng lại không có bất kỳ triệu chứng nào (Hiltunen,
Keinanen-Kiukaanniemi, Laara, & Kivela, 1996; O'Connor et al., 2006).
Tại Việt Nam việc đo lường các triệu chứng tâm lý không thể thực hiện bởi vì các
rào cản về văn hoá như bệnh nhân không thích bị hỏi về cảm xúc của họ hoặc họ sẽ
nói dối về cảm xúc của họ, vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi không thể khảo sát
các triệu chứng tâm lý. Thay vì vậy, chúng tôi tập trung vào việc xác định 5 nhóm
triệu chứng chính được hiệp hội ĐTĐ hoa kỳ (2006b; 2006c) định nghĩa thường xảy ra
ở bệnh nhân ĐTĐ. Những triệu chứng này bao gồm (1) mệt mỏi, (2) tiêu chảy, (3) vấn
đề về thị lực, (4) lơ mơ hoặc nhức đầu nhẹ khi đứng (5) thường đi tiểu nhiều lần.
Trạng thái chức năng
Mức độ tiếp theo trong mô hình chính là trạng thái chức năng tương tự như trạng
thái triệu chứng là một điểm tích hợp thiết yếu. Trong mô hình này trạng thái chức
năng đề cập đến khả năng cá nhân thực hiện các nhiệm vụ bao gồm các chức năng thể
chất, tâm lý và xã hội (Lipkin, 1990; Wilson & Cleary, 1995). Trạng thái chức năng
của bệnh nhân không những chịu ảnh hưởng bởi trạng thái triệu chứng mà còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố cá nhân và môi trường xã hội. Một số yếu tố thuộc nhóm
này có thể mô tả ở đây chính là cảm giác tự điều chỉnh bản thân, mối quan hệ gia đình
và chăm sóc sức khoẻ hoặc điều trị y khoa.
Nghiên cứu này khảo sát trạng thái chức năng của bệnh nhân bằng cách đánh giá
nhận thức về chức năng tự báo cáo của bệnh nhân bằng chỉ số chức năng thể chất,
18



19

chức năng xã hội và vai trò-thể chất và vai trò-tình cảm của thang đo SF-36v. Trong
khi phần chức năng thể chất đo lường khả năng của cá nhân thực hiện các hoạt động
thay đổi từ cơ bản đến nặng hơn mà không gây cản trở vì sức khoẻ, các chỉ số chức
năng xã hội đánh giá khả năng bệnh nhân thực hiện các hoạt động xã hội bình thường
mà không bị gián đoạn bởi các vấn đề tình cảm hoặc thể chất. trong nghiên cứu này
chỉ số vai trò-thể chất và vai trò-tình cảm được kết hợp để tạo thành chức năng vai trò
nhằm đánh giá sự hạn chế về thể chất hoặc tình cảm liên quan đến khả năng thực hiện
của đối tượng về công việc hoặc những hoạt động khác (Ware & Sherbourne, 1992).
Nhận thức sức khoẻ tổng quát
Khái niệm tiếp theo trong mô hình của Wilson và Clearay chính là nhận thức về
sức khoẻ tổng quá, một khía cạnh sức khoẻ chung của một người tự đánh giá. Theo
mô hình này sức khoẻ tổng quá có mối liên quan trực tiếp với trạng thái chức năng và
liên quan gián tiếp với trạng thái triệu chứng và yếu tố sinh lý học (Wilson & Cleary,
1995). Những mối liên hệ này đã được chứng minh thông qua nhiều nghiên cứu
(Barsky et al., 1992; Idler & Kasl, 1991; Wan, 1976). Bên cạnh đó, mô hình cũng gợi
ý rằng nhận thức sức khoẻ tổng quát cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cá nhân và môi
trường. Mặc dù nhận thức sức khoẻ tổng quát chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố trước đó
trong mô hình, chúng cũng khác biệt với các thành phần khác của mô hình. Hệ quả là
áp dụng các số đo của các thành phần khác chẳng hạn trạng thái triệu chứng hoặc chức
năng, để đánh giá nhận thức sức khoẻ tổng quá thì không phù hợp. Nhận thức sức
khoẻ chung thường được đo bằng một câu hỏi duy nhất rằng cá nhân tự đánh giá sức
khoẻ của họ theo một thang đo từ kém cho đến tuyệt vời mặc dù nó có thể được đo
bằng một nhóm các câu hỏi (Ferrans et al., 2005; Ware & Sherbourne, 1992).
Nghiên cứu này sử dụng bộ công cụ SF-36 sức khoẻ tổng quát để đo lường các
yếu tố nhận thức sức khoẻ tổng quát. Bộ câu hỏi này được sử dụng để đánh giá nhận
thức của bệnh nhân về cảm nhận của họ về sức khoẻ của họ.

Chất lượng cuộc sống tổng quát
Khái niệm cuối cùng trong mô hình của Wilson và Cleary là chất lượng cuộc
sống tổng quát. Chất lượng cuộc sống tổng quát đề cập đến mức độ hạnh phúc và/hoặc
nội dung mà một cá nhân cảm nhận về cuộc sống của họ. Chất lượng cuộc sống tổng
quát có liên hệ đến CLCSLQSK tuy nhiên nó cũng được quyết định bởi các hoàn cảnh
sống khác nhau và trải nghiệm khác nhau (Wilson & Cleary, 1995). Tuy nhiên, các chỉ
số tổng quát của sự hài lòng cuộc sống hoặc sự hạnh phúc không đủ mạnh liên hệ với
những tình huống trong cuộc sống khách quan như mong đợi (Diener, 1984). Chức
19


20

năng thấp có mối liên quan không thể chối cãi với mức độ hài lòng chung thấp
(Patrick, Danis,Southerland, & Hong, 1988). Một lý giải cho mối liên quan này chính
là con người thay đổi quan điểm của họ và mong đợi khi hoàn cảnh thay đổi (Patrick
& Erickson, 1993).
Nghiên cứu này sử dụng một câu hỏi từ bộ SF-36 để đánh giá chất lượng cuộc
sống tổng quát. Câu 9A trong bộ SF-36 hỏi đối tượng bao nhiêu lần trong 4 tuần qua
họ cảm thấy đầy đủ cuộc sống.
Các đặc điểm cá nhân và môi trường
Các đặc điểm cá nhân (ví dụ các giá trị và sở thích bệnh nhân) cũng như các đặc
điểm môi trường (ví dụ các sự hỗ trợ xã hội, kinh tế và tâm lý) được nhận biết như là
ảnh hưởng đến trạng thái triệu chứng, trạng thái chức năng, nhận thức sức khoẻ chung
và chất lượng cuộc sống chung (Ferrans et al., 2005; Wilson & Cleary, 1995).
Trong nghiên cứu này, tuổi, giới tính và trình độ học vấn, dân tộc, tình trạng nghề
nghiệp, thời gian mắc ĐTĐ, loại điều trị (insulin/thuốc uống/cả hai) và các bệnh đi
kèm được sử dụng làm các biến cho đặc điểm cá nhân. Thu nhập gia đình và số thành
viên gia đình sống cùng nhà được sử dụng làm đặc điểm môi trường.
3.1.2. Mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình

Mô hình này giả sử rằng CLCSLQSK tổng quát liên quan trực tiếp với nhận thức
sức khoẻ tổng quát và các đặc điểm của cá nhân và môi trường. Trạng thái chức năng
ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng cuộc sống tổng quát thông qua nhận thức sức khoẻ
tổng quát. Tương tự trạng thái triệu chứng cũng ảnh hưởng CLCSLQSK tổng quát một
cách gián tiếp thông qua trạng thái chức năng và nhận thức sức khoẻ tổng quát. Trạng
thái triệu chứng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố sinh lý học. Vì vậy những yếu tố
này cũng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống tổng quát. Cuối cùng nhận thức sức
khoẻ tổng quát, trạng thái chức năng, trạng thái triệu chứng và các yếu tố sinh lý học
đều bị ảnh hưởng bởi các đặc điểm cá nhân và môi trường. Vì vậy những đặc điểm
này vừa tác dụng trực tiếp và gián tiếp (thông qua trạng thái triệu chứng, trạng thái
chức năng, và nhận thức sức khoẻ tổng quát) lên chất lượng cuộc sống chung (Wilson
& Cleary, 1995).

20


21

Đặc điểm cá nhân
Tuổi
Giới tính
Trình độ học vấn
Tình trạng hôn nhân
Dân tộc
Tình trạng nghề nghiệp
Thời gian mắc ĐTĐ
Loại điều trị
Bệnh đi kèm

Yếu tố sinh lý học

HbA1C
BMI

Trạng thái triệu chứng
5 triệu chứng chính

Trạng thái chức năng
Chức năng thể chất
Chức năng xã hội
Chức năng tinh thần

lượngtổng
cuộc
sống của bệnh nhân Đái tháo đường type 2
Nhận thứcChất
sức khoẻ
quát

Đặc điểm môi trường
Thu nhập gia đình
Số thành viên gia đình

21


22

3.1.3. Định nghĩa thuật ngữ
ĐTĐ type 2: là một rối loạn chuyển hoá được định nghĩa là sự khiếm khuyết trong sử
dụng insuling hoặc sản xuất insulin và dựa trên những tiêu chí chẩn đoán của nghiên

cứu mẫu.
Các bệnh đi kèm trong nghiên cứu: là những bệnh đồng tồn tại thường thấy ở bệnh
nhân ĐTĐ type 2 bao gồm (1) bệnh tim mạch hay động mạch vành (2) bệnh mạch
máu ngoại biên (3) đột quỵ (4) bệnh thận (5) vấn đề tâm lý (lo lắng và trầm cảm hoặc
các vấn đề tâm thần khác) (6) cao huyết áp hoặc tăng huyết áp (7) thấp khớp hoặc
viêm khớp.
Chất lượng cuộc sống tổng quát: là nhận thức của cá nhân về tình trạng sức khoẻ
chung của bệnh nhân và được đo bằng bộ câu hỏi SF-36.
Chất lượng cuộc sống chung: là một đánh giá thành phần của chất lượng môi trường
xã hội, kinh tế và thể chất cũng như sức khoẻ và sự khoẻ mạnh. Nghiên cứu này đánh
giá chất lượng cuộc sống tổng quát sử dụng câu 9A trong SF-36.
Nhận thức sức khoẻ tổng quát: là những nhận thức chủ quan về sức khoẻ đối tượng và
được đo lường bằng chỉ số sức khoẻ tổng quát của bộ SF-36.
Trạng thái chức năng: là khả năng cá nhân thực hiện các nhiệm vụ cụ thể chẳng hạn đi
bộm chạy bộ hoặc nâng vật. chỉ số thể chất của bộ SF-36 và chức năng vai trò (sự kết
hợp giữa vai trò-thể chất và vai trò-tình cảm) và chỉ số chức năng xã hội được sử dụng
để đánh giá nhận thức của bệnh nhân về trạng thái chức năng của họ.
Trạng thái triệu chứng: là nhận thức của cá nhân về tình trạng nhận thức tình cảm thẩ
chất bất thường được đo lường bằng cách hỏi 5 triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân
ĐTĐ.
Các yếu tố sinh lý học: là những chức năng của tế bào, cơ quan và hoặc hệ thống cơ
quan mà những thay đổi của chúng có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ cá nhân. Trong
nghiên cứu này sử dụng HBA1c, BMI, làm biến số cho các yếu tố này.
Các đặc điểm cá nhân: là những yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến kết cục sức khoẻ chẳng
hạn các yếu tố sinh lý tâm lý phát triển dân số học. Trong nghiên cứu này tuổi, giới
tính, tình trạng hôn nhân, dân tộc, trình độ giáo dục, thời gian mắc ĐTĐ, loại điều trị,
bệnh đi kèm được sử dụng làm biến số cho nhóm đặc điểm này.
Các đặc điểm môi trường: là những yếu tố môi trường ảnh hưởng đến kết cục sức
khoẻ. Thu nhập gia đình và số thành viên gia đình được sử dụng là chỉ số cho đặc
điểm môi trường.

22


23

3.2.Các vấn đề lấy mẫu
3.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này được thiết kế là một nghiên cứu cắt ngang mô tả.
3.2.2. Cỡ mẫu
Dữ liệu trong nghiên cứu được thu thập trong vòng một tháng (tháng 1/20142/2014). Theo thống kê của bệnh viện có tổng cộng 26.292 bệnh nhân mắc ĐTĐ đến
khám tại bệnh viện đa khoa quận 11 năm 2012. Như vậy số bệnh nhân ước tính trong
một tháng là khoảng 2.191. Từ dân số lấy mẫu này có thể tính cỡ mẫu dựa trên công
thức sau.
2
σ2
2 24
n = Z 2 = 1.96
= 88
d
5
2

Trong đó
Lấy khoảng tin cậy 95%  Z = 1,96

σ : độ lệch chuẩn. Trong nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Khoa (Vo & Nguyen, 2007)
khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ĐTĐ, chỉ số trung bình của SF-36 sức
khoẻ tổng quát có điểm trung bình là 34.7 ± 24.0. Dựa trên nghiên cứu này độ lệch
chuẩn ước lượng trong nghiên cứu này là 24.0
d (độ rộng khoảng tin cậy mong muốn: 5

Nghiên cứu này sẽ bao gồm các đối tượng mắc ĐTĐ type 2 có độ tuổi từ 20-65
tuổi đến khám và điều trị tại bệnh viện đa khoa quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Mẫu
nghiên cứu bao gồm bệnh nhân nam và nữ thuộc nhiều giai đoạn chẩn đoán khác như
như những ca mới và những ca đã được chẩn đoán một vài năm. Những bệnh nhân có
hoặc không có biến chứng cũng được đưa vào nghiên cứu này.
Những trẻ vị thành niên và bệnh nhân người cao tuổi không được đưa vào trong
nghiên cứu này bởi vì những trải nghiệm của họ khác với những người trưởng thành vì
vậy là những vấn đề riêng có thể tác động đến chất lượng cuộc sống chẳng hạn đi học,
bị gia đình bỏ quên. Ngoài ra, nghiên cứu loại trừ những bệnh nhân có vấn đề khuyết
tật về tinh thần không thể hoàn tất bộ câu hỏi cần phải có một mức độ hiểu biết nhất
định.
3.4.2. Công cụ thu thập số liệu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này đến từ hai bộ câu hỏi:
Bộ câu hỏi đặc điểm dân số xã hội học
Câu hỏi này bao gồm ba phần:
23


24

Phần A: Các đặc tính dân số học. Phần này gồm 7 câu hỏi chính được thiết kết để đánh
giá các đặc điểm dân số xã hội học bao gồm tuổi giới tính, tình trạng hôn nhân, trình
độ học vấn, tình trạng nghề nghiệp, thu nhập gia đình và dân tộc.
Phần B: các bệnh đi kèm và tiệu chứng của bệnh nhân. Trong nghiên cứu hiện tại
quyết định sự hiện diện hoặc không có mặt của các triệu chứng chính sau đây: (1)
bệnh tim mạch (2) bệnh mạch vành, (3) đột quỵ (4) bệnh thận (5) các vấn đề về tâm
lý (6) cao huyết áp (7) bệnh cơ xương khớp. Những bệnh mạn tính này được lựa chọn
bởi vì sự kết hợp giữa chúng được báo cáo trong nhiều nghiên cứu. Số bệnh mạn tính
được dựa trên số lượng bảy bệnh được đối tượng báo cáo.
Chỉ có 3 triệu chứng chính trong nghiên cứu này được áp dụng (ADA, 2006a,

2006b) là: (1) mệt mỏi, (2) tiêu chảy, (3) vấn đề thị giác, (4) lơ mơ hoặc nhức đầu nhẹ
khi đứng và (5) tiểu nhiều thường xuyên. Sự hiện diện của mỗ triệu chứng được đo
lường bằng ảnh hưởng của chúng lên chất lượng cuộc sống tạo thành điểm triệu
chứng. Điểm triệu chứng bằng 0 khi không có triệu chứng hiện diện, bằng 1 khi triệu
chứng được báo cáo nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống bằng 2 nếu
triệu chứng được báo cáo là có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Điểm triệu
chứng được cộng cho tất cả 5 triệu chứng để tạo thành tổng điểm triệu chứng với
khoảng từ 0-10. Chỉ số càng cao chứng tỏ triệu chứng càng tác động đến chất lượng
cuộc sống.
Phần C: các đặc điểm nhân trắc học và biến số xét nghiệm
Trọng lượng và chiều cao của bệnh nhân được đo lường để tính BMI.
HbA1c, là một xét nghiệm dùng để đo lượng glycolated hemoglobin trong máu
bệnh nhân dùng để đánh giá sự kiểm soát đường huyết của bệnh nhân theo thời gian
với khoảng thời gian là 3 tháng (Gale Research, 2002). Kết quả của nghiên cứu thu
được mẫu máu sau 5 phút bằng máy phân tích máu (Tosoh 2.2 A1c Plus
Glycohemoglobin Analyzer, Tosoh Medics, Foster City, CA). Nhìn chung, giá trị
HbA1c cao chứng tỏ bệnh nhân có nguy cơ biến chứng cao chẳng hạn các bệnh về
mắt, bệnh thận và bệnh tim mạch (Nordenson, 2006). Nghiên cứu này sử dụng HbA1c
làm chỉ số để đo lường khả năng kiểm soát đường huyết của họ. giá trị bình thường
của HbA1c ở người bình thường là < 6% (120 mg/dL). Ở người ĐTĐ được điều trị giá
trị HbA1c > 7% chứng tỏ rằng bệnh nhân kiểm soát bệnh kém.

3.5. Quản lý số liệu và phân tích số liệu
24


25

3.5.1. Nghiên cứu thử
Một nghiên cứu thử được tiến hành để kiểm tra tính giá trị và tính ổn định của bộ

câu hỏi SF-36 trong nghiên cứu này. 10 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên để đưa
vào nghiên cứu thử. Bệnh nhân sẽ hoàn tất bộ câu hỏi 2 lần một lần tại thời điểm khảo
sát thử và một lần sau đó 2 tuần. .
3.5.2. T1inh giá trị và độ tin cậyy
Tính giá trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi được đánh giá bằng chỉ số Cronbach và
hệ số test-retest.
3.5.3. Thu thập số liệu
Bệnh nhân đến khám tại phòng khám ĐTĐ sẽ được tham khám bình thường và sẽ
trở thành đối tượng tiềm năng của nghiên cứu. Trong khi chờ đợi tại khu vực hẹn hoặc
nằm tại khoa điều trị bệnh nhân sẽ được hỏi có muốn tham gia nghiên cứu hay không.
Một khi họ đồng ý những điều khoản nghiên cứu và bảng đồng thuận nghiên cứu sẽ
được ghi nhận cho tất cả bệnh nhân. Một khi đồng ý tham gia nghiên cứu bệnh nhân
sẽ hoàn tất bộ câu hỏi SF-36 cũng như bộ câu hỏi dân số xã hội học. Một khi những bộ
câu hỏi này hoàn tất mỗi câu hỏi được mã hoá bằng cách gán cho mỗi bệnh nhân một
số thứ tự để có thể đảm bảo tính bảo mật và không thể thu nhập thông tin của bệnh
nhân. Các chỉ số nhân trắc học như cân nặng, chiều cao được thu thập trong quá trình
cuộc hẹn. Điều này không độc nhất trong nghiên cứu bởi vì đây là thường quy thăm
khám cho bệnh nhân. Bất kỳ mẫu máu được lấy cũng chỉ là thường quy trong các đợt
khám và tư vấn cho bệnh nhân. Chẳng hạn xét nghiệm HbA1c được làm thường xuyên
cho tất cả bệnh nhân tại bệnh viện bất kể rằng họ có tham gia nghiên cứu hay không.
Một khi tất cả bộ câu hỏi hoàn tất và các chỉ số nhân trắc học được ghi nhận dữ liệu sẽ
được nhập vào máy để phân tích.
Bất kỳ tiền sử y khoa liên quan nào đều được thu thập từ hồ sơ bệnh án. Các
thông tin chẳng hạn thời gian bệnh, biến chứng và các điều kiện đi kèm cũng được thu
thập thông qua hồ sơ bệnh án. .
Cân nặng được đo lường bằng thước dây và được thực hiện với bệnh nhân mặc
đồ nhẹ không mang giày và được chỉnh về số gần nhất là 0,1 kg. Trung bình hai lần đo
được lấy để tính cân nặng của bệnh nhân. Chiều cao được đo bằng thước đây gắn trên
tường với chiều cao làm tròn 0,5 cm với bệnh nhân đứng thẳng. Bệnh nhân cũng phải
cởi giày và giữ thẳng đầu để đo được chính xác. Trung bình hai lần đo sẽ được dùng

để tính chiều cao bệnh nhân. Chỉ số BMI được đo bằng cách lấy cân nặng (kg)/(chiều
25


×