Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Định giá tài sản và xác định lợi nhuận trên các báo cáo tài chính.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 144 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VÀ
XÁC ĐỊNH LI NHUẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH ..................... 7
1.1 BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH



NHU

CẦU

THÔNG

TIN. .................... 8
1.1.1 Vai trò của kế toán và nhu cầu của người sử dụng thông tin ..... 8
1.1.2 Báo cáo tài chính và thông tin cần thiết của các đối tượng sử
dụng thông tin. .................................................................................... 10
1.2 TÀI

SẢN



VIỆC



ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN

GHI

NHẬN

TRÊN

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH............................................................... 16
1.2.1 Đònh nghóa Tài sản ................................................................... 16
1.2.2 Phương pháp đònh giá tài sản ................................................... 18
1.3 LI

NHUẬN




VIỆC

XÁC

ĐỊNH

LI

NHUẬN

TRÊN

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH...............................................................

20
1.3.1 Khái niệm lợi nhuận................................................................. 20
1.3.2 Xác đònh lợi nhuận ................................................................... 22
1.4 MỐI

QUAN

HỆ

GIỮA


VIỆC

ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN



XÁC

ĐỊNH

LI

NHUẬN. ..................................................................... 27
1.5 CƠ

SỞ

LẬP



TRÌNH


BÀY

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH

THEO

ỦY

BAN

CHUẨN

MỰC

KẾ

TOÁN

QUỐC

TẾ




ỦY

BAN

CHUẨN

MỰC

ĐỊNH

GIÁ

QUỐC

TẾ. ........................................................................... 29
1.5.1 Khuôn mẫu lý thuyết của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế. 29
1.5.2 Các chuẩn mực thẩm đònh giá của Ủy ban chuẩn mực đònh giá
quốc tế................................................................................................. 38
1.5.3 Xu hướng hội tụ giữa các chuẩn mực kế toán quốc tế và
các chuẩn mực đònh giá quốc tế.......................................................... 41


1.6 ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN


TRÊN

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH

THEO

ỦY

BAN

CHUẨN

MỰC

KẾ

TOÁN

QUỐC

TẾ




THỰC

TẾ

TẠI

MỘT

SỐ

QUỐC

GIA. ............................................................................ 42
1.7 TÁC

ĐỘNG

CỦA

LẠM

PHÁT

ĐỐI

VỚI

CÁC

CHỈ


TIÊU

TRÊN

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH.......................................................................... 46
1.7.1 Giá trò tài sản và sự tác động của lạm phát.............................. 47
1.7.2 Lợi nhuận và sự tác động của lạm phát. .................................. 48
KẾT

LUẬN

CHƯƠNG

1........................................................................ 49
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KẾ TOÁN VIỆT NAM
VÀ VẤN ĐỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN- XÁC ĐỊNH LI NHUẬN TRÊN
CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH................................................................... 51
2.1 ĐẶC

ĐIỂM

CỦA


HỆ

THỐNG

KẾ

TOÁN

VIỆT

NAM



VẤN

ĐỀ

ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN-

XÁC

ĐỊNH


LI

NHUẬN................................... 51
2.1.1 Trước năm 1986 ....................................................................... 51
2.1.2 Trong nền kinh tế thò trường..................................................... 51
2.1.3 Hệ thống kế toán Việt nam đang được áp dụng hiện nay........ 57
2.1.4 Vai trò của kế toán trong doanh nghiệp................................... 59
2.2 THỰC

TRẠNG

ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN



XÁC

ĐỊNH

LI

NHUẬN

TRONG


HỆ

THỐNG

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH

CỦA

VIỆT

NAM. ......... 60
2.2.1 Việc đònh giá tài sản trên Bảng cân đối kế toán...................... 60
2.2.2 Việc xác đònh lợi nhuận trên bảng kết quả hoạt động
kinh doanh........................................................................................... 66
2.3 CÁC

MẶT

HẠN

CHẾ

LIÊN


QUAN

ĐẾN

VIỆC

ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN



XÁC

ĐỊNH

LI

NHUẬN

TRONG

HỆ

THỐNG


BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH

CỦA

VIỆT

NAM............................................................... 74
2.3.1 Đònh giá tài sản trên bảng cân đối kế toán. ............................. 74
2.3.2 Xác đònh lợi nhuận trên bảng kết quả hoạt động kinh doanh... 80
2.3.3 Thuyết minh báo cáo tài chính................................................. 87
2.3.4 Mối quan hệ giữa đònh giá và xác đònh lợi nhuận.................... 90



2.4 HẠN

CHẾ

CỦA

CÁC

THÔNG


TIN

ĐÁP

ỨNG

TRÊN

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH............................................................................................ 91
KẾT

LUẬN

CHƯƠNG

2........................................................................ 92
CHƯƠNG 3- ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VÀ XÁC ĐỊNH LI NHUẬN
TRÊN CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH....................................................... 94
3.1 MỤC

TIÊU

CỦA


VIỆC

HOÀN

THIỆN......................................... 94
3.1.1 Tăng cường tính hữu dụng của thông tin trên báo cáo
tài chính............................................................................................... 94
3.1.2 Nâng cao tính phù hợp giữa hệ thống chuẩn mực kế toán
Việt nam và các quy đònh pháp lý hiện hành có liên quan. ................ 96
3.1.3 Nâng cao tính phù hợp của thông tin kế toán với các thông lệ
quốc tế về kế toán và nhu cầu hội nhập. ............................................ 96
3.2 PHƯƠNG

PHÁP

HOÀN

THIỆN

VIỆC

ĐỊNH

GIÁ

TÀI

SẢN




XÁC

ĐỊNH

LI

NHUẬN

TRÊN

HỆ

THỐNG

BÁO

CÁO

TÀI

CHÍNH............................................................................................ 97
3.2.1 Việc đònh giá tài sản trên Bảng cân đối kế toán...................... 98
3.2.2 Xác đònh lợi nhuận trên bảng kết quả hoạt động kinh doanh. 114
3.2.3 Thuyết minh báo cáo tài chính............................................... 127
3.3 KIẾN

NGHỊ




BIỆN

PHÁP

ÁP

DỤNG. ................................... 128
3.3.1 Trình bày một số các vấn đề cần sửa đổi bổ sung liên quan
đến các đề xuất. ................................................................................ 128
3.3.2 Các kiến nghò khác có liên quan. ........................................... 133
KẾT

LUẬN

CHƯƠNG

3...................................................................... 137
KẾT LUẬN............................................................................................... 138
Danh mục công trình của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
LỜI MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của các hoạt động kinh doanh trong nền kinh
tế thò trường, kế toán - ngôn ngữ của kinh doanh - cũng từng bước thay đổi

nhằm phù hợp và trở thành công cụ thiết yếu phục vụ cho công việc quản
lý vi mô cũng như vó mô trong nền kinh tế.
Hệ thống kế toán Việt Nam ban hành ngày 01 tháng 11 năm 1995
theo quyết đònh 1141 TC/CĐKT của Bộ tài chính với mục tiêu đặt ra là
“xây dựng và vận hành một hệ thống kế toán phù hợp với nền kinh tế thò
trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, đồng thời hòa nhập với hệ thống
kế toán các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, trên cơ sở vận dụng
có sáng tạo những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán quốc tế và mô hình kế
toán của các nước có nền kinh tế thò trường phát triển tương xứng với nền
kinh tế thò trường nước ta”. Về cơ bản, hệ thống kế toán hiện hành đã và
đang được xây dựng theo xu hướng phù hợp với các thông lệ kế toán quốc
tế nhằm tạo dựng khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán trong môi
trường pháp lý chung của nền kinh tế Việt nam và góp phần thúc đẩy tiến
trình hội nhập của Việt nam với sự phát triển các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới.
Thông tin trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp hiện nay trên
thế giới đang có nhiều thay đổi cơ bản. Sự thay đổi này xuất phát từ yêu
cầu đòi hỏi cần phải đáp ứng một cách đầy đủ và đa dạng nhu cầu thông
tin của các đối tượng sử dụng trong nền kinh tế toàn cầu.
Hệ thống kế
toán
Việt nam trong nền kinh tế thò trường được thiết kế và phát triển với
nhận thức mới về đối tượng sử dụng thông tin. Thông tin trên báo cáo tài
chính là căn cứ quan trọng của các quyết đònh quản lý, đầu tư và vay nợ,
vì thế các báo cáo tài chính cần cung cấp các thông tin cần thiết, và phù
hợp với
nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng đã được xác lập. Tuy
nhiên, các quy đònh về lập và trình bày thông tin trên các báo cáo tài chính
trong hệ thống kế toán Việt nam hiện nay vẫn còn chòu ràng buộc bởi các
quy đònh theo hướng đối tượng sử dụng thông tin chủ yếu là Nhà nước với

mục tiêu kiểm soát, một số các quy đònh vẫn chưa được xác lập một cách
rõ ràng, cụ thể để có thể đáp ứng một cách đầy đủ yêu cầu thông tin của
các đối tượng trong nền kinh tế thò trường cũng như sự phù hợp với các
chuẩn mực kế toán quốc tế.



Cụ thể, các phương pháp đònh giá tài sản vẫn có những quy đònh
chưa hoàn chỉnh trong từng trường hợp cụ thể, vẫn còn sự trùng lắp, hay
mâu thuẫn giữa các quy đònh gây khó khăn cho việc lập và trình bày báo
cáo tài chính.
Bên cạnh đó, việc xác đònh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hiện nay vẫn chòu sự chi phối trực tiếp bởi luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, các doanh nghiệp vẫn chưa phân biệt rõ ràng giữa việc xác
đònh lợi nhuận theo mục tiêu tài chính và việc xác đònh lợi nhuận theo
mục tiêu tính thuế. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều cho rằng lợi
nhuận theo mục tiêu tính thuế hay lợi nhuận chòu thuế mới chính là lợi
nhuận được các đối tượng sử dụng thông tin kế toán bên ngoài doanh
nghiệp chấp nhận, còn lợi nhuận theo mục tiêu tài chính hay lợi nhuận kế
toán là thông tin chỉ sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp
.
Hệ thống báo cáo tài chính trong hệ thống kế toán Việt nam hiện
nay về cơ bản đã có những thay đổi phù hợp với nhu cầu thông tin của các
đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, việc đònh giá tài sản và xác đònh kết quả
hoạt động kinh doanh được ghi nhận trên các báo cáo tài chính vẫn chưa
được xác lập một cách rõ ràng và cụ thể để có thể đáp ứng một cách đầy
đủ yêu cầu thông tin đa dạng của các đối tượng trong nền kinh tế thò
trường cũng như sự phù hợp với hệ thống các nguyên tắc kế toán được
chấp nhận rộng rãi và các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Đứng trước thực trạng này, chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên

cứu nhằm hoàn thiện các quy đònh hướng dẫn cho việc lập và trình bày các
báo cáo tài chính liên quan đến vấn đề đònh giá phục vụ cho nhu cầu
thông tin cần thiết của các đối tượng sử dụng trong mối quan hệ với việc
xác đònh và phân biệt kết quả hoạt động kinh doanh theo mục tiêu tài
chính và mục tiêu tính thuế thực sự là một trong những nhu cầu cấp thiết
nhằm hoàn thiện hơn hệ thống kế toán Việt nam hiện nay cũng như trong
thời gian sắp tới. Từ nhận đònh đó, chúng tôi đã chọn đề tài:
“Đònh giá tài sản và xác đònh lợi nhuận trên các báo cáo tài chính.”

2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đề tài nghiên cứu hướng đến các mục tiêu chính:



- Xác đònh rõ mối quan hệ giữa việc chọn lựa các phương pháp đònh giá tài
sản và xác đònh lợi nhuận trên báo cáo tài chính và nhu cầu thông tin của
các đối tượng sử dụng trong lý luận và thực tiễn.
- Hoàn thiện các nội dung trong hệ thống kế toán Việt nam liên quan đến
vấn đề đònh giá tài sản nhằm nâng cao chất lượng của báo cáo tài chính
đáp ứng nhu cầu của các đối tượng sử dụng.
- Xác đònh rõ sự khác biệt giữa lợi nhuận kế toán theo mục tiêu tài chính
và lợi nhuận kế toán theo mục tiêu tính thuế.
- Thiết lập các báo cáo kết quả kinh doanh tách biệt giữa mục tiêu tài
chính và mục tiêu tính thuế.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghò cụ thể có liên quan việc đònh giá tài
sản và xác đònh lợi nhuận trên báo cáo tài chính.
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu các phương pháp đònh giá tài sản và xác đònh lợi
nhuận trên các báo cáo tài chính trong hệ thống kế toán doanh nghiệp
Việt nam để đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết của các đối tượng sử

dụng khác nhau trong nền kinh tế thò trường.
* Phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu 2 vấn đề chính:
- Việc đònh giá tài sản trình bày trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp. Đề tài không đi vào nghiên cứu việc đánh giá tài sản doanh
nghiệp nói chung.
- Lợi nhuận kế toán với 2 dữ liệu đầu ra là lợi nhuận theo mục tiêu tài
chính và lợi nhuận theo mục tiêu tính thuế trên báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng chỉ đạo việc nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp quy nạp để nghiên cứu các vấn đề lý luận và trình
bày quan điểm về các vấn đề liên quan.
- Sử dụng phương pháp thống kê và phân tích để nghiên cứu các vấn đề
thực tiễn.



- Sử dụng phương pháp tổng hợp đưa ra các đề xuất theo các mục tiêu đã
đònh hướng.
4. Những đóng góp của luận án:
Luận án đã có những đóng góp mới như sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về tài sản và đònh giá tài sản trên báo cáo tài chính.
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về lợi nhuận và xác đònh lợi nhuận theo
mục tiêu tài chính và theo mục tiêu tính thuế.
- Đề xuất sử dụng giá thò trường trong việc đònh giá tài sản trên báo cáo
tài chính, kết hợp với thuyết minh giá gốc nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin
đa chiều của các đối tượng sử dụng.
- Tổng hợp thực trạng, chỉ ra các khiếm khuyết về vấn đề đònh giá tài sản
và xác đònh lợi nhuận trên các báo cáo tài chính trong hệ thống kế toán
hiện nay.

- Thiết lập sự tách biệt giữa bảng kết quả kinh doanh theo mục tiêu tài
chính và theo mục tiêu tính thuế.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc đònh giá tài sản và xác đònh lợi
nhuận nhằm nâng cao chất lượng của các báo cáo tài chính và đáp ứng
một cách đầy đủ nhu cầu sử dụng thông tin trong nền kinh tế thò trường.
1 CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VÀ
XÁC ĐỊNH LI NHUẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH




1.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ NHU CẦU THÔNG TIN.
1.1.1 Vai trò của kế toán và nhu cầu của người sử dụng thông tin
Vai trò của kế toán là cung cấp các thông tin về kết quả tác động
của các sự kiện, nghiệp vụ kinh tế đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Các thông tin kế toán cung cấp sẽ tạo cầu nối liên kết các nhà
quản lý với các hoạt động của doanh nghiệp cũng như liên kết doanh
nghiệp và môi trường kinh doanh.
Tính hữu dụng của thông tin kế toán trong tiến trình ra quyết đònh
của các đối tượng sử dụng thông tin kế toán đã và đang là một đề tài
nghiên cứu khoa học suốt các thập kỷ qua. Các nghiên cứu thường tập
trung vào sự tác động của các thông tin trình bày trên các báo cáo tài
chính đến quyết đònh kinh tế của các đối tượng sử dụng thông tin. Các
thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính chòu ảnh hưởng của 2 nhóm
đối tượng là nội bộ doanh nghiệp, và những người sử dụng bên ngoài
doanh nghiệp.
- Nội bộ doanh nghiệp:
Là những nhà quản lý của doanh nghiệp. Theo từng cấp độ, những
nhà quản lý của một doanh nghiệp là nhóm đối tượng chính sử dụng các

thông tin kế toán. Các nhà quản lý chòu trách nhiệm trong việc hoạch đònh
kế hoạch, thực hiện kế hoạïch và kiểm soát các hoạt động của doanh
nghiệp. Kết quả của công việc quản lý được đo lường thông qua các số
liệu kế toán. Các nhà quản lý doanh nghiệp luôn phải đưa ra các quyết
đònh phù hợp với những kế hoạch, và mục tiêu đã đề ra. Để có những
quyết đònh đúng đắn, họ cần phải có những thông tin có giá trò và kòp thời.
Phần lớn các quyết đònh thường căn cứ vào nguồn thông tin kế toán và sự
phân tích nguồn thông tin này.
- Những người bên ngoài sử dụng thông tin
Những người bên ngoài sử dụng thông tin kế toán có thể chia ra
thành 2 nhóm người:
+ Những người sử dụng thông tin kế toán có quyền lợi trực tiếp về tài
chính:



Là các nhà nhà đầu tư và những người cho vay. Các nhà đầu tư cần
biết các thông tin tài chính về khả năng sinh lợi và rủi ro tiềm tàng liên
quan đến vốn đầu tư. Họ cần những thông tin để xác đònh xem khi nào thì
nên mua, nên giữ lại hay nên bán các khoản đầu tư cũng như các thông tin
về khả năng thanh toán các khoản cổ tức của doanh nghiệp. Những người
cho vay cần những thông tin kế toán về giá trò các tài sản thế chấp nợ vay,
và khả năng thanh toán của doanh nghiệp khi các khoản nợ gốc và lãi vay
đến hạn.
+ Những người sử dụng thông tin kế toán có quyền lợi gián tiếp về tài
chính:
Bao gồm các nhóm người như:
+ Chính phủ và các cơ quan của chính phủ: cần những thông tin kế toán
nhằm kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, xác đònh các chính sách
thuế, nguồn thu ngân sách và xem đó là cơ sở để thống kê thu nhập quốc

dân cũng như các chỉ tiêu vó mô khác.
+ Các nhà cung cấp và các khách hàng: quan tâm đến những thông tin tài
chính về khả năng thanh toán cũng như khả năng tiếp tục hoạt động của
doanh nghiệp khi họ có những mối liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp.
+ Những nhóm người khác: như những nhà phân tích tài chính và những cố
vấn, người môi giới kinh doanh, báo chí, những nhà nghiên cứu kinh doanh
và công chúng. Họ cần những thông tin tài chính dưới nhiều dạng về xu
hướng phát triển và khả năng tăng trưởng trong các lónh vực hoạt động của
doanh nghiệp.
Tiến trình phát triển và thông đạt những thông tin tài chính cho
những người sử dụng bên ngoài đơn vò thường được gọi là kế toán tài
chính. Những người bên ngoài đơn vò vì sự tách biệt của họ đối với tổ
chức, vì thế họ thường phải dựa vào những báo cáo tài chính của tổ chức
để có được các thông tin cần thiết trong việc thực hiện các quyết đònh.



1.1.2 Báo cáo tài chính và thông tin cần thiết của các đối tượng sử
dụng thông tin.
1.1.2.1 Các đối tượng sử dụng thông tin
Các nhóm đối tượng sử dụng thông tin kế toán với các nhu cầu thông
tin khác nhau làm nảy sinh tính đa dạng và phức tạp đối với nhu cầu thông
tin cần cung cấp.
Sử dụng biểu đồ Venn để diễn giải tính đa dạng của các thông tin kế
toán cần thiết từ các nhóm đối tượng:
- Nhóm đối tượng I: Những người bên ngoài, nhu cầu thông tin cần thiết
thể hiện ở vòng tròn I.
- Nhóm đối tượng II: Nội bộ doanh nghiệp, nhu cầu thông tin cần thiết thể
hiện ở vòng tròn II.

Dựa vào biểu đồ Venn 1.2 trên, các phương pháp cung cấp thông tin trên
các báo cáo tài chính đã được đề xuất và gây nhiều tranh cãi như sau:
Bên
ngoài

Nội bộ
doanh
nghiệp
I
I
+
II
Biểu đồ 1.1- Thông tin kế toán và đối tượng sử dụng
II

Phương pháp 1: Chọn nhu cầu thông tin của nhóm đối tượng I là chính, và
cung cấp thêm các thông tin hỗ trợ cho nhóm II (Vòng tròn I).
Phương pháp 2: Chọn nhu cầu thông tin của nhóm đối tượng II là chính, và
cung cấp thêm các thông tin hỗ trợ cho nhóm I (Vòng tròn II).



Phương pháp 3: Chọn nhu cầu thông tin chung của 2 nhóm đối tượng là
chính (Phần giao nhau của 2 vòng tròn I và II).
1.1.2.2 Báo cáo tài chính và mục tiêu cung cấp thông tin
Phần lớn các báo cáo tài chính hiện nay tại các quốc gia cung cấp
thông tin theo phương pháp I (trọng tâm cung cấp thông tin cho người sử
dụng bên ngoài doanh nghiệp). Các báo cáo tài chính này thường gọi là
các báo cáo tài chính theo mục đích chung, và không nhằm ý đònh đáp
ứng nhu cầu của những người sử dụng đòi hỏi những nhu cầu thông tin cụ

thể của họ. Các báo cáo tài chính theo mục đích chung bao gồm những
báo cáo được trình bày tách biệt hay kèm theo những báo cáo khác như
báo cáo thường niên của doanh nghiệp.
Mục tiêu của những báo cáo tài chính theo mục đích chung là nhằm
thể hiện những tác động về mặt kinh tế của những nghiệp vụ cũng như các
sự kiện đã xảy ra đối với tình trạng tài chính và quá trình hoạt động kinh
doanh của đơn vò. Mặc dù có nhiều cách khác nhau trong việc thể hiện
những thông tin tài chính, tuy nhiên những báo cáo tài chính cho mục đích
chung thường trình bày những thông tin tài chính phù hợp với những quyết
đònh về đầu tư (đối với nhà đầu tư), tín dụng (đối với những chủ nợ), và
những chính sách chung.
Nhằm thực hiện 3 mục tiêu này, các loại báo cáo tài chính thường
được sử dụng là:
- Báo cáo về tình trạng tài chính: Bảng Cân đối Kế toán.
- Những báo cáo về sự thay đổi liên quan đến 1 thời kỳ:
+ Bảng kết quả kinh doanh.
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Những báo cáo tài chính này được bổ sung với nhiều thông tin chi
tiết trên các bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Những thông tin bổ sung
trên thuyết minh báo cáo tài chính là một phần không thể tách rời của các
báo cáo tài chính.



1.1.2.3 Sử dụng thông tin trên các báo cáo tài chính
Các quyết đònh kinh tế của các đối tượng sử dụng thông tin kế toán
thường liên quan đến các thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính.
- Thông tin trên bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán hay báo cáo về tình hình tài chính là bảng báo
cáo về tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tại một

thời điểm nhất đònh. Mặc dù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xảy
ra liên tục, nhưng bảng cân đối kế toán được xem như một “bức ảnh” chụp
lại toàn bộ nguồn lực (tài sản) và nguồn hình thành tạo ra cơ cấu của các
nguồn lực, bao gồm nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tại
một thời điểm.
Bảng cân đối kế toán cung cấp các thông tin tài chính làm cơ sở để
đánh giá năng lực hoạt động, tính linh hoạt tài chính, khả năng thanh toán,
và khả năng sinh lợi của các tài sản.
- Đánh giá năng lực hoạt động: căn cứ vào các nguồn lực kinh tế mà
doanh nghiệp có thể sử dụng trong các hoạt động hàng ngày. Các khoản
mục tài sản thể hiện các nguồn lực kinh tế mà doanh nghiệp đang sử dụng
hay đầu tư tại thời điểm lập báo cáo nhằm đạt được các mục tiêu đã đònh.
Các thông tin về các nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát và khả
năng quản lý các nguồn lực này trong quá khứ như thế nào là các thông
tin hữu ích để dự đoán năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra nguồn
tiền và các khoản tương đương tiền trong tương lai.
- Đánh giá tính linh hoạt tài chính: là đánh giá khả năng của doanh
nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động tài chính hiệu quả nhằm đáp
ứng các nhu cầu và cơ hội chưa dự tính trước. Tỷ lệ khoản nợ phải trả và
vốn chủ sở hữu cung cấp thông tin về cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Những thông tin này hữu ích cho việc dự đoán nhu cầu đi vay trong tương
lai, khả năng huy động các nguồn lực tài chính và phương thức phân phối
lợi nhuận.
- Đánh giá khả năng thanh toán: căn cứ vào tính thanh khoản của
các tài sản và mức độ cân đối giữa các tài sản và nguồn hình thành. Tính
thanh khoản của tài sản là khả năng chuyển hoá thành tiền của các tài sản
và khả năng thanh toán thể hiện số tiền có thể đáp ứng các nợ phải trả




đến hạn (như tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, tỷ lệ thanh toán nhanh,…). Thông
tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp hữu ích cho người sử dụng
trong việc dự đoán khả năng thực hiện các cam kết tài chính khi đến hạn
của doanh nghiệp.
- Đánh giá khả năng sinh lợi: thông tin trên bảng cân đối kế toán kết
hợp với thông tin trên kết quả kinh doanh cũng cung cấp thông tin về khả
năng sinh lợi của doanh nghiệp qua 2 cách:
+ Thứ nhất, tài sản được đònh nghóa như các nguồn lực kinh tế hy
vọng mang lại lợi ích kinh tế tương lai. Tương ứng với giả đònh hoạt động
liên tục của doanh nghiệp, các lợi ích kinh tế tương lai này không chỉ thể
hiện là dòng tiền mà còn thể hiện thông qua khả năng tạo ra lợi nhuận.
Số liệu của các khoản mục khoản phải thu là các khoản ước tính
dòng tiền sẽ thu vào, hàng tồn kho và tài sản cố đònh là các tài sản tạo ra
doanh thu trong tương lai. Sự tăng hay giảm các tài sản này hỗ trợ cho sự
dự đoán doanh thu và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp thông qua tỷ lệ
doanh thu trên tài sản và tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản.
+ Thứ hai, việc đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp cần
dựa trên thông tin về các nguồn lực như tỷ lệ doanh thu hay lợi nhuận trên
mức đầu tư để đo lường hiệu quả của các hoạt động doanh nghiệp thông
qua tỷ lệ lợi nhuận trên vốn hay tỷ lệ hoàn vốn đầu tư.
Bên cạnh các thông tin hữu ích, tính hữu dụng của bảng cân đối kế
toán bò hạn chế bởi các yếu tố sau:
- Sự không đầy đủ: Một số tài sản và nợ phải trả không được trình
bày trên bảng cân đối kế toán (do không có giá trò xác đònh một cách đáng
tin cậy như nguồn nhân lực, lợi thế thương mại tự tạo,…) hay một số tài sản
trình bày trên bảng cân đối kế toán không có giá trò kinh tế (như tài sản
thiếu chờ xử lý) vì tuân thủ theo các điều kiện ghi nhận quy đònh trong các
chuẩn mực hay nguyên tắc kế toán.
- Vấn đề đònh giá: Một số tài sản, nợ phải trả được ghi nhận theo giá
gốc (như tài sản cố đònh), một số tài sản khác thì được ghi nhận theo giá

thò trường (như hàng tồn kho, các khoản đầu tư) gây khó khăn trong việc
hiểu và so sánh.



- Vấn đề ghi nhận: Một số chuẩn mực, nguyên tắc kế toán cho phép
trì hoãn việc ghi nhận liên quan đến sự thay đổi giá trò.
- Sự ước tính: Một vài khoản mục nợ phải trả được xác đònh bằng
phương pháp ước tính làm ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của thông tin
tài chính trên bảng cân đối kế toán.
- Thông tin trên bảng kết quả hoạt động kinh doanh:
Bảng kết quả kinh doanh hay báo cáo thu nhập trình bày kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong 1 thời kỳ. Bảng kết quả kinh
doanh bao gồm 2 yếu tố : doanh thu và chi phí. Chênh lệch giữa doanh thu
và chi phí là kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng kết
quả kinh doanh trình bày tất cả các khoản lãi và lỗ từ các hoạt động của
doanh nghiệp trong một thời kỳ. Thông tin trên bảng kết quả kinh doanh
được nhiều đối tượng bên ngoài doanh nghiệp sử dụng hơn thông tin trên
bảng cân đối kế toán vì bảng kết quả kinh doanh cung cấp thông tin liên
quan đến khả năng sinh lợi, và năng lực hoạt động.
- Đánh giá khả năng sinh lợi : kết hợp với các thông tin trên bảng
cân đối kế toán, các đối tượng sử dụng thông tin có thể đánh giá khả năng
sinh lợi hay rủi ro của doanh nghiệp trong quá khứ thông qua các tỷ lệ lợi
nhuận trên doanh thu, lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên vốn,…. Các
thông tin về khả năng sinh lợi hay rủi ro trong quá khứ thường được các
đối tượng sử dụng báo cáo tài chính làm căn cứ để tiên đoán kết quả tương
lai của doanh nghiệp.
- Đánh giá năng lực hoạt động : thông tin trên bảng kết quả kinh
doanh cũng giúp cho người sử thông tin đánh giá các thay đổi tiềm tàng
của các khoản mục chi phí mà doanh nghiệp có thể kiểm soát. Thông tin

thể hiện trên bảng kết quả kinh doanh cũng là căn cứ đánh giá khả năng
của doanh nghiệp thích nghi với các rủi ro và cơ hội đã qua, cũng như khả
năng của doanh nghiệp nhằm duy trì một mức độ hoạt động cụ thể nào đó.
Thông tin về kết quả kinh doanh cũng hữu ích trong việc dự tính khả
năng tạo ra các nguồn tiền của doanh nghiệp trên cơ sở các nguồn lực
hiện có và đánh giá về tính hiệu quả của các nguồn lực bổ sung mà doanh
nghiệp có thể sử dụng.



Các hạn chế của bảng kết quả kinh doanh thường được các nhà
nghiên cứu cũng như các đối tượng sử dụng đề cập đến như :
- Sự không đầy đủ : Một vài khoản mục doanh thu hay chi phí đóng
góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp không được ghi nhận vì tuân
thủ theo các điều kiện ghi nhận quy đònh trong các chuẩn mực hay nguyên
tắc kế toán như chi phí cơ hội,…
- Tính chủ quan : Các khoản doanh thu và chi phí thường bò chi phối
bởi các chính sách kế toán được chọn lựa bởi doanh nghiệp (như phương
pháp khấu hao tài sản cố đònh, phương pháp xác đònh trò giá hàng tồn
kho,…)
- Sự ước tính : Một vài khoản doanh thu, chi phí được xác đònh bằng
phương pháp ước tính làm ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của thông tin
về lợi nhuận kinh doanh.
- Thông tin trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ diễn giải sự thay đổi về các khoản mục
tiền (hay cung cấp thông tin về các khoản thu tiền và chi tiền) của doanh
nghiệp trong 1 thời kỳ. Báo cáo này cung cấp thông tin hữu dụng trong
việc đánh giá khả năng lưu chuyển tiền thuần trong quá khứ của 1 doanh
nghiệp, đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả và chi trả cổ
tức, đánh giá nhu cầu tài chính cần tài trợ.

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng được sử dụng để thực hiện việc so
sánh sự khác biệt giữa lợi nhuận thuần thể hiện trên báo cáo kết quả kinh
doanh và dòng lưu chuyển tiền liên quan từ hoạt động kinh doanh, cũng
như đánh giá ảnh hưởng của các khoản mục tiền tệ đến các hoạt động đầu
tư và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin này rất hữu
ích vì nó cung cấp cho người sử dụng thông tin làm căn cứ để đánh giá khả
năng tạo ra nguồn tiền và các khoản tương đương tiền, đánh giá việc sử
dụng các nguồn tiền và dự đoán về nhu cầu tiền tệ hay rủi ro từ các dòng
tiền lưu chuyển của doanh nghiệp trong tương lai.






- Thuyết minh báo cáo tài chính.
Sự hạn chế của các thông tin trên báo cáo tài chính thường được
khắc phục thông qua các nội dung chi tiết trình bày trên thuyết minh báo
cáo tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính thường bao gồm các diễn giải mang tính
tường thuật hay phân tích chi tiết hơn về số liệu trình bày trên bảng cân
đối kế toán, bảng kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, cũng
như các thông tin bổ sung như các chính sách kế toán mà doanh nghiệp áp
dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính
còn bao gồm một số chỉ tiêu đánh giá chung về các mặt hoạt động của
doanh nghiệp. Thuyết minh báo cáo tài chính thường được trình bày theo
cách hỗ trợ người sử dụng trong việc hiểu báo cáo tài chính và so sánh
chúng với báo cáo của các doanh nghiệp khác.
1.2 TÀI SẢN VÀ VIỆC ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GHI NHẬN TRÊN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH.

1.2.1 Đònh nghóa Tài sản
Đònh nghóa về tài sản là cơ sở để xác đònh tài sản và việc ghi nhận
các sự kiện kinh tế liên quan đến tài sản, xác đònh giá trò và trình bày tài
sản trên các báo cáo tài chính. Qua nghiên cứu các đònh nghóa tài sản theo
các quan điểm kế toán hiện đại cho thấy các đònh nghóa tài sản đều tập
trung vào một số các đặc tính cơ bản như:
- Tài sản là 1 nguồn lực được sở hữu hay được kiểm soát: một số đònh nghóa
về tài sản đề cập đến quyền sở hữu tài sản (chuẩn mực cơ bản của Trung
quốc [1],…) , trong khi các đònh nghóa khác lại đề cập đến quyền kiểm soát
(theo khuôn mẫu lý thuyết của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB),
Báo cáo số 6- Các khái niệm kế toán tài chính- trong hệ thống khuôn mẫu
lý thuyết của Mỹ (SFAC 6) , Báo cáo số 4- Các khái niệm kế toán- trong
hệ thống khuôn mẫu lý thuyết của Úc (SAC 4), Báo cáo về các nguyên
tắc kế toán của Anh (SPFR), chuẩn mực chung của kế toán Việt nam
(CMCVN),..). Trong thực tế, phần lớn các tài sản đều thuộc quyền sở hữu
của tổ chức, nhưng sự khẳng đònh quyền sở hữu như một điều kiện tiên
quyết để xác đònh tài sản là không chính xác. Một tổ chức không có quyền



sở hữu tài sản không có nghóa là tổ chức này không có quyền kiểm soát tài
sản. Việc kiểm soát thường liên quan đến quyền sử dụng về mặt pháp lý.
- Liên quan đến lợi ích hay nguồn lực kinh tế tương lai: tài sản thể hiện 1
tiềm lực, tách biệt hoặc gắn kết với các tài sản khác, nhằm tạo ra lợi ích
kinh tế. Có 2 nhóm quan điểm khác nhau trong 1 số đònh nghóa tài sản
liên quan đến lợi ích kinh tế tương lai. Nhóm quan điểm thứ 1 cho rằng
“tài sản là các lợi ích kinh tế tương lai” (IASB, SAC 4, CMCVN,…), hay
nói cách khác khẳng đònh lợi ích kinh tế tương lai là tài sản. Trong khi
nhóm quan điểm thứ 2 cho rằng “lợi ích kinh tế tương lai được mang lại từ
các tài sản” (Báo cáo số 3- Các khái niệm kế toán tài chính- trong hệ

thống khuôn mẫu lý thuyết của Mỹ- SFAC 3), hay nói cách khác tài sản
khác biệt với lợi ích kinh tế (lợi ích kinh tế chỉ là 1 trong các đặc tính cơ
bản của tài sản, hay lợi ích kinh tế được mang lại từ tài sản). Điều hàm ý
rõ ràng trong thuật ngữ “lợi ích kinh tế tương lai” liên quan đến tài sản
trong 2 nhóm quan điểm này là bản thân tài sản, 1 cách trực tiếp hay gián
tiếp, sẽ tạo ra lợi ích kinh tế tại thời điểm hay trong tương lai, và lợi ích
này không phụ thuộc vào hình thái vật chất của tài sản. Hay nói cách
khác, sự khác biệt giữa 2 nhóm quan điểm là tài sản “chắc chắn” biểu
hiện dưới dạng lợi ích kinh tế hay chỉ “hy vọng” mang lại lợi ích kinh tế
thông qua việc sử dụng tài sản.
- Liên quan đến 1 tổ chức cụ thể : nội dung này thống nhất trong phần lớn
các đònh nghóa tài sản tại các quốc gia. Liên quan đến 1 tổ chức cụ thể là
sự yêu cầu phân biệt tài sản của 1 tổ chức và tài sản của chủ sở hữu. Điều
này cần thiết cho việc xác đònh lợi ích đạt được của tổ chức thông qua việc
sử dụng tài sản.
- Liên quan đến kết quả của các nghiệp vụ hay sự kiện trong quá khứ: nội
dung này đặt ra tài sản phải là kết quả của các nghiệp vụ hay sự kiện
trong quá khứ nhằm khẳng đònh chỉ có các nguồn lực được hình thành từ
các nghiệp vụ trong quá khứ có khả năng mang lại các lợi ích kinh tế
tương lai thông qua việc sử dụng chúng là tài sản. Các nghiệp vụ hay sự
kiện dự tính xảy ra trong tương lai không là các nghiệp vụ tạo ra tài sản
hiện tại.



Mặc dù có rất nhiều quan điểm về đònh nghóa tài sản khác nhau
nhưng đònh nghóa tài sản được nhiều quốc gia lựa chọn là đònh nghóa về tài
sản của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB).
“ Tài sản là những nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát, là kết quả của
sự kiện quá khứ và hy vọng mang lại lợi ích kinh tế tương lai”

1.2.2 Phương pháp đònh giá tài sản
Đònh giá tài sản trên báo cáo tài chính là 1 tiến trình xác đònh giá trò
tiền tệ của tài sản được ghi nhận và trình bày trên các báo cáo tài chính.
Một cơ sở đònh giá tài sản là 1 phương pháp xác đònh giá trò tài sản
được lựa chọn ghi nhận trên các báo cáo tài chính. Cơ sở đònh giá tài sản
được xác đònh căn cứ vào giá trò đo lường tài sản và đơn vò đo lường được
sử dụng.
- Các giá trò có thể sử dụng đo lường tài sản là:
+ Giá gốc: Tài sản được ghi nhận theo số tiền hoặc các khoản tương
đương tiền đã trả hoặc ghi theo giá trò thực tế của tài sản đó vào thời điểm
có được tài sản.
+ Giá trò có thể thực hiện được (giá đầu ra hiện tại): Tài sản được ghi nhận
theo số tiền hoặc các khoản tương đương tiền hiện tại có thể thu được nếu
bán các tài sản đó tại thời điểm hiện tại.
+ Giá hiện hành (Giá thay thế hay giá đầu vào hiện tại): Tài sản được ghi
nhận theo số tiền hoặc các khoản tương đương tiền sẽ phải trả nếu như tài
sản đó có được tại thời điểm hiện tại.
+ Giá hiện tại chiết khấu (Hiện giá): Tài sản được ghi nhận theo giá trò
hiện tại của các luồng tiền dự đònh thu vào trong tương lai từ việc sử dụng
tài sản.
- Các đơn vò đo lường có thể được sử dụng là đơn vò tiền tệ và đơn vò sức
mua chung. Liên kết 4 giá trò đo lường và 2 đơn vò đo lường, các chuyên
gia kế toán đưa ra 8 cơ sở xác đònh giá trò tài sản:
- Giá gốc theo đơn vò tiền tệ không đổi
- Giá trò thuần có thể thực hiện được theo đơn vò tiền tệ không đổi
- Giá trò thay thế theo đơn vò tiền tệ không đổi



- Hiện giá theo đơn vò tiền tệ không đổi

- Giá gốc theo sự thay đổi mức giá chung
- Giá trò thuần có thể thực hiện được theo sự thay đổi mức giá chung
- Giá trò thay thế theo sự thay đổi mức giá chung
- Hiện giá theo sự thay đổi mức giá chung
Sự khác biệt giữa các cơ sở đònh giá tài sản xuất phát từ các giá trò sử dụng
làm cơ sở đo lường và đơn vò đo lường.
Các giá trò sử dụng làm cơ sở đo lường có thể được phân loại theo 3 cách:
- Về mặt thông tin cung cấp:
+ Giá gốc: cung cấp thông tin về giá quá khứ.
+ Giá trò thuần có thể thực hiện được và giá trò thay thế : cung cấp thông
tin về giá hiện tại.
+ Hiện giá: cung cấp thông tin về giá tương lai.
- Về loại nghiệp vụ:
+ Giá gốc và giá hiện hành: thể hiện giá trò liên quan đến nghiệp vụ mua
tài sản.
+ Giá trò thuần có thể thực hiện được và hiện giá: thể hiện giá trò liên quan
đến nghiệp vụ bán tài sản.
- Về bản chất của loại sự kiện phát sinh:
+ Giá gốc: căn cứ vào sự kiện thực tế phát sinh
+ Giá trò thuần có thể thực hiện được và giá trò hiện hành: căn cứ vào sự
kiện giả đònh.
+ Hiện giá: căn cứ vào sự kiện dự tính phát sinh.
Thông tin về giá trò tài sản có thể tóm lược theo bảng 1.1.








Bảng 1.1- Giá trò tài sản và thông tin cung cấp

Giá gốc Giá trò thuần có thể
thực hiện được
Giá trò
hiện hành
Hiện giá
Thông tin
cung cấp
Quá khứ Hiện tại Hiện tại Tương lai
Nghiệp vụ

Mua tài sản Bán tài sản Mua
tài sản
Bán
tài sản
Bản chất
sự kiện
Thực tế
phát sinh
Giả đònh Giả đònh Dự tính
1.3 LI NHUẬN VÀ VIỆC XÁC ĐỊNH LI NHUẬN TRÊN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH.
1.3.1 Khái niệm lợi nhuận.
Khái niệm lợi nhuận luôn là một vấn đề cốt lõi trong lý thuyết kinh
tế và lý thuyết kế toán. Xuất phát từ bản chất của lợi nhuận trong nền
kinh tế nói chung hay tại các doanh nghiệp nói riêng, nội dung của khái
niệm lợi nhuận luôn có những điểm tương đồng cũng như khác biệt giữa
quan điểm của các nhà kinh tế và của các chuyên gia kế toán.
1.3.1.1 Lợi nhuận kinh tế

Adam Smith là nhà kinh tế học đầu tiên đưa ra khái niệm lợi nhuận
trong một ấn phẩm “Bản chất và nguồn gốc của cải quốc gia” (1890).
Theo Smith, “lợi nhuận là sự gia tăng của cải”. Phần lớn các nhà kinh tế
học thời bấy giờ đều ủng hộ khái niệm của Smith, tuy nhiên các diễn giải
khái niệm này đều giới hạn phạm vi lợi nhuận liên quan đến sự gia tăng
của tiền. Vào cuối thế kỷ 19, lý thuyết về vốn và lợi nhuận của Von Bohm
Bawerk đã mở rộng phạm vi của lợi nhuận qua việc trình bày các khái
niệm lợi nhuận phi tiền tệ. Trong ấn phẩm “Lý thuyết thực thể về vốn” ,
Bawerk cho rằng lợi nhuận được hiểu không chỉ liên quan đến sự gia tăng
tiền tệ, mà khái niệm lợi nhuận còn được gắn kết với vốn.
Đến đầu thế kỷ 20, các nhà kinh tế học Fisher đưa ra các quan điểm
mới về bản chất của lợi nhuận. Fisher đưa ra các khái niệm mới về lợi
nhuận như lợi nhuận ảo, lợi nhuận thực, và lợi nhuận tiền tệ trong ấn bản
“Bản chất của vốn và lợi nhuận” (1912). Theo Fisher, lợi nhuận ảo là sự
thỏa mãn nhu cầu cá nhân thông qua việc tiêu dùng hàng hóa, dòch vụ



thực tế. Lợi nhuận thực là sự diễn giải của các sự kiện làm gia tăng mức
hưởng thụ cá nhân. Còn lợi nhuận tiền tệ thể hiện toàn bộ số tiền thu được
và có ý đònh sử dụng cho tiêu dùng nhằm đáp ứng các chi phí sinh hoạt.
Mặc dù lợi nhuận ảo là khái niệm lợi nhuận nền tảng nhất và lợi nhuận
tiền tệ là khái niệm lợi nhuận thường được đề cập đến khi nói về “lợi
nhuận”, nhưng theo Fisher, lợi nhuận thực chính là lợi nhuận được các kế
toán viên sử dụng trong các báo cáo thực tế lúc bấy giờ.
Lý thuyết về lợi nhuận của Fisher được Hicks phát triển thành 1 lý
thuyết chung về lợi nhuận kinh tế. Khái niệm lợi nhuận kinh tế theo Hicks
(1946) là “số tiền tối đa mà 1 người có thể sử dụng trong 1 thời kỳ và vẫn
duy trì “trạng thái tương tự” tại thời điểm cuối kỳ như tại lúc đầu kỳ”.
Khái niệm này lập tức trở thành cơ sở của các tranh luận về khái niệm lợi

nhuận. Vấn đề tranh luận chung quanh khái niệm lợi nhuận của Hicks là
“trạng thái tương tự” và phần lớn các nhà kinh tế chấp nhận diễn giải đó
là sự bảo toàn vốn.
Khái niệm lợi nhuận của Hicks được nhà kinh tế học Alexander dựa
vào để đưa ra khái niệm lợi nhuận của 1 doanh nghiệp (1962) “Lợi nhuận
của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp có thể phân phối cho các
chủ sở hữu và và vẫn duy trì tình hình tài chính vào cuối kỳ như tại lúc đầu
kỳ”. Khái niệm này so sánh giá trò của doanh nghiệp tại 2 thời điểm đầu
kỳ và cuối kỳ theo giá trò hiện tại.
Cho đến những năm cuối thập niên 90, lợi nhuận kinh tế, về lý
thuyết, được nhiều nhà kinh tế học xem là sự diễn giải thuyết phục nhất
trong các mô hình về lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận kinh tế gắn kết được
giá trò vốn trong mối liên quan với dòng lưu chuyển tiền tệ. Lợi nhuận
kinh tế được tính toán trên cơ sở yếu tố thời gian và cả nguồn lực vật chất,
con người của 1 tổ chức. Và theo nhiều nhà kinh tế học, lợi nhuận trên
vốn trong lợi nhuận kinh tế được xem như thông tin hữu ích trong việc đưa
ra quyết đònh tái đầu tư hay xác đònh việc bảo toàn vốn.
1.3.1.2 Lợi nhuận kế toán
Lý thuyết về lợi nhuận và xác đònh lợi nhuận luôn đóng 1 vai trò
quan trọng trong nội dung của lý thuyết cũng như thực hành kế toán. Lợi
nhuận kế toán là sự chênh lệch giữa doanh thu thực hiện và các chi phí
phát sinh tương ứng với doanh thu đó.



Khái niệm về lợi nhuận kế toán có 5 đặc điểm:
- Lợi nhuận kế toán được xác đònh căn cứ vào nghiệp vụ thực sự xảy ra tại
doanh nghiệp, là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng hóa, dòch vụ trừ chi
phí cần thiết để thực hiện nghiệp vụ bán hàng.
- Lợi nhuận kế toán được xác đònh căn cứ vào thời kỳ quy đònh liên quan

đến kết quả hoạt động trong 1 khoảng thời gian xác đònh.
- Lợi nhuận kế toán căn cứ vào nguyên tắc đo lường và ghi nhận doanh
thu, phù hợp với khái niệm doanh thu.
- Lợi nhuận kế toán căn cứ vào nguyên tắc “tương xứng”, doanh thu thực
hiện trong kỳ tương xứng với các chi phí phù hợp để tạo ra doanh thu.
- Lợi nhuận kế toán căn cứ vào việc xác đònh chi phí theo nguyên tắc nhất
đònh nào đó.
1.3.1.3 Lợi nhuận chòu thuế
Để tính thuế thu nhập doanh nghiệp, các quốc gia cần xác đònh thu
nhập chòu thuế. Với các hệ thống thuế khác biệt của mỗi quốc gia, khái
niệm về thu nhập chòu thuế luôn có những quan điểm khác biệt. Sự khác
biệt này xuất phát từ việc xác đònh các khoản thu nhập chòu thuế và các
khoản được giảm trừ.
Mặc dù có những quan điểm khác biệt về thu nhập chòu thuế và
trong các quy đònh về thuế tại các quốc gia thường đưa ra đònh nghóa “thu
nhập chòu thuế”, không đưa ra đònh nghóa về “lợi nhuận chòu thuế” nhưng
tại các quốc gia “lợi nhuận chòu thuế” thường được xác đònh là “phần
chênh lệch giữa tổng thu nhập chòu thuế và các khoản được khấu trừ theo
quy đònh của luật thuế riêng biệt của mỗi quốc gia”.
1.3.2 Xác đònh lợi nhuận
1.3.2.1 Mục tiêu của việc xác đònh lợi nhuận.
Lợi nhuận là một yếu tố quan trọng của báo cáo tài chính được sử
dụng trong nhiều trường hợp khác nhau. Việc xác đònh lợi nhuận thường
dựa vào mục tiêu của thông tin lợi nhuận cần hướng đến. Mục tiêu của
việc xác đònh lợi nhuận thường được đề cập đến trong các trường hợp:



- Đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh: Lợi nhuận trước tiên là cơ sở để
xác đònh tính hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Theo mục tiêu

này, lợi nhuận được xác đònh thông qua các tiêu chuẩn cơ bản nhằm cung
cấp các thông tin về sự thành công hay hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Hiệu quả kinh doanh ở đây thường tập trung vào lónh vực tài chính
như hiệu quả đầu tư, hiệu quả hoạt động kinh doanh,…
- Đánh giá năng lực quản lý: Các nhà đầu tư thường sử dụng yếu tố lợi
nhuận như một trong những cơ sở đánh giá khả năng của nhà quản lý trong
việc sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp mà họ đang được giao phó
điều hành.
- Quyết đònh tài trợ: Lợi nhuận được xem như một thông tin thiết yếu cho
các nhà đầu tư, các nhà cho vay trong việc thực hiện các quyết đònh đầu tư
hay cho vay nợ.
- Dự đoán tương lai: Lợi nhuận còn được sử dụng như một công cụ để dự
đoán hoạt động tương lai của doanh nghiệp theo giả đònh mức tăng trưởng
ổn đònh trong một khoảng thời gian nào đó.
- Phân phối cổ tức: Lợi nhuận là cơ sở xác đònh cổ tức phân phối cho các
cổ đông và lợi nhuận giữ lại cho việc thực hiện các chính sách đầu tư hay
mở rộng hoạt động kinh doanh.
- Căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp: Lợi nhuận là căn cứ để tính toán
thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên các quy đònh cụ thể của chính sách
tài chính quốc gia.
- Các quyết đònh kinh tế- xã hội: Các chính sách kinh tế-xã hội của chính
phủ thường căn cứ vào nguồn thu ngân sách mà chủ yếu là từ thuế thu
nhập doanh nghiệp. Vì vậy, hàng loạt các chính sách kinh tế đều có liên
quan đến mức thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.3.2.2 Phương pháp xác đònh lợi nhuận kế toán
Dưới góc độ kế toán, việc đo lường lợi nhuận kinh doanh luôn đóng
vai trò quan trọng trong cả kế toán tài chính cũng như kế toán quản trò.
Nhiều quan điểm khác nhau về đo lường lợi nhuận kế toán được hình
thành trong quá trình phát triển của lý thuyết kế toán. Về cơ bản, có 3
trường phái với các quan điểm khác nhau về đo lường lợi nhuận:




- Trường phái cổ điển
Theo trường phái này, lợi nhuận kế toán là sự khác biệt giữa doanh
thu thực hiện từ các nghiệp vụ bán hàng hóa, dòch vụ trong kỳ và chi phí
tương ứng bỏ ra để thực hiện nghiệp vụ theo nguyên tắc giá gốc.
Lợi nhuận kinh doanh = Doanh thu thực hiện – Chi phí theo giá gốc
Các chuyên gia kế toán ủng hộ trường phái cổ điển như Litheron (1952),
Kohler(1963), Mautz (1973) [30] đưa ra các lập luận:
- Lợi nhuận kế toán theo giá gốc đã được sử dụng trong thực tiễn
qua nhiều năm và thực tế cho thấy thông tin về lợi nhuận kế toán hữu ích
cho phần lớn người sử dụng thông tin kế toán trong việc ra quyết đònh. Lợi
nhuận kế toán thường là cơ sở để các chủ doanh nghiệp đánh giá khả năng
và trách nhiệm của các nhà quản lý doanh nghiệp trong việc sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận kế toán theo giá gốc được đo lường và báo cáo một
cách khách quan do dựa vào các nghiệp vụ thực sự phát sinh nên về cơ
bản đảm bảo tính trung thực.
- Lợi nhuận kế toán dựa vào nguyên tắc doanh thu thực hiện, chỉ đo
lường và ghi nhận doanh thu đã thực hiện nên đáp ứng tính tuân thủ
nguyên tắc thận trọng trong kế toán.
Bên cạnh các ý kiến ủng hộ việc sử dụng lợi nhuận kế toán theo giá
gốc, lòch sử phát triển kế toán cho thấy đã có nhiều ý kiến chỉ trích từ các
nhà chuyên môn như Arthur Thomas (1969), Saratota (1974) [30], các giới
hạn của việc sử dụng lợi nhuận kế toán tập trung vào 2 vấn đề:
- Nguyên tắc “giá gốc”:
+ Khi có sự thay đổi giá trò tiền tệ, việc tuân thủ nguyên tắc giá gốc
sẽ dẫn đến lợi nhuận kế toán không phản ánh sự gia tăng giá trò của tài
sản trong 1 thời kỳ. Bên cạnh đó, sự trộn lẫn lợi nhuận của thời kỳ này và

thời kỳ trước với các giá trò tiền tệ khác nhau để trình bày chỉ tiêu “lợi
nhuận tích lũy” làm giảm tính hữu ích của các thông tin kế toán được công
bố trên các báo cáo tài chính.
+ Sự tuân thủ nguyên tắc “giá gốc” dẫn đến sự khó khăn trong việc
so sánh các thông tin về chi phí do có nhiều phương pháp chấp nhận sử



dụng khác nhau trong việc xác đònh chi phí (như các phương pháp xác đònh
trò giá hàng tồn kho, hay các phương pháp phân bổ chi phí).
+ Việc tuân thủ nguyên tắc “giá gốc” để trình bày báo cáo tài chính
có thể dẫn đến sự sai lệch của thông tin kế toán cung cấp (như các thông
tin về tài sản, lợi nhuận không tính đến sự thay đổi giá trò tiền tệ, ảnh
hưởng lạm phát hay giảm phát,…) và khó có thể đạt được tính dễ hiểu và
tính thích hợp của thông tin kế toán đối với người sử dụng.
- Nguyên tắc doanh thu thực hiện:
Theo nguyên tắc này, kế toán viên chỉ ghi nhận các nghiệp vụ kinh
tế đã xảy ra và không quan tâm đến sự thay đổi giá trò cho đến khi nghiệp
vụ kinh tế phát sinh. Hay nói cách khác, doanh thu được ghi nhận để xác
đònh lợi nhuận chỉ khi quyền sở hữu hàng hóa, dòch vụ được công nhận
theo luật pháp. Nguyên tắc doanh thu thực hiện không đề cập đến việc ghi
nhận các khoản doanh thu chưa thực hiện.
- Trường phái tân cổ điển
Trường phái tân cổ điển, thừa nhận đơn vò đo lường theo nguyên tắc
giá gốc có điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá chung. Theo trường
phái này, lợi nhuận kế toán là lợi nhuận đã điều chỉnh theo mức giá
chung.
Sự khác biệt giữa trường phái cổ điển và tân cổ điển xuất phát từ
“thước đo tiền tệ”.
Kế toán theo nguyên tắc giá gốc không ghi nhận sự thay đổi của

mức giá chung của tiền tệ, nên bảng cân đối kế toán luôn bao gồm những
loại tài sản, nợ phải trả khác biệt do phát sinh tại các thời điểm khác nhau,
với các sức mua của đồng tiền khác nhau.
Kế toán theo mức giá chung khắc phục tình trạng này bằng cách
phản ánh sự thay đổi sức mua của tiền tệ vào các giá gốc. Sự thay đổi sức
mua của đồng tiền được đo lường bằng các “chỉ số giá”. Chỉ số giá là tỷ số
của giá bình quân của 1 nhóm hàng hóa hay dòch vụ vào 1 thời điểm nhất
đònh nào đó trên giá bình quân của 1 nhóm hàng hóa, dòch vụ tương tự tại
1 thời điểm gốc.


×