Trang 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT trang 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT trang 1
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền trang 1
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes trang 3
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT trang 6
1.2.1. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 6
1.2.2. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế trang 9
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả trang 9
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bò biến dạng trang 10
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế trang 10
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội trang 11
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT trang 12
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI trang 14
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia trang 14
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc trang 15
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển trang 17
Kết luận chương 1 trang 21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA trang 22
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 2
2.1. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1991
trang 23
2.1.1. Tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát trang 24
2.1.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng siêu lạm phát thời kỳ này trang 25
2.1.3. Các biện pháp kiểm soát phát trang 27
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1992-1999
trang 29
2.2.1. Diễn biến tình hình lạm phát trang 29
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát trang 32
2.2.3. Các biện pháp chủ yếu để chống lạm phát trang 35
2.2.3.1.Về chính sách tài khoá trang 35
2.2.3.2.Về chính sách tiền tệ trang 36
2.2.3.3. Các chính sách bổ trợ khác trang 39
2.3. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
trang 40
2.3.1. Diễn biến tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát: trang 40
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát trang 43
2.3.2.1. Lạm phát do cầu kéo trang 44
2.3.2.2. Lạm phát do chi phí đẩy trang 46
2.3.2. Một số biện pháp kiểm soát lạm phát trang 48
Kết luận chương 2 trang 51
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM trang 52
3.1. Quan điểm về kiểm soát lạm phát trang 52
3.2. Mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trang 53
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT trang 56
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 3
3.3.1. Hoàn thiện phương pháp để đo lường lạm phát ở Việt Nam trang 56
3.3.2. Về chính sách tiền tệ trang 57
3.3.2.1. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trang 58
3.3.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại trang 64
3.3.2.3. Mở rộng và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trang 65
3.3.3. Về chính sách tài khoá trang 66
3.3.3.1. Đối với chi ngân sách nhà nước trang 66
3.3.3.2. Đối với hệ thống thu thuế trang 68
3.3.4. Các chính sách bổ trợ khác trang 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 trang 73
KẾT LUẬN trang 74
---------------------
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 4
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT
Về kinh tế, khi nói đến lạm phát là nói đến sự gia tăng liên tục của mức giá
chung trong nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghóa với việc sụt giảm liên tục sức
mua của đồng tiền. Trên giác độ mối quan hệ cung cầu thì mức giá chung tăng khi
tổng cung giảm hoặc tổng cầu tăng. Tổng cung giảm có thể là do các cú sốc bất lợi
về phía cung như giá của các yếu tố sản xuất tăng, cung lao động giảm. Tổng cầu
tăng có thể là do tăng chi tiêu của chính phủ, giảm thuế hay do tăng cung tiền.
Tổng cung giảm hay tổng cầu tăng liên tục sẽ làm cho giá cả không ngừng tăng
lên và lạm phát xảy ra.
Tuy đa số các nhà kinh tế có cùng một quan điểm như trên về lạm phát,
nhưng tùy theo từng giai đoạn lòch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau, giữa họ
cũng có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như
cách thức để chống lại lạm phát. Trong đó, đáng chú ý nhất là quan điểm của các
nhà kinh tế theo hai trường phái: phái trọng tiền và phái Keynes.
1.1.1. Quan điểm của phái trọng tiền
Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà kinh tế cổ điển (điển hình là nhà
kinh tế Mỹ Irving Fisher) đã đề xướng ra học thuyết số lượng tiền tệ, theo đó, giữa
tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dòch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế PY
(trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) và lượng tiền tệ M có mối quan hệ
với nhau, và được biểu hiện bằng tốc độ chu chuyển của tiền tệ V. Cách tính tốc
độ chu chuyển V là bằng tổng chi tiêu, chia cho lượng tiền tệ (V=PY/M). Dựa vào
công thức này, các nhà kinh tế đã đưa ra một phương trình trao đổi MV=PY. Với
lập luận rằng, trong thời gian ngắn hạn tốc độ V, tổng sản phẩm Y sẽ thay đổi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 5
không đáng kể và coi như bất biến, nếu lượng tiền M tăng lên thì giá cả P cũng
phải tăng theo. Theo cách lý giải này, bất cứ việc tăng cung tiền nào cũng làm cho
giá cả tăng lên, và như vậy để giảm tỷ lệ lạm phát thì biện pháp duy nhất là ngưng
việc tăng cung tiền vào trong lưu thông. Rõ ràng, cách lập luận này về lạm phát là
quá đơn giản vì đặt nền kinh tế vào trong một trạng thái tónh tại, đó là khi tăng
cung tiền thì sẽ dẫn đến một khối lượng tiền nhiều hơn dùng để mua một khối
lượng hàng hoá như cũ, do đó sẽ làm cho giá cả tăng lên. Điều này sẽ không lý
giải được tại sao giá cả không thay đổi trong trường hợp vẫn tăng cung tiền. Tuy
sự nhìn nhận về lạm phát còn đơn giản, nhưng dẫu sao quan điểm trên cũng đã tạo
ra một tiền đề cho việc nhận thức về lạm phát sau này của các nhà kinh tế.
Để khắc phục nhược điểm trên trong phương trình trao đổi của Irving
Fisher, các nhà kinh tế tiền tệ đã nhìn nhận lạm phát dưới trạng thái động hơn
thông qua công thức trao đổi tiền tệ cải tiến dưới dạng tỷ lệ, đó là %P = %M + %V
- %Y. Theo công thức này, lạm phát xảy ra là do tăng lượng tiền và tăng tốc độ
chu chuyển tiền dẫn đến lạm phát. Hay nói cách khác, lạm phát xảy ra là do tăng
cung tiền nhanh hơn tốc độ tăng của tổng sản phẩm, và nếu tốc độ tăng cung tiền
bằng với tốc độ tăng của tổng sản phẩm thì lạm phát sẽ không xảy ra. Điều này đã
giải thích được việc tăng cung tiền trong một số trường hợp nào đó sẽ không làm
cho giá cả tăng lên. Như vậy, với cách nhìn mới này các nhà kinh tế cũng có cùng
quan điểm với Irving Fisher khi cho rằng tăng cung tiền cũng là nguyên nhân duy
nhất gây ra lạm phát. Tuy nhiên để chống lại lạm phát, khác với I.Fisher, họ cho
rằng không phải bằng việc ngưng tăng cung tiền mà là duy trì sự phát triển cân đối
giữa tăng cung tiền và tăng trưởng kinh tế, điều này sẽ làm cho giá cả được ổn
đònh.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 6
Một vấn đề liên quan đến biện pháp chống lạm phát này là có thể dẫn đến
suy thoái kinh tế kéo dài. Vì kết quả trước tiên của việc giảm tăng cung tiền là sụt
giảm trong tổng cầu. Tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng giảm và thất nghiệp gia
tăng. Hơn nữa, việc giảm cung tiền sẽ làm cho lãi suất tăng lên kéo theo đầu tư
giảm. Điều này sẽ làm giảm năng suất và sản lượng của nền kinh tế. Trong dài
hạn, giảm cung tiền, sản lượng cũng giảm, vì thế, để duy trì sự cân đối giữa tiền
và hàng hoá chống lại lạm phát đòi hỏi phải cắt giảm cung tiền nhiều hơn, kéo
theo sụt giảm sản lượng và suy thoái kinh tế hơn nữa. Nói như vậy, không có nghóa
là việc duy trì mối quan hệ cân đối giữa tăng cung tiền và tăng trưởng là không
quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, mà vấn đề là ở chỗ biện pháp chống
lạm phát này có thể phải trả giá rất cao.
1.1.2. Quan điểm của phái Keynes
Để khắc phục những thiếu xót của lý thuyết cổ điển khi cho rằng cung tiền
là nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát, John Maynard Keynes đã phát triển một
lý thuyết mới về lạm phát. Theo đó, Keynes cho rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra
lạm phát là do việc tăng nhu cầu quá mức, vượt quá khả năng cung ứng của nền
kinh tế, tức vượt quá mức sản lượng tiềm năng (là mức sản lượng đạt tới mức toàn
dụng nhân công). Sở dó như vậy là vì, khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng,
các doanh nghiệp thường không tăng giá bán để đáp ứng nhu cầu gia tăng, mà
thay vào đó họ thường chọn giải pháp gia tăng sản lượng. Khi cầu vượt quá mức
sản lượng tiềm năng, các doanh nghiệp không thể tăng sản lượng thêm được nữa
vì thế họ buộc phải tăng giá bán, kết quả là lạm phát xảy ra.
Mặc dù trong phân tích của mình, Keynes cũng thừa nhận rằng việc tăng
cung tiền quá mức cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra lạm phát và
trong thời gian dài, cung tiền là nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 7
đó là việc giá cả tăng nhanh với một tốc độ rất cao. Điều này dễ dàng được nhận
thấy trong thực tế khi chính phủ tài trợ cho các khoản chi tiêu của mình bằng việc
phát hành tiền giấy quá mức. Song, theo Keynes cung tiền chỉ là một trong nhiều
nhân tố làm ảnh hưởng đến tổng cầu mà thôi, do đó, ông nhấn mạnh đến vai trò
của tổng cầu hơn là cung tiền trong việc xác đònh lạm phát. Keynes đã chỉ ra rằng
có bốn nhân tố tác động đến tổng cầu, đó là: chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của
chính phủ, chi tiêu đầu tư và cán cân ngoại thương. Do đó, để giảm lạm phát do
cầu tăng quá mức cần phải giảm tổng cầu thông qua việc tác động vào các nhân tố
này, chẳng hạn như tăng thuế sẽ làm giảm thu nhập khả dụng và do đó làm giảm
chi tiêu của hộ gia đình, giảm chi tiêu của chính phủ.
Với sự phân tích đó, Keynes cũng đưa ra một khái niệm cơ bản thể hiện mối
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp gọi là đường cong Phillips (Phillips curve).
Theo đó, có một sự đánh đổi giữa việc ổn đònh giá cả và việc làm. Nếu làm giảm
lạm phát sẽ gia tăng thất nghiệp, và ngược lại, gia tăng việc làm sẽ gây áp lực làm
cho lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong
thực tế là không chắc chắn, thậm chí không xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng lạm phát đònh đốn, khi đó lạm phát và gia tăng thất nghiệp cùng xảy ra mà
không có một sự đánh đổi nào. Chính vì lý do đó, có nhiều ý kiến tranh luận cho
rằng mô hình của Keynes là không đúng.
Để lý giải cho trường hợp trên, Keynes và các nhà kinh tế vó mô theo
trường phái Keynes cho rằng phía cung cũng quan trọng trong việc gây ra lạm
phát. Khi có những cú sốc về phía cung như khủng hoảng dầu lửa, đình công đòi
tăng lương, làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên buộc các doanh nghiệp
phải thu hẹp sản xuất và nâng cao giá bán sản phẩm. Điều này sẽ làm dòch chuyển
đường cong Phillips theo hướng suy thoái, nghóa là nền kinh tế phải điều chỉnh ở
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 8
mức sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn trước. Quá trình điều chỉnh này hàm ý
cả việc lạm phát tăng và gia tăng thất nghiệp, vì thế tình trạng lạm phát đình đốn
không mâu thuẫn với mô hình của Keynes.
Ngoài các lý thuyết trên về lạm phát, các nhà kinh tế vó mô hiện đại theo
phái Keynes còn cho rằng sự “kỳ vọng” trong tương lai cũng là một nguyên nhân
gây ra lạm phát, đó gọi là lạm phát quán tính. Theo lý thuyết này, lạm phát có thể
góp phần tạo ra lạm phát hơn nữa nếu mọi người mong đợi điều đó sẽ xảy ra. Đó
là vì khi lạm phát xảy ra, người lao động dự kiến lạm phát vẫn tiếp tục tăng trong
tương lai, do đó để duy trì “mức lương thực” của mình người lao động yêu cầu
được tăng mức lương danh nghóa lên để bù đắp sự mất giá của đồng tiền. Nếu yêu
cầu này được chấp nhận và tiền lương tăng lên sẽ đẩy chi phí tăng. Để duy trì lợi
nhuận của mình, doanh nghiệp sẽ chuyển phần chi phí tăng lên này sang cho người
tiêu dùng bằng cách tăng giá bán, và như vậy lạm phát sẽ tiếp tục xảy ra. Điều
đáng chú ý ở đây là nếu người lao động cho rằng trong tương lai lạm phát xảy ra là
thấp thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ thấp và có thể không xảy ra, còn nếu người lao
động cho rằng lạm phát khó có thể kiềm chế được thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ
cao. Do vậy, việc phát ra những dấu hiệu đáng tin cậy cho thò trường rằng lạm
phát sẽ đi xuống và được kiểm soát trong tương lai là rất quan trọng đối việc giảm
lạm phát quán tính. Những dấu hiệu này chỉ có thể có được từ việc công bố và
thực thi các chính sách đáng tin cậy để kiềm chế lạm phát của chính phủ.
Như vậy, qua các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế theo hai
trường phái trọng tiền và Keynes đã trình bày ở trên, có thể nhận thấy rằng lạm
phát là một hiện tượng kinh tế rất phức tạp vì nó có liên quan đến nhiều vấn đề,
nhiều mặt của nền kinh tế, đặc biệt là liên quan đến tiền tệ và giá trò của đồng
tiền. Tuy quan điểm của các nhà kinh tế về lạm phát có một số điểm khác nhau,
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 9
nhưng nhìn chung, đa số họ đều cho rằng biểu hiện bên ngoài của lạm phát là sự
gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Mức giá chung là mức giá
cả trung bình của tất cả các loại hàng hàng, dòch vụ, vì thế, khi mức giá chung tăng
lên không có nghóa là tất cả các mặt hàng đều tăng giá mà có thể có một số mặt
hàng không thay đổi giá hay giảm giá so với trước. Do đó, khi nói đến lạm phát là
nói đến sự tăng giá cả hàng hoá trên diện rộng và kéo dài chứ không phải là sự
tăng giá của các hàng hoá riêng lẻ, nhất thời. Hơn nữa, giá cả là biểu hiện bằng
tiền giá trò của hàng hoá, hay nói cách khác, tiền tệ là thước đo giá trò của hàng
hoá, cho nên giá trò của đồng tiền thay đổi cũng làm thay đổi giá cả hàng hoá,
chính vì vậy, lạm phát xảy ra suy cho cùng ít nhiều đều liên quan đến chính sách
tiền tệ và tài chính của quốc gia.
1.2. TÍNH HAI MẶT CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát xảy ra nói chung là một tín hiệu không tốt cho nền kinh tế. Duy
trì lạm phát sẽ làm giảm dần lợi tức thực của những người có thu nhập thấp, những
người hưởng lương hưu và dẫn đến sai lệch trong việc phân phối của cải của xã
hội. Tuy nhiên, lòch sử lạm phát đã cho thấy rằng không phải bất cứ lúc nào lạm
phát xảy ra cũng là xấu, và cũng không phải ai cũng bò thiệt hại khi nền kinh tế bò
lạm phát. Cũng như đa số các hiện tượng kinh tế khác, lạm phát cũng có tính hai
mặt của nó là mang lại lợi ích cũng như gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế.
2.3.3. Những tác động tích cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Theo lý thuyết kinh tế vó mô, khi nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng,
hay nói cách khác, khi các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công nghệ…
chưa được khai thác hết thì khi mức giá chung tăng lên sẽ có tác dụng kích thích
các doanh nghiệp gia tăng đầu tư để tăng sản lượng hàng hoá cung ứng trên thò
trường, làm cho sản xuất được mở rộng. Sản xuất mở rộng sẽ tạo ra được nhiều
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 10
công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập của người dân. Đầu tư
cho sản xuất tăng, thu nhập của người dân tăng sẽ góp phần làm tăng tổng cầu.
Tổng cầu tăng lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Sản xuất và tiêu dùng liên
tục phát triển, mở rộng sẽ góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn đònh của nền kinh tế.
Trên giác độ này, lạm phát được xem là một nhân tố kích thích kinh tế phát triển.
Giá cả chung tăng tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nhưng không phải
tất cả các ngành trong nền kinh tế đều phát triển. Giá cả tăng sẽ làm cho các yếu
tố sản xuất đầu vào tăng giá, làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế, những ngành nào
tăng được giá bán thì sẽ tồn tại và phát triển, còn những ngành nào mà giá bán
không tăng được, hay thậm chí còn giảm xuống, thì có thể bò thu hẹp dần. Kết quả
là vốn đầu tư sẽ chuyển dòch, các ngành kinh tế phát triển được thì sẽ thu hút được
nhiều vốn đầu tư, còn các ngành không phát triển được sẽ thu hút được ít vốn đầu
tư, hơn nữa vốn đầu tư còn bò rút dần để đầu tư vào những lónh vực, ngành nghề
khác. Điều này sẽ góp phần làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng có lợi và
hiệu quả hơn.
Giá cả tăng không những góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn tạo
ra một áp lực cạnh tranh rất lớn trong nền kinh tế ở hầu hết các ngành nghề. Đối
với các ngành tăng được giá bán áp lực lớn nhất đối với các doanh nghiệp là làm
sao để duy trì và phát triển thò phần của mình. Còn những ngành không tăng giá
được các doanh nghiệp phải chòu áp lực lớn hơn vì vừa phải duy trì thò phần vừa
phải cố gắng hạ thấp chi phí để đảm bảo có lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, để tồn
tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng suất lao động, năng lực quản lý, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ giá
thành sản phẩm.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 11
Theo quan niệm của các nhà đầu tư tài chính, lạm phát cũng được xem như
là một nhân tố rủi ro tiềm ẩn và là một động cơ cần thiết để đầu tư sinh lợi. Rủi ro
này thể hiện ở sự không chắc chắn về giá trò của đồng tiền trong tương lai. Nếu
lạm phát tăng thì một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trò nhiều hơn một đồng trong
tương lai, tức giá trò đồng tiền giảm đi. Giá trò đồng tiền giảm đi theo thời gian như
là một thứ thuế đánh trên những người nắm giữ tiền. Điều này sẽ khuyến khích
những người nắm giữ tiền sử dụng tiền của mình để đầu tư sinh lợi, chẳng hạn như
gửi tiết kiệm, mua chứng khoán, góp vốn kinh doanh…, nhằm bảo tồn được giá trò
thực của tiền và có thể mang lại một giá trò tiền tệ lớn hơn. Kết quả là làm tăng
hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Giá cả tăng lên, đồng tiền bò mất giá, điều này sẽ có lợi cho một số bộ phận
trong xã hội đó là: chính phủ, các doanh nghiệp và người vay nợ.
- Chính phủ là người hưởng lợi trước tiên từ lạm phát. Giá cả tăng sẽ làm
tăng thu nhập của nhà sản xuất, và vì thế mức lương của người lao động cũng tăng
theo. Khi thu nhập của xã hội tăng thì thuế trả cho nhà nước cũng tăng. Trong khi
đó, các khoản chi trả lương, trợ cấp hưu trí… của nhà nước thường mang tính ổn
đònh trong một thời gian dài, hoặc nếu thay đổi cũng không bằng nguồn thu tăng
thêm vào ngân sách do tăng giá, cho nên nhà nước vẫn được lợi từ lạm phát. Hơn
nữa, chính phủ thường là chủ nợ lớn nhất trong xã hội dưới dạng các tài sản tài
chính như trái phiếu chính phủ, lạm phát sẽ làm cho phần lãi suất thực mà chính
phủ chi trả cho các khoản nợ bằng tiền trong nước sẽ giảm đi. Và nếu lạm phát
xảy ra là do phát hành tiền thì chính phủ càng được lợi hơn nữa, vì năng lực mua
sắm của những đồng tiền hiện có sẽ bò sụt giảm và chuyển dòch vào những đồng
tiền phát hành mới. Như vậy, rõ ràng chính phủ sẽ rất có lợi vì chỉ cần bỏ ra một ít
chi phí để in tiền là có thể dùng để mua sắm một khối lượng hàng hoá lớn hơn trên
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 12
thò trường. Cũng chính vì những mối lợi này mà đa số các chính phủ đều cố gắng
duy trì lạm phát trong nền kinh tế.
- Các doanh nghiệp cũng có lợi từ lạm phát đứng trên giác độ tăng giá bán
so với sự thay đổi tiền lương của người lao động. Thông thường, khi lạm phát xảy
ra các doanh nghiệp thường sẽ tăng giá bán trước khi có những quyết đònh để thay
đổi tiền lương cho người lao động. Sự thay đổi lương này thông thường được thực
hiện vào thời điểm đầu năm, và nếu có tăng lương thì mức tăng cũng thể không
cao hơn mức tăng giá vì thế lợi nhuận của nhà sản xuất thường cao hơn so với
trước.
- Đối với những người đi vay, nếu lãi suất đi vay không gắn với sự thay đổi
lạm phát thì khi giá cả tăng, năng lực mua sắm của đồng tiền bò giảm sút, vì thế
giá trò đồng tiền khi họ vay sẽ cao hơn giá trò đồng tiền mà họ trả lại nợ vay cho
chủ nợ, do đó người đi vay cũng sẽ được hưởng lợi từ lạm phát. Dó nhiên, nếu lãi
suất vay gắn với sự biến động của lạm phát thì người đi vay sẽ không có lợi gì.
Như vậy, lạm phát xảy ra cũng có những tác động tích cực nhất đònh đối với
nền kinh tế như tăng trưởng, gia tăng việc làm, kích thích cạnh tranh, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn... Tuy nhiên, những tác động tích cực trên chỉ có được thực
sự khi lạm phát xảy ra là thấp và mang tính ổn đònh trong một thời gian dài.
2.3.4. Những tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền kinh tế
Mặc dù trong một số trường hợp nào đó, lạm phát xảy ra là có lợi cho nền
kinh tế, nhưng nhìn chung, lạm phát xảy ra đều có những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, thể hiện ở một số mặt như : phân bố nguồn lực, phân phối thu nhập,
phát triển kinh tế và lãng phí của xã hội.
1.2.2.1. Phân bố nguồn lực không hiệu quả
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 13
Khi lạm phát xảy ra đồng tiền sẽ bò mất giá, đặc biệt là trong thời kỳ lạm
phát cao thì giá trò đồng tiền sẽ sụt giảm nghiêm trọng, cho nên càng giữ nhiều
tiền mặt trong tay thì càng trở nên nghèo đi. Để đối với với tình trạng này, người
ta chuyển sang nắm giữ các tài sản khác lâu bền hơn và giá trò ít bò biến động bởi
lạm phát hơn như bất động sản, vàng, đá qúi và các loại ngoại tệ mạnh. Các khoản
tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng sẽ bò sụt giảm do người dân không thích gửi tiền
vào ngân hàng nữa, không những thế họ còn đổ xô đến ngân hàng để rút tiền ra.
Điều này làm cho nguồn vốn cho vay của các ngân hàng bò giảm sút nghiêm trọng.
Nguồn vốn ngân hàng giảm sẽ làm tăng lãi suất cho vay, dẫn đến vốn đầu tư cho
sản xuất cũng giảm. Kết quả là vốn đầu tư vào sản xuất sẽ giảm đi, trong khi đó
vốn đầu tư vào các tài sản ngoài sản xuất như bất động sản sẽ tăng lên. Xét trên
giác độ nền kinh tế, các tài sản ngoài sản xuất không góp phần tạo ra sản phẩm
cho xã hội vì thế việc đầu tư nhiều vào các tài sản này sẽ làm giảm hiệu quả của
nền kinh tế.
1.2.2.2. Phân bố thu nhập bò biến dạng
Như đã phân tích ở phần trên, đứng trên giác độ phân phối thu nhập trong
xã hội thì lạm phát xảy ra sẽ có lợi cho người đi vay, nhà sản xuất và người phát
hành tiền, chính phủ, ngược lại, những người cho vay và những người hưởng lương,
trợ cấp sẽ bò thiệt hại.
Đối với người hưởng lương, trợ cấp thì khi lạm phát xảy ra, lương của họ
thường được điều chỉnh sau khi giá cả tăng lên, nhưng hầu như tốc độ tăng lương
không bằng với tốc độ tăng giá cả, vì thế lượng hàng hoá mà họ tiêu dùng sẽ thấp
hơn so với trước, kết quả là thu nhập thực sự của họ giảm xuống, do đó mức sống
sẽ ngày càng thấp nếu lạm phát ngày càng cao. Hơn nữa, do tốc độ tăng lương
chậm hơn tốc độ tăng giá sẽ làm cho lợi nhuận của nhà sản xuất tăng lên, do đó
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 14
một phần những khoản thiệt hại mà người lao động phải chòu đã chuyển thành
phần lợi mà nhà sản xuất được hưởng. Điều này làm cho nhà sản xuất dường như
ngày càng giàu hơn, trong khi đó người lao động, hưu trí ngày càng nghèo đi.
Đối với những người cho vay, thường là họ cho vay dưới dạng lãi suất cố
đònh, khi lạm phát xảy ra, những đồng tiền mà họ nhận được từ việc cho vay sẽ có
giá trò thấp hơn lúc cho vay, vì thế phần lãi suất thực mà họ được hưởng sẽ giảm
sút, thậm chí còn bò âm nếu lạm phát quá cao. Trong số những người cho vay, có
thể nói dân chúng là người cho vay nhiều nhất dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và mua
trái phiếu chính phủ, nên cũng là những người chòu thiệt hại nhiều nhất.
1.2.2.3. Làm suy thoái kinh tế
Lạm phát xảy ra làm cho nguồn lực phân bố không hiệu quả, các khoản đầu
tư không sản xuất gia tăng làm cho các khoản đầu tư vào sản xuất sụt giảm, làm
giảm cầu về các yếu tố sản xuất, do đó làm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Tổng
cầu và sản xuất sụt giảm sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế, tăng tình trạng thất
nghiệp và dẫn đến suy thoái kinh tế.
Lạm phát cao sẽ làm cho việc dự đoán giá cả và chi phí gặp khó khăn, do
đó các dự án đầu tư mới cũng sẽ khó được thực hiện. Giá cả tăng nên các yếu tố
sản xuất đầu vào cũng tăng, nhu cầu tiền vốn để thanh toán các giao dòch mua bán
cũng tăng làm cho lãi suất tăng cao. Lãi suất tăng lại làm tăng chi phí sản xuất,
giảm lợi nhuận cho nên sẽ không khuyến khích sản xuất phát triển. Hơn nữa, chi
phí tăng cao, lợi nhuận thấp sẽ không hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền vào thò
trường vốn. Kết quả là thò trường vốn trong nước bò suy yếu và thu hẹp dần, các
luồng vốn đầu tư quốc tế sẽ chạy qua các nước khác có mức lạm phát thấp hơn và
ổn đònh hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 15
Ngoài ra, nếu lạm phát trong nước cao hơn lạm phát ở nước ngoài sẽ làm
cho giá cả của hàng hoá trong nước tăng lên làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu, đồng thời kích thích nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng sẽ làm mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế, làm thu hẹp sản xuất
trong nước.
1.2.2.4. Tốn kém chi phí của xã hội
Do lạm phát gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế như đã kể
trên, vì thế khi lạm phát xảy ra các bộ phận trong nền kinh tế gồm chính phủ,
doanh nghiệp và người dân phải mất chi phí để tìm cách đối phó và kiểm soát lạm
phát.
Lạm phát xảy ra, người dân mà nhất là người lao động, hưu trí là những
người chòu thiệt hại nhiều nhất. Để đối phó với tình trạng này họ phải mất nhiều
thời gian, công sức để tính toán, tìm kiếm và mua sắm những hàng hoá có thể cất
trữ giá trò tốt hơn. Tiền mặt càng nhiều, thiệt hại càng lớn vì thế khối lượng giao
dòch mua bán hàng hoá cũng tăng lên, người dân chỉ cất trữ một số lượng rất ít tiền
mặt trong thời kỳ lạm phát để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày.
Hơn nữa, do tiền gửi tiết kiệm trong dân cũng rất lớn, do đó, người dân cũng phải
tốn nhiều thời gian, chi phí để đến các ngân hàng rút tiền và thanh toán các khoản
nợ mua hàng hoá, dòch vụ.
Khi lạm phát gia tăng, để có thể chủ động đối phó với các tình huống xấu
có thể xảy ra các doanh nghiệp phải tốn nhiều tiền hơn cho việc tổng hợp, phân
tích và dự báo thông tin kinh tế liên quan đến thò trường. Hơn nữa, để tránh bò lỗ
các doanh nghiệp cũng buộc phải thay đổi giá bán. Họ phải mất thời gian và tốn
kém chi phí để tính toán lại giá bán, in ấn lại bảng giá. Đối với những hàng hoá
mà giá in sẵn trên sản phẩm thì phải tốn thêm chi phí để điều chỉnh lại giá. Các
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 16
chi phí giao dòch với khách hàng cũng tăng lên để thông báo, giải thích về việc
thay đổi giá. Trong thời gian ngắn, sự sụt giảm về khối lượng hàng hoá bán ra là
không tránh khỏi do điều chỉnh tăng giá.
Lạm phát xảy ra ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trên giác độ
là người quản lý kinh tế vó mô chính phủ cũng phải tìm các biện pháp để kiểm soát
lạm phát sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế. Các biện pháp này cũng đòi hỏi phải
tốn thời gian, công sức và chi phí để thực hiện. Chẳng hạn như để chống lại tình
trạng lạm phát do một số loại nguyên vật liệu nhập khẩu tăng đột biến làm mức
giá chung tăng lên trên diện rộng, chính phủ có thể áp dụng biện pháp giảm thuế
nhập khẩu, chi bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này... Điều
này sẽ làm giảm nguồn thu vào ngân sách nhà nước và tăng chi tiêu của chính
phủ.
1.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
Hiện nay có nhiều phương pháp được dùng để đo lường lạm phát. Tùy vào
điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà chính phủ lựa chọn phương pháp phù hợp
sao cho kết quả đo lường có thể phục vụ một cách đắc lực nhất cho việc điều hành
các chính sách kinh tế vó mô và kiểm soát lạm phát. Để tính toán lạm phát, các
phương pháp được lựa chọn thường dùng các chỉ số như chỉ số giá sản xuất (PPI),
chỉ số giảm phát GDP, chỉ số giá bán lẻ (RPI), chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Trong
đó, hai chỉ số được sử dụng phổ biến nhất là chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giảm
phát GDP.
Đo lường chỉ số giá tiêu dùng CPI:
100
00
0
x
ii
i
t
i
qp
qp
CPI
∑
∑
=
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 17
0
i
p
: giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm 0.
t
i
p
: giá bán lẻ của sản phẩm i ở thời điểm t.
0
i
q
: lượng sản phẩm i ở thời điểm 0.
Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm
phát năm t
100x
CPI
CPI - CPI
1-t
1-tt
=
Chỉ số giá tiêu dùng được dùng để phản ánh mức giá trung bình của một rổ
hàng hoá, dòch vụ ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Nhược điểm chính của chỉ số này
là sự giới hạn của rổ hàng hoá cũng như sử dụng trọng số cố đònh trong tính toán.
Do đó, chỉ số giá không phản ánh được sự thay đổi chất lượng của hàng hoá, cơ
cấu hàng hoá tiêu dùng và sự biến đổi chi tiêu của người tiêu dùng cho những
hàng hoá khác nhau theo thời gian. Còn chỉ số giảm phát GDP được tính dựa vào
toàn bộ khối lượng hàng hoá, dòch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và
giá cả ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc. Về cơ bản thì chỉ số giảm phát GDP sẽ tính
toán lạm phát chính xác hơn chỉ số giá tiêu dùng theo đònh nghóa về lạm phát, vì
nó thể hiện được xu hướng tăng mức giá chung của hàng hoá. Tuy nhiên, chỉ số
giảm phát GDP chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi đã có thông báo chính
thức về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của năm đó, còn chỉ số giá sẽ có ưu điểm
hơn là tính được lạm phát tại từng tháng, từng qúy hay từng năm.
Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng phổ biến để thông tin về tình
hình lạm phát ở các thời kỳ trong năm, lạm phát đó gọi là lạm phát chỉ số giá tiêu
dùng. Nhưng việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ đã
gây ra nhiều tranh cãi và không thống nhất ở mỗi quốc gia. Đó là vì do xuất phát
từ các nhược điểm chính như đã kể trên, chỉ số giá tiêu dùng rất dễ bò tác động bởi
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 18
các cú sốc tạm thời lên một số hàng hoá, đặc biệt là những mặt hàng chiếm tỷ
trọng lớn trong rổ hàng hoá. Chính vì dễ bò tác động nên chỉ số giá tiêu dùng
thường không ổn đònh, do đó sẽ dễ dẫn đến sai lệch khi dùng nó để dự báo xu
hướng lạm phát và có thể làm chệch hướng chính sách tiền tệ. Khắc phục nhược
điểm đó, các nước đã áp dụng nhiều phương pháp để tìm ra một chỉ số giá khác
mang tính ổn đònh hơn và ít chòu sự tác động của những cú sốc tạm thời hơn. Chỉ số
giá mới này được tính toán trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng nhưng có loại trừ ảnh
hưởng của các hàng hoá có mức giá dao động mạnh như: giá lương thực thực
phẩm, xăng dầu, năng lượng. Do đó, lạm phát được đo lường từ chỉ số giá mới này,
được gọi là “lạm phát cơ bản” (core inflation), sẽ thể hiện chính xác hơn sự gia
tăng mức giá chung của nền kinh tế. Và đây là mục tiêu chính mà chính sách tiền
tệ cần tác động để kiểm soát lạm phát trong nền kinh tế.
1.4. KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
1.4.1. Chấm dứt siêu lạm phát ở Bolivia
Chương trình chống lạm phát nổi bật nhất trong thập kỷ 80 là chương trình
của Bolivia. Nửa đầu năm 1985, tỷ lệ lạm phát của Bolivia là 20.000% và đang
trên đà tăng lên. Tỷ lệ lạm phát cao đến nỗi giá vé chiếu bóng thường tăng trong
khi người dân đang xếp hàng mua vé. Tháng 08/1985, Tổng thống mới của Bolivia
tuyên bố chương trình chống lạm phát, gọi là “Chính sách kinh tế mới”. Để kìm
chế sự tăng trưởng tiền tệ và thiết lập lòng tin, chính phủ mới tiến hành những
biện pháp mạnh mẽ để giảm thâm hụt ngân sách bằng cách đóng cửa nhiều xí
nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, hủy bỏ trợ cấp, giữ yên tiền lương của
khu vực nhà nước, và tăng thuế thu nhập. Ngân sách nhà nước được giữ thăng
bằng trên cơ sở hàng ngày và không có ngoại lệ, bộ trưởng tài chính không cho
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 19
phép chi quá số thuế đã thu được từ ngày hôm trước. Kết quả là lạm phát ở Bolivia
đã dừng lại trên đường đi của nó trong vòng một tháng và mức tụt giảm sản phẩm
rất ít, không đến 5% GDP.
Như vậy, kinh nghiệm rút ra từ việc kiểm soát lạm phát ở Bolivia là khi rơi
vào tình trạng siêu lạm phát, chính phủ cần phải kiên quyết thực hiện các biện
pháp triệt để và đồng bộ nhằm hạ nhiệt cơn sốt lạm phát.
1.4.2. Kiểm soát lạm phát ở Trung quốc
Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung quốc
đã có những bước phát triển rất nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân vào khoảng
10% một năm. Đặc biệt, từ năm 2003 cho đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã
phát triển quá nóng so với các nước khác trên thế giới, điều này tạo ra một áp lực
rất lớn cho nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Gần cuối năm 2004, Trung Quốc đã trở
thành nước lớn thứ ba trên thế giới về kim ngạch ngoại thương và đạt trên 1.000 tỷ
USD. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã đề ra các biện pháp cấp bách
nhằm hạ nhiệt nền kinh tế và giảm nguy cơ lạm phát cao.
Biện pháp trước tiên mà chính phủ Trung Quốc thực hiện là cắt giảm đầu tư
và chi tiêu một cách nhanh chóng. Từ năm 2003, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh
việc phát hành trái phiếu chính phủ xuống còn 150 tỷ NDT, và dự kiến năm 2004
còn giảm thấp hơn năm 2003. Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện
việc cắt giảm chi ngân sách và chi đầu tư. Ngay từ trung tuần tháng 05/2004,
Trung Quốc đã quyết đònh cắt giảm ngay các khoản đầu tư vào các ngành sản xuất
thép, kim loại màu, vật liệu xây dựng, dệt may... để kòp thời ngăn chặn lạm phát
và tăng trưởng kinh tế quá nóng.
Thứ hai, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành các biện pháp để điều chỉnh
giá cả thò trường, đặc biệt là thò trường bất động sản, vật liệu xây dựng, xăng dầu
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 20
và điện. Theo đó, hạn chế tối đa việc khởi công thực hiện các dự án mới và việc
đầu tư vào những dự án kém hiệu quả, chồng chéo ngành nghề, nhưng đồng thời
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, dự án làm ăn có hiệu quả. Về
thò trường bất động sản, xác đònh nguyên nhân tăng giá nhà đất là do một số nhà
đầu tư đã bỏ vốn đầu cơ vào nhà đất chứ không phải đầu tư vào phát triển kinh
doanh và do tốc độ đô thò hoá đang diễn ra rất nhanh, hàng năm có hàng triệu
người từ nông thôn nhập cư vào các thành phố. Vì vậy, chính phủ Trung Quốc đã
có các biện pháp để kiểm soát tăng giá bất động sản như thu hồi các bất động sản
không đưa vào sử dụng trong vòng hai năm, điều tiết để giá bất động sản không
tăng nhanh hơn tỷ lệ lãi suất ngân hàng, bãi bỏ các dự án treo chưa thực hiện hoặc
kéo dài.
Thứ ba, để kiểm soát việc gia tăng đầu tư, chính phủ Trung Quốc đã cho
thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát việc gia tăng tín dụng và
khả năng thanh toán của hệ thống tài chính trong nước. Liên tục từ năm 2003 đến
nay, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã nhiều lần thực hiện điều chỉnh lãi suất
tín dụng, và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng từ 6% lên 7,5%. Từ
đầu năm 2004, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cho mở rộng biên độ dao
động lãi suất của các tổ chức tín dụng lên 1,7 lần so với mức lãi suất cơ bản, trong
đó, hợp tác xã nông thôn được mở rộng biên độ lãi suất lên đến 2 lần so với mức
lãi suất cơ bản.
Thứ tư, củng cố và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống của
người dân nông thôn, và duy trì sự ổn đònh của giá cả lương thực. Từ đầu năm
2004, Trung quốc bắt đầu thực hiện việc cắt giảm thuế nông nghiệp và dự kiến
trong vài năm nữa sẽ tiến tới xoá bỏ thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ
Trung quốc cũng gia tăng đầu tư vào các cơ sở hạ tầng nông thôn và các doanh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 21
nghiệp kinh doanh trong lónh vực nông nghiệp. Tăng cường quản lý các loại vật tư,
phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thực hiện việc trợ cấp trực tiếp cho
nông dân trồng cây lương thực.
Với những biện pháp quyết liệt và đồng bộ nêu trên, tình hình tăng trưởng
kinh tế quá nóng của Trung quốc đã có dấu hiệu chững lại, các nguy cơ gây áp lực
tăng giá đã có dấu hiệu giảm xuống. Theo dự đoán, năm 2004 tốc độ tăng trưởng
của Trung Quốc sẽ đạt 9,3% và lạm phát là 5%.
Qua kinh nghiệm kiểm soát lạm phát của Trung Quốc, có thể thấy rằng tăng
trưởng quá cao sẽ làm gia tăng nguy cơ xảy ra tình trạng lạm phát cao. Vì vậy, cần
phải có các liệu pháp thích hợp để “hạ nhiệt” nền kinh tế một cách an toàn, tránh
gây ra những tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế.
1.4.3. Lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước kinh
tế phát triển
Trong suốt nhiều năm, một số nước có nền kinh tế phát triển như Anh, New
Zealand, Canada, Phần Lan, Thụy Điển,... đã bò thất bại trong việc kiểm soát lạm
phát bằng các phương pháp truyền thống khi sử dụng những mục tiêu trung gian
như lãi suất, tỷ giá hối đoái, kết quả là lạm phát thường ở mức cao và các chi phí
để kiểm soát lạm phát dường như rất tốn kém. Để khắc phục tình trạng trên, chính
phủ các nước đã nghiên cứu và áp dụng một phương cách để kiểm soát lạm phát
mới và bắt đầu tập trung vào mục tiêu chính là tỷ lệ lạm phát. Sự thay đổi này
trong việc kiểm soát lạm phát, chủ yếu sử dụng trong việc điều hành chính sách
tiền tệ được gọi là lạm phát mục tiêu. Tức thay đổi cách thức kiểm soát lạm phát,
chuyển từ việc chống lại lạm phát sang việc ngăn chặn các nguy cơ xảy ra lạm
phát, tức chuyển từ chữa bệnh sang phòng ngừa bệnh.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 22
Trước tiên, chính phủ các nước này quyết đònh rằng đạt được mục tiêu ổn
đònh giá, tức là một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn đònh, là trách nhiệm chính của chính
sách tiền tệ để hỗ trợ phát triển kinh tế. Thứ hai, kinh nghiệm thực tế đã chứng
minh rằng trong thời gian ngắn hạn, việc sử dụng chính sách tiền tệ để đạt được
những mục tiêu khác như tăng trưởng và việc làm cao, có thể tạo ra mâu thuẫn với
chính sách ổn đònh giá. Một số nhà kinh tế cho rằng việc cố gắng để đạt nhiều
mục tiêu kinh tế khiến cho chính sách tiền tệ có khuynh hướng tạo ra lạm phát.
Ngân hàng trung ương chắc chắn sẽ bò nhiều chỉ trích của xã hội khi tăng lãi suất
để chống lạm phát hơn là hạ thấp lãi suất, và họ phải chòu áp lực thường xuyên đối
với việc hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế. Lạm phát mục tiêu sẽ làm thay đổi sự
bất cân xứng này bằng việc xem lạm phát là mục tiêu cơ bản của chính sách tiền
tệ, còn các mục tiêu việc làm, tăng trưởng hay các mục tiêu khác chỉ là thứ yếu.
Điều này cũng buộc ngân hàng trung ương phải có cái nhìn đi trước, nhằm sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để làm giảm bớt các áp lực
gây ra lạm phát.
Về lý thuyết, lạm phát mục tiêu không quá phức tạp để thực hiện. Theo đó,
ngân hàng trung ương sẽ dự đoán đường đi tương lai của lạm phát, dự đoán này có
so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu mà chính phủ đã lựa chọn và tin tưởng thích
hợp đối với nền kinh tế. Sự khác nhau giữa dự đoán và mục tiêu sẽ làm căn cứ
đònh lượng cho chính sách tiền tệ. Những nước áp dụng phương pháp lạm phát mục
tiêu tin tưởng rằng điều này sẽ làm thay đổi nội dung và hình thức của chính sách
tiền tệ được thực hiện bởi ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu đòi hỏi phải hội
đủ hai điều kiện cần thiết. Thứ nhất, ngân hàng trung ương phải có khả năng để
điều hành chính sách tiền tệ ở một mức độ tương đối độc lập, ít chòu tác động của
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 23
chính phủ. Dó nhiên không có ngân hàng trung ương nào hoàn toàn độc lập khỏi
chính phủ, nhưng nó phải được tự do trong việc chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ
lạm phát mà chính phủ cho là thích hợp. Để tuân thủ với điều kiện này, một quốc
gia không thể biểu lộ sự thống trò của chính sách tài chính, tức chính sách tài chính
không được chi phối chính sách tiền tệ. Sự độc lập khỏi chính sách tài chính ngụ ý
rằng chính phủ mượn tiền từ ngân hàng trung ương cao hay thấp là tùy thuộc thò
trường tài chính trong nước có đủ khả năng để tiếp nhận các khoản nợ hay không.
Điều này cũng đồng nghóa với việc thu nhập của chính phủ không được dựa vào
nguồn thu nhập từ việc đúc tiền. Nếu vò thế tài chính tồn tại, áp lực lạm phát do
nguyên nhân tài chính sẽ làm suy yếu những kết quả của chính sách tiền tệ bằng
việc ràng buộc ngân hàng trung ương đáp ứng các nhu cầu tiền tệ của chính phủ
như nới lỏng lãi suất để đạt được các mục tiêu tài chính. Điều kiện thứ hai để thực
hiện lạm phát mục tiêu là sự sốt sắng và khả năng của các quan chức điều hành
chính sách tiền tệ không chuyển sang việc thực hiện các mục tiêu khác như: việc
làm, tỷ giá hối đoái. Chẳng hạn như, một quốc gia lựa chọn hệ thống tỷ giá hối
đoái cố đònh thường theo đuổi mục tiêu tỷ giá, do đó sẽ không có khả năng để
điều hành một hệ thống lạm phát mục tiêu, đặc biệt khi vốn được tự do lưu chuyển
ra vào khỏi quốc gia. Vì vậy, mọi người sẽ không chắc chắn được rằng các quan
chức điều hành sẽ ưu tiên cho việc thực hiện lạm phát mục tiêu hay là tỷ giá hối
đoái, điều này làm cho chính sách tiền tệ không có được sự đáng tin cậy, một điều
kiện cần thiết cho việc thành công của chính sách.
Như vậy, về mặt lý thuyết nếu thỏa mãn hai điều kiện căn bản này, một
quốc gia có thể điều hành chính sách tiền tệ của mình tập trung vào lạm phát mục
tiêu. Trên thực tế, để lựa chọn tỷ lệ lạm phát mục tiêu các quan chức điều hành
cũng phải thực hiện một vài bước sơ bộ. Họ phải thiết lập những mục tiêu đònh
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 24
lượng về lạm phát cho một vài thời kỳ trong tương lai. Họ phải biểu thò một cách
rõ ràng và minh bạch với cộng đồng rằng việc đạt được lạm phát mục tiêu là ưu
tiên hàng đầu so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ. Họ phải xây dựng
một mô hình hay phương pháp để dự đoán lạm phát, trong đó có sử dụng một số
dấu hiệu hàm chứa thông tin về lạm phát tương lai. Sau cùng, họ phải đề ra kế
hoạch cho các phương thức thực hiện trong tương lai trong đó, các công cụ của
chính sách tiền tệ được điều chỉnh để đạt được mục tiêu lạm phát đã lựa chọn.
Muốn vậy, các quan chức điều hành phải có năng lực tổ chức và điều hành đối với
mô hình, có khả năng dự đoán lạm phát, biết được độ trễ thời gian của việc thực
hiện các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên tỷ lệ lạm phát, cũng như sự phối
của các công cụ với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
Với phương thức kiểm soát lạm phát mới được áp dụng, các nước kinh tế phát
triển nêu trên đã đạt được những thành công nhất đònh trong việc kiểm soát lạm
phát, thực tế là trong hơn một thập kỷ qua, tỷ lệ lạm phát ở các nước này luôn
được duy trì ổn đònh ở mức thấp.
Qua kinh nghiệm kiểm soát ở một số nước đã phát triển, ta có thể thấy rằng
khi nền kinh tế đã tăng trưởng ổn đònh, thì vấn đề ổn đònh giá được ưu tiên hàng
đầu trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Hơn nữa, để việc thực thi chính sách tiền
tệ đạt được hiệu quả cao đòi hỏi các quan chức điều hành chính sách tiền tệ phải
có trình độ cao, năng lực quản lý giỏi và tính độc lập cao của ngân hàng trung
ương trong điều hành chính sách tiền tệ.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Trang 25
Kết luận chương 1
Lạm phát là một hiện tượng của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, khi nào còn
tiền tệ thì lạm phát vẫn còn xuất hiện. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau liên
quan đến vấn đề lạm phát, nhưng đa số các nhà kinh tế đều có một thống nhất
chung rằng lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế.
Mức giá chung tăng lên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có ba nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến việc tăng giá đó là do tăng cung ứng tiền tệ, do cầu kéo và do chi phí
đẩy. Nếu xét trong dài hạn, việc tăng mức giá chung bao giờ cũng liên quan đến
việc tăng cung tiền trong nền kinh tế và tình trạng lạm phát cao bao giờ cũng gắn
liền với việc phát hành quá mức tiền giấy vào trong lưu thông. Chính vì thế, việc
kiểm soát lạm phát luôn là đối tượng của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
của một quốc gia.
Tùy vào đặc điểm và tình hình kinh tế ở mỗi nước, các quốc gia khác nhau
có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để kiểm soát lạm phát, hoặc đưa ra các
biện pháp kiểm soát khi lạm phát đã xảy ra hoặc đưa ra các biện pháp phòng ngừa
ngăn chặn lạm phát xảy ra. Thực tế kiểm soát lạm phát ở các nước hiện nay cho
thấy, việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa tỏ ra có hiệu quả và ít
tốn kém hơn trong việc kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, cho dù thực hiện theo
phương cách nào các biện pháp kiểm soát đưa ra muốn đạt được thành công đều
phải dựa trên sự phân tích kỹ càng các nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như các
nhân tố gây áp lực lên lạm phát, có như vậy, các biện pháp đưa ra sẽ có tác động
nhanh hơn đến lạm phát và ít tốn kém hơn.
Một số giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam