Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đặc điểm lâm sàng giải phẫu bệnh ung thư nguyên phát đồng thời ở tử cung và buồng trứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.64 KB, 5 trang )

PHỤ KHOA

NGUYỄN THỊ TUYỀN, PHÙNG QUANG THUỶ, ĐÀO DUY QUÂN, LƯU THỊ HỒNG, PHẠM THỊ THANH YÊN, LÊ HOÀNG LINH,
TRẦN THỊ HẢI YẾN, NGUYỄN ĐÌNH QUYẾT, TRẦN TUẤN VŨ, NGUYỄN VIỆT THẮNG, LÊ QUANG VINH

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG GIẢI PHẪU BỆNH
UNG THƯ NGUYÊN PHÁT ĐỒNG THỜI Ở TỬ CUNG
VÀ BUỒNG TRỨNG
Nguyễn Thị Tuyền(1), Phùng Quang Thuỷ(3), Đào Duy Quân(2), Lưu Thị Hồng(1), Phạm Thị Thanh Yên(2), Lê Hoàng Linh(2),
Trần Thị Hải Yến(2), Nguyễn Đình Quyết(2), Trần Tuấn Vũ(2), Nguyễn Việt Thắng(2), Lê Quang Vinh(2)
(1) Đại học Y Hà Nội, (2) Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, (3) Bệnh viện Vinmec

Từ khóa: ung thư đồng thời,
Ung thư tuyến nội mạc tử cung,
ung thư buồng trứng.
Keywords: Coexisting cancer,
Endometrial adenocarcinoma,
ovarian cancer.

Tóm tắt

Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh các trường
hợp ung thư nguyên phát đồng thời ở nội mạc tử cung và ở buồng trứng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện dựa trên
bệnh án của 27 người bệnh đã được chẩn đoán là ung thư đồng thời nội
mạc tử cung và buồng trứng nguyên phát từ năm 2002 đến năm 2017.
Kết quả và kết luận: Tuổi trung bình của người bệnh ở thời điểm chẩn
đoán là 49. Các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, ra máu âm
đạo bất thường là dấu hiệu phổ biến nhất (70,4%). Nồng độ CA-125
tăng ở hầu hết các trường hợp (86,7%), nồng độ CA-125 trung bình là
173,7U/ml. Siêu âm phát hiện 21 trường họp có u tiểu khung (77,8%),


20 trường hợp nội mạc tử cung dày hoặc có u (40,7%) và 16 trường
hợp thấy dịch cổ chướng (59,3%). Ung thư týp dạng nội mạc ở tử cung
gặp phổ biến nhất (70,4%), tiếp theo là týp thanh dịch (18,5%), tế bào
sáng (7,4 %), và ung thư biểu mô liên kết (3,7%). Đối với ung thư buồng
trứng, hai týp mô bệnh học phổ biến là ung thư biểu mô tuyến dạng nội
mạc và ung thư biểu mô tuyến thanh dịch có tỷ lệ lần lượt là 63,0% và
22,2%. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, 20
trường hợp ung thư nội mạc tử cung ở giai đoạn I (74,1%), 23 trường
hợp ung thư buồng trứng ở giai đoạn I (85,2%).
Tử khoá: ung thư đồng thời, Ung thư tuyến nội mạc tử cung, ung thư
buồng trứng.

Tập 16, số 01
Tháng 05-2018

Abstract

122

Tác giả liên hệ (Corresponding author):
Lê Quang Vinh,
email:
Ngày nhận bài (received): 02/04/2018
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised):
02/04/2018
Ngày bài báo được chấp nhận đăng
(accepted): 27/04/2018

CLINICOPATHOLOGICAL CHARACTERISTICS
OF PATIENTS WITH PRIMARY SYNCHRONOUS

ENDOMETRIAL AND OVARIAN CANCERS

Objectives: To determine the clinical characteristics and pathology of
synchronous primary andometrial and ovarian cancers.
Subjects and methods: Retrospective study on 27 patients diagnosed
with primary endometrial and ovarian cancers ovaries from 2002 to 2017.


1. Đặt vấn đề

Ung thư nguyên phát đồng thời ở buồng trứng
và nội mạc tử cung hiếm gặp. Bệnh này thấy
khoảng 10% ở các trường hợp ung thư buồng
trứng và khoảng 5% ở các trường hợp ung thư nội
mạc tử cung. Xác định giai đoạn FIGO thường
nhầm sang giai đoạn III của ung thư nội mạc tử
cung hoặc giai đoạn II của ung thư buồng trứng
[1]. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, các trường
hợp ung thư nguyên phát đồng thời về tổng thể
có tiên lượng tốt hơn các trường hợp ung thư nội
mạc tử cung hay buồng trứng độc lập, một trong
2 cơ quan là tổn thương thứ phát [2]. Dù đã có
nhiều tiến bộ trong xét nghiệm sinh học phân tử,
hoá mô miễn dịch, nhưng cho đến nay, việc chẩn
đoán ung thư đồng thời nguyên phát ở tử cung và
buồng trứng còn gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích “Đánh
giá đặc điểm lâm sàng giải phẫu bệnh của các
bệnh nhân bị ung thư đồng thời nội mạc tử cung
và buồng trứng nguyên phát”.


2. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu

Tập 16, số 01
Tháng 05-2018

- Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu 27
bệnh án ung thư nguyên phát đồng thời ở nội mạc

tử cung và buồng trứng đã điều trị tại bệnh viện
Phụ Sản Trung ương từ năm 2002 đến 2017.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các trường hợp được
phẫu thuật tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương vì ung
thư buồng trứng xảy ra đồng thời với ung thư nội
mạc tử cung. Hồ sơ bệnh án có đầy đủ thông tin
lâm sàng, cận lâm sàng, có đủ tiêu bản và khối nến.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các trường hợp ung thư di
căn tử cung và buồng trứng.
- Quy trình nghiên cứu: Hồi cứu bệnh án lưu
trữ để thu thập các thông tin về tuổi người bệnh
ở thời điểm chẩn đoán bệnh, các triệu chứng
lâm sàng, tiền sử sản khoa, các kết quả cận lâm
sàng, phương pháp điều trị, kết quả điều trị và
kết quả giải phẫu bệnh của 27 người bệnh. Xem
lại các tiêu bản nhuộm HE/hoá mô miễn dịch lưu
trữ tại khoa Giải phẫu bệnh bệnh viện Phụ sản
Trung ương. Sử dụng các tiêu chuẩn mô bệnh
học của Young và Scully [3] để xác định là u
nguyên phát đồng thời ở tử cung và buồng trứng.

Xếp loại mô học và giai đoạn FIGO theo phân
loại của Tổ chức Y tế Thế giới các u cơ quan sinh
dục nữ năm 2014 [4].
- Phân tích thống kê sử dụng phần mềm SPSS
16.0 để tính tuổi trung bình của bệnh nhân,
xác định tỷ lệ phân bố các týp mô học, mối liên
quan của các biến số lâm sàng, cận lâm sàng
và mô học.

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 16(01), 122 - 126, 2018

Results and conclusion: The average age of patients was 49 years. Non-specific clinical symptoms,
abnormal vaginal bleeding is the most common sign (70.4%). CA-125 concentrations increased in
almost all cases (86.7%), mean CA-125 was 173.7 U / ml. Ultrasonography revealed 21 cases with
tumors in pelvic cavity (77.8%), 20 cases with endometrial thickening or with mass in the uterine
cavity (40.7%). and 16 cases with ascite (59.3%). In 27 cases of uterine cancer, the most common
type of endometrioid cancer (70.4%), followed by the serous adenocrcinom (18.5%), the clear cell
carcinoma (7.4%), and the carcinosarcoma (3.7%). The two most common types of histopathology
of the ovarian cancers were endometrioid adenocarcinoma and serous adenocarcinoma at 63.0%
and 22.2%, respectively. According to FGO stage, almost cases are diagnosed at an early stage, 20
cases of endometrial cancer in stage I (74.1%). For ovarian cancer, 23 cases of ovarian cancers in
stage I (85.2%).
Key words: Coexisting cancer, Endometrial adenocarcinoma, ovarian cancer.

123


PHỤ KHOA

NGUYỄN THỊ TUYỀN, PHÙNG QUANG THUỶ, ĐÀO DUY QUÂN, LƯU THỊ HỒNG, PHẠM THỊ THANH YÊN, LÊ HOÀNG LINH,

TRẦN THỊ HẢI YẾN, NGUYỄN ĐÌNH QUYẾT, TRẦN TUẤN VŨ, NGUYỄN VIỆT THẮNG, LÊ QUANG VINH

3. Kết quả

Tuổi trung bình của 43 bệnh nhân tại thời điểm
chẩn đoán là 49 năm, bệnh nhân có tuổi trẻ nhất
là 31 tuổi, cao tuổi nhất là 69 tuổi. Có 4 (14,8%)
trường hợp <40 năm, 13 (48,2%) trường hợp trong
độ tuổi từ 40-50 năm và có 10 (37,0%) trong độ
tuổi >50 năm. Tổng số 8 bệnh nhân mãn kinh chiếm
29,6%, 4 trường hợp không sinh đẻ 14,8%.
Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung và buồng trứng đồng thời.
Các đặc điểm
Số lượng
Tỷ lệ %
Triệu chứng lâm sàng (n=27)
Chảy máu âm đạo
19
70,4
Đau và đầy bụng
11
40,7
U ở tiểu khung
7
25,9
CA-125 (n=15)
Bình thường (35U/ml<)
2
13,3
<500U/ml

7
46,7
>500U/ml
6
40,0
Siêu âm (n=27)
U trong tiểu khung
21
77,8
Dày nội mạc
11
40,7
U trong buồng tử cung
9
33,3
Dịch cổ chướng
16
59,3

Nhận xét: Triệu chứng lâm sàng thường gặp
nhất là chảy máu âm đạo bất thường thường gặp
ở 19 trường hợp (70,4%), tiếp theo là đau bụng
và/hoặc đầy bụng và u ở tiểu khung chiếm tỷ lệ
lần lượt là 40,7% và 25,9%. Kết quả xét nghiệm
CA-125 được thực hiện ở 15 trường hợp, trong
đó 13 trường hợp có mức CA-125 cao >35U/
ml (86,7%), bao gồm 7 trường hợp có nồng độ
CA-125<500U/ml và 6 trường hợp có nồng độ
CA-125>500U/ml. Nồng độ CA-125 trung bình
là 173,7U/ml. Tổng cộng có 27 trường hợp được

khám siêu âm vùng chậu, kết quả cho thấy 21
bệnh nhân có khối u bụng (77,8%), 11 bệnh nhân
bị dày nội mạc tử cung (40,7%), 9 bệnh nhân có u
trong buồng tử cung (33,3%) và 16 bệnh nhân có
dịch ổ bụng (59,3%).

Tập 16, số 01
Tháng 05-2018

Bảng 2. Sự phân bố các týp mô bệnh học ở bệnh nhân bị ung thư nội mạc tử cung
Týp mô bệnh học
Số lượng
Tỷ lệ %
Ung thư biểu mô dạng nội mạc
19
70,4
Ung thư biểu mô thanh dịch
5
18,5
Ung thư biểu mô tế bào sáng
2
7,4
Các loại khác
1
3,7
Tổng
27
100

124


Nhận xét: Ung thư týp dạng nội mạc và týp
thanh dịch là phổ biến nhất, chiếm lần lượt 70,4%

và 18,5%. Ngoài ra, gặp 2 týp chiếm tỷ lệ thấp
hơn là ung thư biểu mô tế bào sáng (7,4%) và ung
thư biểu mô liên kết (3,7%).
Bảng 3. Sự phân bố các týp mô bệnh học ở bệnh nhân bị ung thư buồng trứng
Týp mô bệnh học
Số lượng
Tỷ lệ %
Ung thư biểu mô dạng nội mạc
17
63,0
Ung thư biểu mô thanh dịch
6
22,2
Ung thư biểu mô tế bào sáng
3
11,1
Các loại khác
1
3,7
Tổng
27
100

Nhận xét: Hai týp ung thư dạng nội mạc và
thanh dịch chiếm đa số các trường hợp với tỷ lệ lần
lượt là 63,0% và 22,2 %, Các týp ung thư biểu mô

khác ít gặp chiếm 14,7%.
Bảng 4. Xác định giai đoạn lâm sàng theo FIGO
Ung thư nội mạc tử cung
Giai đoạn FIGO
Số lượng
Tỷ lệ %
I
20
74,1
II
5
18,5
III
2
5,4
IV
0
V
0

Ung thư buồng trứng
Số lượng
Tỷ lệ %
23
85,2
2
5,4
1
3,7
1

3,7
0

Nhận xét: Hầu hết các trường hợp ung thư tử
cung, buồng trứng đều được chẩn đoán và điều
trị ở giai đoạn I chiếm tỷ lệ lần lượt là 74,1% và
85,2%. Chỉ có 2 trường hợp ung thư tử cung ở giai
đoạn III và 2 trường hợp ung thư buồng trứng ở giai
đoạn III và IV.
Bảng 5. Điều trị bổ trợ các trường hợp đồng ung thư tử cung và buồng trứng
Điều trị bổ trợ
Số lượng
Tỷ lệ %
Hoá trị trước mổ
3
11,1
Hoá trị sau mổ
27
100
Hoá trị và xạ trị
2
7,4

Nhận Xét: Tống số 27 trường hợp đều được
phẫu thuật cắt tử cung buồng trứng và mạc nối lớn.
Trong đó, có 3 (11,1%) trường hợp được điều trị
tân bổ trợ trước mổ, 27 (100%) trường hợp được
điều trị hoá chất sau mổ trong đó có 2 (7,4%)
trường hợp điều trị phối hợp hoá chất và tia xạ.


4. Bàn luận

Đồng ung thư nội mạc và buồng trứng không
giống ung thư buồng trứng hoặc tử cung đơn
độc. Young và Scully [3] đã xây dựng một số
tiêu chuẩn để chẩn đoán đồng ung thư nguyên
phát ở tử cung và buồng trứng, các tiêu chuẩn


u bụng (25,58%), đau và đầy bụng (39,53%).
Phẫu thuật cắt tử cung, hai phần phụ và mạc nối
lớn là phương pháp điều trị chính cho ung thư
nội mạc tử cung và buồng trứng. Ung thư đồng
thời nội mạc tử cung và buồng trứng nguyên
thường bị chẩn đoán sai như giai đoạn III của
ung thư nội mạc tử cung hoặc giai đoạn II của
ung thư buồng trứng, do đó bệnh nhân thường
bị điều trị quá mức. Trong nghiên cứu, hầu hết
các trường hợp ung thư tử cung, buồng trứng đều
được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn I chiếm
tỷ lệ lần lượt là 74,1% và 85,2%. Chỉ có 2 trường
hợp ung thư tử cung ở giai đoạn III và 2 trường
hợp ung thư buồng trứng ở giai đoạn III và IV.
Điều trị bệnh nhân ung thư buồng trứng nói
chung dựa trên hóa trị bằng phác đồ paclitaxel
cộng với cisplatin (TP) hoặc phác đồ cicplatin +
doxorubicin + cyclophosphamide (PAC) và thời
gian điều trị từ 2 đến 10 chu kỳ, thường là từ
3 đến 6 chu kỳ. Tuy nhiên, bệnh nhân ung thư
buồng trứng giai đoạn I hoặc II không cần hóa

trị liệu. Năm 1982, Eifel [6] đề xuất rằng những
bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ sau đây của
ung thư nội mạc tử cung nên được xạ trị bổ trợ: i)
týp mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến thanh
dịch hoặc ung thư biểu mô tuyến vảy; ii) độ ác
tính II và III; iii) xâm nhập vào sâu vào cơ tử
cung. Tuy nhiên, điều trị bổ trợ cho những bệnh
nhân này còn nhiều tranh cãi. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, điều trị phẫu thuật đã được sử
dụng cho tất cả 27 bệnh nhân. Các bệnh nhân
này đều đã được hoá trị liệu bổ trợ sau phẫu
thuật, 2 bệnh nhân được điều trị bổ sung phối
hợp hoá trị liệu và xạ trị và 3 bệnh nhân được
hóa trị liệu tân bổ trợ trước phẫu thuật.

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 16(01), 122 - 126, 2018

5. Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình
của các bệnh nhân bị đồng thời ung thư tử cung
và buồng trứng nguyên phát trẻ hơn các trường
hợp bị ung thư tử cung hoặc buồng trứng đơn
độc. Triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu.
Các týp mô bệnh học phổ biến là ung thư biểu
mô tuyến dạng nội mạc tử cung và thanh dịch.
Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán ở giai
đoạn sớm.

Tập 16, số 01

Tháng 05-2018

đó bao gồm: i) Không có sự tương đồng mô học
trên u ở 2 cơ quan; ii) Không có hoặc chỉ có sự
xâm lấn cơ bề mặt của u nội mạc tử cung; iii)
Không thấy sự xâm nhập mạch của u nội mạc tử
cung; iv) Còn thấy vùng quá sản nội mạc tử cung
không điển hình; v) Không thấy bằng chứng
khác về sự lan rộng của u nội mạc tử cung; vi) U
buồng trứng một bên; vii) U khu trú trong nhu mô
buồng trứng; viii) Không xâm nhập mạch, cấy
ghép ở bề mặt hoặc chủ yếu khu trú ở vùng rốn
buồng trứng; ix) Không thấy sự lan tràn ở buồng
trứng; x) Có lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng;
xi) Mức bội thể của chỉ số DNA khác nhau, nếu
là lệch bội của mô u; xii) Những bất thường di
truyền phân tử hoặc bất thường bộ nhiễm sắc
thể không đồng nhất trong các u. Halperin và
cộng sự đã nhận thấy rằng, 62,5% các trường
hợp đồng ung thư nguyên phát tử cung buồng
trứng có thể chẩn đoán được bằng các thụ thể
nội tiết (ER, PR) và 31,3% được xác định bởi sự
có mặt của Bcl-2 [5]. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy: Đối với ung thư nội mạc tử
cung, ung thư týp dạng nội mạc và týp thanh
dịch là phổ biến nhất, chiếm lần lượt 70,4% và
18,5%. Ngoài ra, gặp 2 týp chiếm tỷ lệ thấp
hơn là ung thư biểu mô tế bào sáng (7,4%) và
ung thư biểu mô liên kết (3,7%). Đối với ung thư
buồng trứng cũng có kết quả tương tự, hai týp

ung thư dạng nội mạc và thanh dịch chiếm đa
số các trường hợp với tỷ lệ lần lượt là 63,0% và
22,2 %. Các týp ung thư biểu mô khác ít gặp
hơn chỉ chiếm tổng cộng 14,7%.
Theo các nghiên cứu trước đây [1] tuổi trung
bình của các bệnh nhân có đồng ung thư nguyên
phát ở tử cung và buồng trứng trẻ hơn các bệnh
nhân có ung thư buồng trứng hoặc tử cung đơn
độc, tuổi trung bình ở ung thư buồng trứng hoặc
tử cung là 60 tuổi. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tuổi trung bình bệnh nhân là 49 năm. Triệu
chứng và dấu hiệu lâm sàng của đồng ung thư
nội mạc tử cung và buồng trứng tương tự như
ung thư nội mạc tử cung và buồng trứng độc
lập, chảy máu bất thường âm đạo và khối u
bụng là những triệu chứng chính. Tương tự các
kết quả đã được thông báo trong y văn, triệu
chứng xuất hiện phổ biến trong nghiên cứu này
là ra máu âm đạo bất thường (65,12%), khối

125


PHỤ KHOA
Tập 16, số 01
Tháng 05-2018

126

NGUYỄN THỊ TUYỀN, PHÙNG QUANG THUỶ, ĐÀO DUY QUÂN, LƯU THỊ HỒNG, PHẠM THỊ THANH YÊN, LÊ HOÀNG LINH,

TRẦN THỊ HẢI YẾN, NGUYỄN ĐÌNH QUYẾT, TRẦN TUẤN VŨ, NGUYỄN VIỆT THẮNG, LÊ QUANG VINH

Tài liệu tham khảo

1. Zaino R, Whitney C, Brady MF, et. Simultaneously detected endometrial
and ovarian carcinom-a prospective clinicopathologic study of 74 cases: a
gynecologic oncoloy group study. Gynecol Oncol. 2011;83:355-62.
2. Ayhan A, Guvenal T, Coskun F, et al. Survival and prognostic factors
in patients with synchronous ovarian and endometrial cancers and
endometrial cancer metastatic to the ovaries. Eur J Gynecol Cancer.
2003;24:171-4.
3. Young RH, Scully RE. Metastasic tumors of the ovary. In: Kurman RJ,
editor. Blaustein’s Gynecological Pathology of the Female Genital Tract.
6th edition. Springer; New York: 2002. pp. 987–990.

4. Robert JK, Maria LC, Herrington CS, Robert HY. WHO classification of
tumours of female reproductive organs. International Agency for Research
on Cancer. 4th.ed. Lyon,2014.
5. Halperin R, Zehavi S, Hadas E, et al. Simultaneous carcinoma of
the endometrium and ovary vs endometrial carcinoma with ovarian
metastases: a clinical and immunohistochemical determination. Int J
Gynecol Cancer. 2003;13:32–37.
6. Eifel PJ, Ross J, Hendrickson M, Cox RS, Kempson R, Martinez
A. Adenocarcinoma of the endometrium. Analysis of 256 cases with
disease limited to the uterine corpus: treatment comparisons. Cancer.
1983;52:1026–1031




×