Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Mối liên quan giữa nhiễm HPV nguy cơ cao và ung thư cổ tử cung tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.44 KB, 3 trang )

PHỤ KHOA TỔNG QUÁT VÀ KHỐI U

NGUYỄN ĐỨC HINH, NGÔ VĂN TOÀN, LƯU THỊ HỒNG, LÊ DUY TOÀN,
NGHIÊM XUÂN HẠNH, NGUYỄN PHI HÙNG, BÙI VĂN NHƠN, HOÀNG YẾN, TRẦN THỊ HẢO

MỐI LIÊN QUAN GIỮA NHIỄM HPV NGUY CƠ CAO
VÀ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Đức Hinh(1), Ngô Văn Toàn(1),Lưu Thị Hồng(2), Lê Duy Toàn(4), Nghiêm Xuân Hạnh(2), Nguyễn Phi Hùng(3), Bùi Văn Nhơn(1), Hoàng Yến(1), Trần Thị Hảo(1)
(1) Đại học Y Hà Nội, (2) Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em, (3) Bệnh viện K, (4) Bệnh viện Phụ sản Hà Nội

Tóm tắt

Nhiễm Human Papilloma Virus nguy cơ cao là
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh ung thư cổ tử cung.
Mục tiêu: so sánh sự khác biệt các type HPV nguy cơ
cao giữa bệnh nhân ung thư cổ tử cung và nhóm chứng
được ghép cặp theo tuổi năm 2013 tại Việt Nam. Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên
cứu bệnh - chứng, nhóm bệnh là100 bệnh nhân chẩn
đoán xác định UTCTC bằng tế bào học và 100 phụ nữ xét
nghiệm tế bào học bình thường làm nhóm chứng. Kết
quả: Người có nhiễm HPV nguy cơ mắc UTCTC cao gấp
495,4 lần người không nhiễm HPV (OR=495,4 và 95%CI:
104,26-2354,30; pyates< p<0,0001). Trong số 100 bệnh
nhân UTCTC có 91 bệnh nhân có nhiễm HPV (chiếm
91%). Có 46% bệnh nhân UTCTC nhiễm HPV type 16 và
19% nhiễm type 18. Tỷ lệ bệnh nhân UTCTC nhiễm HPV
type 11 chiếm 12%. Các type HPV 6, 33, 58 cũng tồn tại
ở bệnh nhân UTCTC với tỷ lệ từ 2-3%. Tỷ lệ đồng nhiễm 2
loại HPV chiếm 5%. Kết luận: có mối liên quan rất chặt
chẽ giữa nhiễm HPV và UTCTC; đặc biệt là type HPV 16,


18. Ở các trường hợp UTCTC gặp 10 type HPV 6, 11, 16,
18, 33, 35, 51, 52, 58, 68; trong đó, gặp 3 type HPV không
nằm trong 12 type HPV nguy cơ cao là HPV 6, 11 và 68.
Từ khóa: ung thư cổ tử cung, HPV, Việt Nam.

Abstract

RELATIONSHIP BETWEEN HPV HIGH-RISK
INFECTION AND CERVICAL CANCER IN VIETNAM

Objective: To describe the relationship between

1. Đặt vấn đề

Nhiễm HPV (Human Papillomaviruses) thường
gặp nhất trong các bệnh lây truyền qua đường tình
dục ở nhiều nước trên thế giới. Trên thực tế, có đến
trên 50% người trong độ tuổi sinh sản nhiễm từ một
đến nhiều type HPV. Một nghiên cứu gần đây nhất
cho thấy có khoảng 42,5% phụ nữ nhiễm HPV đường
âm đạo và khoảng 7% nhiễm HPV đường miệng [1],
[2]. Nhiễm HPV các type nguy cơ cao là nguyên nhân
chủ yếu gây bệnh ung thư cổ tử cung (UTCTC)[3]. Hiện
nay các nhà khoa học trên thế giới đã phát hiện có tới
Tạp chí PHỤ SẢN

06

Tập 13, số 02
Tháng 05-2015


HPV high-risk infection and cervical cancer in Vietnam
2003. Methodology: Case-control study design was
applied. The number of cervical cancer patients was
100 and the same number among the control group.
Results: There was a close relationship between HPV
infection and cervical cancer. Those who infected by
HPV were more frequently having cervical cancer than
the others (OR=495,4 and 95%CI: 104,26-2354,30;
pYates< p<0,0001). There was a close relationship
between HPV type 16, 18 and cervical cancer. Among
100 cervical cancer, there were 91 patients with HPV
infected (91%). 46% of cervical cancer patients infected
by HPV type 16 and 19% of them with HPV type 18. The
number of cervical cancer patients infected by HPV
type 11 was 12%. Other types 6, 33, 58 of HPV were met
among cervical cancer patients (2-3%). Percentage of
patients with two types of HPV at the same time was
5%. Discussion: In many studies, the high-risk types of
HPVwere causes of cervical cancer. 12 high-risk types of
HPV were confirmed as causes of cervical cancer (HPV
types 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58). In Vietnam,
HPV type16 and 18 were considered as twohigh-risk
typesof cervical cancer. In addition, HPV types 6 and 11
were also caused cervical cancer. Conclusion: There
was a close relationshipbetween HPV infected and
cervical cancer, especially HPV types 16, 18. Other types
of HPV as 6, 11, 16, 18, 33, 35, 51, 52, 58, 68 were found
in the cervical cancer patients. Key words: Cervical
cancer, HPV, Vietnam


hơn 100 type HPV, trong đó có khoảng 30- 40 type lây
truyền qua đường tình dục. Trong số đó, chỉ có 12 type
có nguy cơ cao làm thay đổi niêm mạc cổ tử cung đã
được chứng minh là gây ung thư cổ tử cung và liên
quan đến các ung thư vùng sinh dục nam và nữ, đó
là các type 16, 18, 31, 33, 35, 39 45, 51, 52, 56, 58, và
59[4], [5]. Có quá nhiều bằng chứng về bệnh lây truyền
qua đường sinh dục liên quan đến UTCTC, nhiều nhà
nghiên cứutrên thế giới đã tìm kiếm một nhân tố
bệnh căn trong số các căn bệnh lây truyền qua đường
tình dục. Trong vòng 100 năm gần đây, hầu như tất cả

Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Duy Toàn, email:
Ngày nhận bài (received): 20/03/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 15/04/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 25/04/2015


TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(2), 06-08, 2015

những bệnh lây truyền qua đường tình dục đều được
cho rằng là yếu tố bệnh căn cho tiền UTCTC và UTCTC.
Các loại vi sinh vật này bao gồm Treponema pallidum,
Trichomonas vaginalis, Candida albicans, Chlamydia
trachomatis và herpes simplex viruses. Hiện nay đã có
bằng chứng đáng kể về vai trò của cả C.trachomatis
và herpes simplex viruses như là những yếu tố thuận
lợi trong bệnh học của nhiễm HPV liên quan đến tân
sản cổ tử cung[6]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có rất ít
những nghiên cứu tại Việt Nam phân tích về nguy cơ
nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung. Do vậy, nghiên cứu

này được thực hiện nhằm xem xét mối liên quan giữa
nhiễm HPV type nguy cơ cao và ung thư cổ tử cung
cũng như định type HPV trong ung thư cổ tử cung
năm 2013 tại Việt Nam.

2. Phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: chọn 100 bệnh nhân được
chẩn đoán xác định ung thư cổ tử cung bằng tế bào
học và 100 phụ nữ có kết quả xét nghiệm tế bào học
bình thường làm nhóm chứng tại Bệnh viện K. Các đối
tượng nghiên cứu ở nhóm bệnh và nhóm đối chứng
được ghép cặp theo tuổi để đảm bảo các đối tượng
nghiên cứu ở 2 nhóm có độ tuổi khá tương đồng.
Nghiên cứu này sử dụng chiến lược thiết kế nghiên
cứu bệnh chứng nhằm kiểm định mối liên quan giữa
nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung. Mẫu bệnh phẩm cổ
tử cung được lấy bằng chổi chuyên dụng và bảo quản
bệnh phẩm trong lọ chứa SDS 2% vô trùng. Để đảm
bảo độ tin cậy và chính xác của kết quả xét nghiệm,
nhóm nghiên cứu sử dụng kỹ thuật làm mù. Theo đó
các cán bộ xét nghiệm không được biết trước tình trạng
bệnh tật của đối tượng được lấy mẫu. Toàn bộ các quy
trình kiểm soát chất lượng xét nghiệm tế bào học và
mô học đều được áp dụng trong nghiên cứu này. Các
mẫu bệnh phẩm mô học sẽ được lưu giữ lại để đánh
giá độc lập. DNA được tách chiết từ mẫu bệnh phẩm
cổ tử cung bằng bộ test Qiagen® (Maryland, USA) theo
hướng dẫn của nhà sản xuất. Tính đồng nhất của DNA
sẽ được đảm bảo bằng kỹ thuật PCR với gen β Globin.

DNA được tách chiết được bảo quản ở nhiệt độ -20°C
cho đến khi thực hiện phân tích. Mỗi mẫu xét nghiệm
được chạy phản ứng PCR song song sử dụng các cặp
mồi sau: cặp mồi chung GP5+/GP6+ và các cặp mồi
chủ đích cho các loại HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51,
52, 56, 58 và 59 (những loại này được Viện nghiên cứu
ung thư quốc tế xác định là gây ung thư. Thành phần
cho 1 phản ứng PCR bao gồm: 5μl mẫu thử nghiệm,
2 μl dung dịch đệm PCR và 1,6 μl(dNTP 2,5 mM) và
1μl cho mỗi cặp mồi, H2O 12 μl,Tag polymerase 0,4 μl,

MgCL2 2 μl. Toàn bộ phản ứng được ủ với chu trình
nhiệt như sau: ủ ở nhiệt độ 94°C trong 5 phút, 94°C 1
phút, 45°C 30 giây, 72°C 1 phút. Tổng chu kỳ 40 chu kỳ.
Sản phẩm PCR sẽ được phân tích điện di trên agarose
2% và nhuộm với ethidium bromide và chụp ảnh dưới
ánh sáng của tia UV trans-illumination.

3. Kết quả nghiên cứu
Bảng 1. Mối liên quan giữa nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung
HPV (+)
HPV (-)

HPV

KCTC
91
9

Không KCTC

2
98

OR
495,4
1

95%CI
104,26-2354,30

Bảng trên cho thấy có mối liên quan rất chặt chẽ
giữa nhiễm HPV và ung thư cổ tử cung. Những người
có nhiễm HPV có nguy cơ nhiễm ung thư cổ tử cung
cao gấp 495,4 lần những người không nhiễm HPV.Sự
khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
Bảng 2. Phân bố các type HPV ở 91 bệnh nhân ung thư cổ tử cung
HPV 6
HPV 11
HPV 16
HPV 18
HPV 33
HPV 35
HPV 52
HPV 58
HPV 6 + 11
HPV 16 + 18
HPV 16 + 33
HPV 18 + 51
HPV 33 + 68


Type HPV

Số lượng
3
12
45
19
3
1
1
2
1
1
1
1
1

Tỷ lệ %
3,0
12,0
45,0
19,0
3,0
1,0
1,0
2,0
1,0
1,0
1,0
1,0

1,0

Trong số 100 bệnh nhân ung thư cổ tử cung có đến
91 bệnh nhân có nhiễm HPV (chiếm 91%). Có đến 46%
bệnh nhân ung thư cổ tử cung nhiễm HPV type 16 và
19% nhiễm type 18. Tỷ lệ bệnh nhân ung thư cổ tử cung
nhiễm HPV type 11 chiếm 12%. Các typ HPV khác như
6, 33, 58 cũng có mặt trong số bệnh nhân ung thư cổ tử
cung với tỷ lệ từ 2-3%. Tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại HPV trên
cùng một bệnh nhân không cao (chỉ chiếm 5%).
Bảng 3. Mối liên quan giữa nhiễm HPV typ 16 và ung thư cổ tử cung
Type HPV
HPV 16 (+)
HPV 16 (-)

KCTC
47
53

Không KCTC
2
98

OR
43,5
1

95%CI
10,16-185,99


Bảng trên cho thấy có mối liên quan rất chặt chẽ giữa
nhiễm HPV typ 16 và ung thư cổ tử cung. Những người
có nhiễm HPV typ 16 có nguy cơ nhiễm ung thư cổ tử
cung cao gấp 43,5 lần những người không nhiễm HPV.
Sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
Tạp chí PHỤ SẢN
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015

07


PHỤ KHOA TỔNG QUÁT VÀ KHỐI U
Bảng 4. Mối liên quan giữa nhiễm HPV typ 18 và ung thư cổ tử cung
Type HPV
HPV 18 (+)
HPV 18 (-)

KCTC
21
79

Không KCTC
0
100

PYates
p<0,0001

Bảng trên cho thấy có mối liên quan rất chặt chẽ

giữa nhiễm HPV typ 18 và ung thư cổ tử cung. Những
người có nhiễm HPV type 18 có nguy cơ nhiễm ung
thư cổ tử cung cao gấp nhiều lần những người không
nhiễm HPV. Sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.

4. Bàn luận

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối
liên quan rất chặt chẽ giữa nhiễm HPV và ung thư
cổ tử cung. Những người có nhiễm HPV có nguy cơ
nhiễm ung thư cổ tử cung cao gấp 495,4 lần những
người không nhiễm HPV. Các nhà nghiên cứu thuộc
Viện Nghiên cứu Ung thư Quốc tế Lyon đã liệt kê
được 12 type HPV được chứng minh là yếu tố nguy
cơ cao gây UTCTC, đó là HPV type 16, 18, 31, 33, 35, 39
45, 51, 52, 56, 58, và 59 [4]. Các loại HPV 16 và 18 có
mặt trong trên hơn 70% UTCTC [6].
Trong số 100 bệnh nhân ung thư cổ tử cung có đến
91 bệnh nhân có nhiễm HPV (chiếm 91%). Có đến 46%
bệnh nhân ung thư cổ tử cung nhiễm HPV typ 16 và
19% nhiễm typ 18. Tỷ lệ bệnh nhân ung thư cổ tử cung
nhiễm HPV typ 11 chiếm 12%. Các typ HPV khác như
6, 33, 58 cũng có mặt trong số bệnh nhân ung thư cổ
tử cung với tỷ lệ từ 2-3%. Tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại HPV
trên cùng một bệnh nhân không cao (chỉ chiếm 5%).
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu

Tài liệu tham khảo

1. Gillison ML, Broutian T, Pickard RK, et al. Prevalence of

oral HPV infection in the United States, 2009–2010. JAMA 2012;
307(7):693–703.
2. Hariri S, Unger ER, Sternberg M, et al. Prevalence of
genital human papillomavirus among females in the United
States, the National Health and Nutrition Examination Survey,
2003–2006. Journal of Infectious Diseases 2011; 204(4):566–573.
3. Muñoz N, Bosch FX, Castellsagué X, et al. Against which
human papillomavirus types shall we vaccinate and screen?
The international perspective. International Journal of Cancer
2004; 111(2):278–285.
4. Bouvard, V., R. Baan, K. Straif, et al. On behalf of
the WHO International Agency for Research on Cancer
Monograph Working Group. Special Report: Policy. A review

Tạp chí PHỤ SẢN

08

Tập 13, số 02
Tháng 05-2015

NGUYỄN ĐỨC HINH, NGÔ VĂN TOÀN, LƯU THỊ HỒNG, LÊ DUY TOÀN,
NGHIÊM XUÂN HẠNH, NGUYỄN PHI HÙNG, BÙI VĂN NHƠN, HOÀNG YẾN, TRẦN THỊ HẢO

của Schiffman, Munoz và công sự. Các tác giả đã kết
luận rằng ung thư cổ tử cung là do nhiễm HPV, đặc biệt
là 2 type 16 và 18 là nguyên nhân gây ra đến khoảng
70% các trường hợp ung thư cổ tử cung [3], [7].
Trong một nghiên cứu quốc tế trên 1545 ca ung
thư cổ tử cung đã phát hiện mối liên quan giữa DNA

của HPV và ung thư cổ tử cung với nguy cơ tương
đối là 83,3 lần. Type HPV 16, 18, 31 và 45 là những
typ được phát hiện nhiều nhất cả ở nhóm bệnh và
nhóm chứng. Nhiễm đa typ gặp phổ biến ở nhóm
bệnh hơn là ở nhóm đối chứng có nhiễm HPV nhưng
không làm tăng nguy cơ. Mối liên quan mật thiết giữa
nhiễm HPV và ung thư tế bào vảy, ung thư biểu mô và
CIN3 đã được phát hiện trong nhiều nghiên cứu bệnh
chứng [8]. Số liệu từ những nghiên cứu thuần tập tiến
cứu cho thấy mối tương quan mạnh giữa nhiễm HPV
ở thời điểm bắt đầu và nguy cơ bị UTCTC trong tương
lai. Người ta đã xác định được tỷ lệ mắc UTCTC tích
lũy ở những người có xét nghiệm dương tính so với
những người xét nghiệm âm tính là 18,1% trong 45
tháng và 8,0% sau 120 tháng theo dõi.

5. Kết luận

Nghiên cứu đã chỉ ra có mối liên quan rất chặt
chẽ giữa nhiễm HPV và UTCTC, đặc biệt là giữa nhiễm
HPV type 16, 18 và UTCT. Tỷ lệ nhiễm HPV/bệnh nhân
UTCTC cao, chiếm 91% (46% nhiễm HPV type 16 và
19% nhiễm type 18, type 11 chiếm 12%, type HPV: 6,
33, 58 chiếm 2-3%. Tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại HPV trên
cùng một bệnh nhân không cao (5%).

of human carcinogens - Part B: biological agents. Lancet.
2009; 10: 321-322.
5. Muñoz, N., Franceschi, S., Bosetti, et al. Role of parity
and human papillomavirus in cervical cancer: the IARC

multicentric case-control study. Lancet. 2002; 359, 1093-1101.
6. Parkin DM. The global health burden of infectionassociated cancers in the year 2002. International Journal of
Cancer 2006; 118(12):3030–3044.
7. Schiffman M, Castle PE, Jeronimo J, Rodriguez AC,
Wacholder S. Human papillomavirus and cervical cancer.
Lancet 2007; 370(9590):890–907.
8. Rabia Faridi, Amreen Zahra. Oncogenic potential of
Human Papillomavirus (HPV) and its relation with cervical
cancer. Virology Journal 2011;8:269.



×