Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.9 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ
HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG
THANH

ÁP DUNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH
SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ
HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG
THANH

ÁP DUNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH


Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình
sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, nghiêm túc, tin cậy và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ HỒNG THANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.............. 9
1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội............................................................................................................. 9
1.2. Cơ sở của việc quy định và áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 18
Chương 2:PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM

TỘI.................................................................................................................. 26
Ở TỈNH BẮC NINH...................................................................................... 26
2.1. Pháp luật hiên hành về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ...................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi ở
Bắc
Ninh ................................................................................................................. 37
Chương 3:YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM
TỘI.................................................................................................................. 52
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 52
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện đã
được xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019 ....... 38
Bảng 2.2. Thống kê các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đã được
thụ lý và giải quyết trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến 2019 ...
39
Bảng 2.3. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019 ........................................ 40
Bảng 2.4. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019 ........................... 41



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người chưa 18 tuổi hay được gọi là người dưới 18 tuổi trong pháp luật
hình sự của Việt Nam. Xuất phát từ đặc điểm thể chất và tâm sinh lý chưa
phát triển hoàn toàn đầy đủ, trình độ nhận thức của họ còn hạn chế nên đây
chính là chủ thể đặc biệt trong pháp luật, họ thường nhận được nhiều sự quan
tâm hơn từ xã hội. Pháp luật có những chế định riêng dành cho người dưới 18
tuổi để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.Các quy định của pháp luật
về tội phạm thường dành riêng một nội dung để nói về việc áp dụng các hình
phạt đối với tội đó khi người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, do là một
đối tượng đặc thù nên việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cần
mang tính chất giáo dục nhưng vẫn phải đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật hiện hành.Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng ở các
nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, là một những vấn đề nóng bỏng
và là một trong những vấn đề đang được xã hội quan tâm. Trong những năm
gần đây, ở Việt Nam tình trạng tội phạm chưa thành niên có chiều hướng
ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội. Số lượng các vụ án
tăng nhanh, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra, cùng với tính chất phức
tạp của từng vụ án là những thủ đoạn tinh vi, do đó tính nguy hiểm ngày càng
cao để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân
dân, làm xôn xao dư luận xã hội.
Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có tốc độ đô thị hóa, công nghiệp nhanh, có lợi
thế nằm ở cửa ngõ thủ đô với nhiều tuyến đường thuận lợi cả đường bộ,
đường thủy. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có rất nhiều các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp với nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp
FDI. Vì vậy, Bắc Ninh đã thu hút được rất nhiều lao động từ các tỉnh lân cận
cũng như các tỉnh khác trên cả nước tới làm việc, sinh sống. Các khu
công
1



nghiệp lớn được mở ra như khu công nghiệp Sam Sung ở Yên Phong, khu
công nghiệp Quế Võ, khu VISIP ở thị xã Từ Sơn đồng nghĩa với việc đất nông
nghiệp đã bị thu hẹp, có nơi không còn đất nông nghiệp để canh tác. Người
dân có tiền thu hồi đất nông nghiệp, không có đất để canh tác, lười lao động,
lại có sẵn tiền cùng với việc các khu công nghiệp phát triển, dân cư tập trung
đông, nhiều thành phần ở khắp nơi đến nên đã dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội xảy
ra, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Vì thế, các tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện ngày càng gia tăng và mức độ ngày càng nghiêm trọng.Tuy
nhiên, ngoài kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi của hệ thống tòa án hai cấp trên địa bản
tỉnh vẫn còn bộc lộ hạn chế, như: Quán triệt, áp dụng chưa đúng quy định
của BLHS về hình phạt nói chung, hình phạt tù nói riêng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội; không thống nhất khi xác định tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; một số trường hợp áp dụng chưa đúng các điều,
khoản của Bộ luật hình sự; áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự chưa phù hợp dẫn đến xử quá nhẹ hoặc quá nặng, mức hình phạt tù
chưa phù hợp…
Từ thực trạng đó đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện lý luận về áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đánh giá
thực tiễn để đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong công tác xét xử.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để thực hiện luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về áp dụng hình phạt tù nói chung và áp dụng hình phạt tù
đối với người dưới 18 tuổi nói riêng đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, nhà khoa học:
2



Tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình phạt tù có thời hạn áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu khái niệm, mục
đích, điều kiện áp dụng của hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay; thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thông qua số liệu của các Tòa án và các bản án của Tòa án trong
những năm gần đây. Từ đó nêu lên thực trạng áp dụng hình phạt này trong
thực tiễn và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trong thực tiễn.
Tác giả Hoàng Thị Thương (2017), Hình phạt tù trong Luật hình sự
Việt Nam,Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Việc nghiên
cứu về chế định này trong pháp luật hình sự là cần thiết, vừa có tính lý luận có
tính thực tiễn trong việc hoàn thiện chế định này, cũng như hoàn thiện về hình
phạt trong pháp luật hình sự. Luận văn giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về
lý luận liên quan tới hình phạt tù, cụ thể: tổng hợp các quan điểm, các khái
niệm về hình phạt tù; nghiên cứu các quy định pháp luật thực định về hình
phạt tù; tìm hiểu thực trạng áp dụng về hình phạt tù. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thị Việt Hà (2017), Quyết định hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.Luận văn là công trình nghiên cứu lý
luận đề cập đến việc làm sáng tỏ một cách toàn diện và hệ thống về quyết
định hình phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; làm rõ một số
vấn đề chung về người dưới 18 tuổi phạm tội, phân tích quy định của pháp


3


luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và thực tiễn áp dụng hình phạt này ở địa phương. Trên cơ sở đó luận
văn đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn.
Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, mục đích, điều kiện áp dụng quyết
định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; thực tiễn quyết định hình phạt tù
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua số liệu của các Tòa án và các
bản án của Tòa án trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2010 đến 2016. Từ đó
nêu lên thực trạng áp dụng hình phạt này trong thực tiễn và đưa ra giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình
phạt này trong thực tiễn.
Tác giả Trần Thị Thu Hằng (2011), Hình phạt tù và thi hành hình phạt
tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Bằng cách tiếp cận tổng thể từ cái chung đến cái cụ thể, đi
từ lý luận đến đánh giá thực tiễn xét xử, làm rõ khái niệm, mục đích của hình
phạt tù, vai trò ý nghĩa, bản chất pháp lý của hình phạt tù. Làm rõ các vấn đề
lý luận về thi hành hình phạt tù như khái niệm; các điều kiện thi hành hình
phạt tù; trình tự thủ tục thi hành hình phạt tù. Đánh giá thực trạng áp dụng
hình phạt tù và thi hành hình phạt tù nhằm làm rõ những ưu điểm, hạn chế và
những nguyên nhân của nó. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước
về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù, đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù.
Tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn (2014), Quyết định hình phạt tù có thời
hạn theo Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn của địa bàn
thành phố Hà Nội),Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.Đây là công trình nghiên cứu một cách khá toàn diện về quyết định hình

phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn tổng hợp
4


những quan điểm khoa học về quyết định hình phạt tù có thời hạn, việc
nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt tù
có thời hạn, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề
xuất những phương án hoàn thiện pháp luật về vấn đề quyết định hình phạt tù
có thời hạn, đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn
đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng
pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Phạm Thị Phương Thảo (2018), Áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa
học xã hội Việt Nam đã làm rõ những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù
dựa trên những đặc thù cơ bản của đối tượng phạm tội là người dưới 18 tuổi.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn kết quả cũng như những hạn chế trong việc
áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi của TAND hai cấp thành phố
Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi.
Để hoàn thiện hệ thống lý luận, nghiên cứu kinh nghiệm của các địa
phương trong việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
đề tài tìm đọc các tài liệu như: Luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị Thu Trang
(2009) với đề tài “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của tác giả Lương
Ngọc Trâm (2017), “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ở thành phố Hồ Chí Minh”. Hay những vấn đề được làm rõ trongluận văn
thạc sĩ của tác giả Hoàng Văn Huyền (2016), “Áp dụng hình phạt theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang” và của
tác giả Đinh Tấn Long (2017), “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”…

5


Hiện nay, chủ trương về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã
được Nhà nước điều chỉnh cho phù hợp trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017. Đồng thời, việc nghiên cứu về áp dụng hình phạt tù đối với
người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã có sự thay đổi nhất định
trong bối cảnh mới với môi trường kinh tế - xã hội của tỉnh thay đổi từng
ngày. Các công trình nghiên cứu trên đã giúp tác giả hình thành hệ thống các
vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuồi,
giúp tác giả rút ra được các bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện việc
quyết định hình phạt của tòa án nhân dân hai cấp đối với người dưới 18 tuổi.
Vì vậy, hy vọng việc nghiên cứu về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh sẽ góp phần khiêm tốn
mang tới những cái nhìn mới mẻ về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi, phân tích quy định của pháp
luật và đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019, Luận văn đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội: Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của
áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội của các tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến
năm 2019, tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân;
6


- Phân tích các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tù
đối với người dưới 18 tuổi và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật về áp dụng hình
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi và thực tiễn liên quan trực tiếp đến việc áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở các tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
áp dụng hình phạt tù với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, XII và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả đã sử dụng các

phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp nghiên
cứu trường hợp điển hình; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp;

7


phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu khoa học công phu, đề cập tương đối có
hệ thống và toàn diện về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội thông qua thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, đồng thời góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về áp dụng
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể được Toà án các cấp tham khảo để áp dụng
đúng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong quá
trình xét xử, quyết định hình phát, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh và phòng, chống tội phạm chưa thành niên và có thể được sử dụng trong
nghiên cứu, giảng dạy, học tập chuyên ngành Luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình

phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ
THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung áp dụng hình phạt tù
1.1.1.1. Khái niệm về áp dụng hình phạt tù
Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước
ta đã sử dụng đồng thời nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,
pháp lý… Trong các biện pháp đó, hình phạt giữ một vai trò rất quan trọng.
Nhà làm luật đã xây dựng một hệ thống hình phạt đa dạng với nội dung cưỡng
chế, thuyết phục, giáo dục nặng, nhẹ khác nhau, bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt tù chung thân trong hệ thống hình
phạt của Nhà nước ta tạo ra khả năng phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt đối với các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này
giữ vị trí trung chuyển giữa hình phạt tù có thời hạn tối đa là 20 năm và tử
hình, làm cho hệ thống hình phạt giữ được tính thống nhất nội tại của nó.
Việc áp dụng hình phạt tù được thực hiện sau khi HĐXX định tội danh
cho người phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Từ những
phân tích trên, luận văn sử dụng khái niệmáp dụng hình phạt tù có thời hạn
như sau: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự tiếp theo sau khi định tội danh của HĐXX, thể hiện ở việc trên cơ sở
hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử, xác định các tình tiết
cụ thể của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của Bộ luật hình sự hiện hành,
HĐXX lựa chọn mức hình phạt tù có thời hạn phù hợp và nghiêm minh để áp


9


dụng đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án kết tội về hình
phạt tù đó.
1.1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt
Hình phạt chỉ áp dụng đối với người phạm tội. Quy định này vừa thể
hiện trong Điều 26 về khái niệm hình phạt vừa thể hiện tính nguyên tắc cơ sở
trách nhiệm hình sự (Điều 2 Bộ luật Hình sự): “Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Pháp
luật hình sự của Việt Nam chỉ cho phép các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội
(theo quy định của pháp luật), chỉ người nào phạm tội người ấy mới phải chịu
trách nhiệm hình sự theo đúng quy định. Quy định này của pháp luật hình sự
Việt Nam thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, một đặc thù của
pháp luật Việt Nam, thể hiện mục đích áp dụng hình phạt tù là giáo dục, cải
tạo người phạm tội để họ trở thành người lương thiện có ích cho xã hội, đồng
thời thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, xử đúng người đúng tội đúng
hình phạt.
Hình phạt nói chung và hình phạt tù có thời hạn nói riêng được quy
định chi tiết trong pháp luật Hình sự, do Tòa án nhân dân nhân danh Nhà
nước áp dụng đối với người phạm tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nên Hiến pháp, Luật
tổ chức Tòa án, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự đều khẳng định Tòa
án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ có
Tòa án mới có quyền xét xử và quyết định hình phạt với người phạm tội theo
trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Khi quyết định hình
phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình
sự, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm

không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của

10


Tòa án. Theo quy định của pháp luật nước ta, chỉ có Tòa án mới có quyền xét
xử và ra bản án hình sự áp dụng hình phạt. Quy định này còn thể hiện sự thống
nhất giữa tội phạm và hình phạt. Tội phạm là cơ sở phải chịu hình phạt, ngược
lại hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm nhằm trừng trị vào giáo dục
người phạm tội, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Áp dụng hình phạt mang tính tuỳ nghi, lựa chọn rất cao. Bởi vì, trong
các quy định của BLHS, nhất là chế tài các quy phạm pháp luật, mang tính
tuỳ nghi và lựa chọn. Khi áp dụng hình phạt, để thực hiện nguyên tắc cá thể
hoá hình phạt, HĐXX thực hiện áp dụng một biện pháp trách nhiệm hình sự,
một hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội trong phạm vi chế tài
quy định đó.
1.1.1.3. Nội dung áp dụng hình phạt
Xác định nhân thân người bị kết tội: Để quyết định hình phạt đúng một
trong những đòi hỏi quan trọng là phải làm rõ những đặc điểm về nhân thân
người phạm tội.
Ví dụ: Khi xem xét nhân thân người phạm tội của X cho thấy X tuy
chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng luôn có hành vi gây
rối trật tự công cộng, không có công ăn việc làm, lêu lổng...Khi xem xét nhân
thân người phạm tội của Y cho thấy Y cũng chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi
phạm hành chính, nhưng không có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào, có
công ăn, việc làm ổn định... Cân nhắc nhân thân người phạm tội của X và của
Y cho thấy nhân thân của X xấu hơn nhân thân của Y; do đó, việc quyết định
hình phạt đối với X phải nặng hơn đối với Y, nếu các tình tiết khác của vụ án
như nhau.


11


Xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cần
hiểu đúng, đủ nội dung của các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong pháp luật hình sự.
Hiểu đúng là xác định đúng nội dung mà nhà làm luật quy định tình tiết
tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ đó như thế nào. Ví dụ: Tình tiết giảm nhẹ
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” thì phải hiểu thế nào
là phạm tội lần đầu và thế nào là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Hiểu tính chất, mức độ tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau là phải xác định
trong mỗi tình tiết đó thì trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào.
Ví dụ: “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại” thì phải xác định tỷ lệ
tiền bồi thường so với tổng số tiền thiệt hại mà người phạm tội gây ra, để xem
mức độ giảm nhẹ nhiều hay ít.
Hiểu đủ là xác định đủ số lượng các tình tiết được quy định tại mỗi
điểm của Điều 51, 52 BLHS năm 2015 mà nhà làm luật đã quy định bao
nhiêu tình tiết? Ví dụ: Điểm r nhà làm luật quy định một tình tiết giảm nhẹ
nhưng điểm a khoản 1 Điều 51 nhà làm luật quy định hai tình tiết giảm nhẹ
chứ không phải một hoặc điểm a khoản 1 Điều 52 nhà làm luật quy định một
tình tiết tăng nặng nhưng điểm l khoản 1 Điều 52 nhà làm luật quy định đến 5
tình tiết tăng nặng chứ không phải chỉ có một tình tiết...
Ví dụ: Một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới là thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 189 BLHS năm 2015. Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”
trong trường hợp phạm tội cụ thể này đã là dấu hiệu định khung hình phạt,
nên khi quyết định hình phạt, Tòa án không được áp dụng tình tiết này là tình
tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa.Các tình tiết là dấu hiệu định khung hình
phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu của cấu

thành khác loại (cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ).

12


Ví dụ, khoản 1 Điều 173 BLHS (Tội trộm cắp tài sản) là cấu thành cơ
bản có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm và là tội phạm ít nghiêm trọng. Nhưng nếu người phạm
tội lại có hành vi hành hung để tẩu thoát thì thuộc trường hợp quy định tại
điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS là cấu thành tăng nặng, có khung hình phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm và là tội nghiêm trọng. Ví dụ, khoản 1 Điều 119
(Tội chống phá cơ sở giam giữ) là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ
10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Nhưng nếu người phạm tội trong
trường hợp ít nghiêm trọng thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
119 là cấu thành giảm nhẹ, có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù. Tuy
nhiên, không phải điều luật nào cũng bao gồm cả cấu thành tăng nặng hoặc
cấu thành giảm nhẹ, mà tùy thuộc vào mỗi tội phạm và chính sách hình sự của
nhà nước trong việc xử lý từng loại tội phạm. Đa số các tội quy định trong
BLHS có cấu thành tăng nặng, chỉ có một số tội có cấu thành giảm nhẹ (chủ
yếu là các tội xâm phạm an ninh quốc gia).
Về cấu thành tội phạm, khoa học luật hình sự chia ra làm ba loại: Cấu
thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.Điều luật quy định
khung hình phạt có mức tối thiểu và tối đa tùy theo tính chất, mức độ nguy
hiểm của từng tội phạm. Khi đã xác định bị cáo phạm tội ở khung hình phạt
nào, dù có nhiều tình tiết tăng nặng thì họ cũng không bị xử phạt quá mức cao
nhất của khung hình phạt đó.
1.1.2 Áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.2.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Ơ Việt Nam, quy định về độ tuổi của trẻ em thấp hơn so với Công ước.
Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ

em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. Luật
Trẻ em năm 2016 thay thế cho Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm

13


2004 cũng quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” (Điều 1). So sánh quy
định của hai văn bản luật này cho thấy, độ tuổi của trẻ em là không thay đổi.
Mặc dù, trong quá trình soạn thảo Luật Trẻ em năm 2016, đã có nhiều ý kiến
cho rằng nên quy định nâng cao độ tuổi của trẻ em lên cho phù hợp với quy
định của Công ước LHQ về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết và tham
gia.Pháp luật hình sự của mỗi nước quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự của trẻ em theo những tiêu chí riêng. Tuy nhiên một điều rõ ràng là tuổi
chịu TNHS của trẻ em không nằm ngoài phạm vi tuổi chịu TNHS. Tuổi chịu
TNHS là độ tuổi được luật hình sự quy định nhằm xác định khi một người
phát triển đến độ tuổi đó mới có thể phải chịu TNHS hoặc loại trách nhiệm,
mức hình phạt về hành vi phạm tội do mình gây ra. Khi bàn về khái niệm tuổi
chịu TNHS, trong các văn bản pháp luật, những thuật ngữ liên quan đến tuổi
chịu TNHS được sử dụng khá phổ biến nhưng không được định nghĩa hoặc
không có sự thống nhất trong cách gọi và cách hiểu. Trong nhiều tài liệu,
tuổi chịu TNHS có thể được hiểu như tuổi tối thiểu của TNHS. Tuy nhiên,
việc sử dụng thuật ngữ tuổi tối thiểu của TNHS đôi khi dẫn đến việc cần
phải phân biệt được các giới hạn tuổi khác nhau. Chẳng hạn, ở những quốc
gia tồn tại hai giới hạn độ tuổi tối thiểu chịu TNHS, độ tuổi tối thiểu trên và
độ tuổi tối thiểu dưới thì tuổi tối thiểu của TNHS phải được xác định theo
hai mức. Theo đó, người đạt được độ tuổi tối thiểu dưới nhưng chưa đạt độ
tuổi tối thiểu trên nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm thì phải chịu TNHS về một số tội phạm cụ thể hoặc trong một số
trường hợp cụ thể. Người đạt độ tuổi tối thiểu trên phải chịu TNHS trong
mọi trường hợp.

Độ tuổi chịu TNHS của trẻ em được xây dựng dựa trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người; trình độ phát triển về nhận thức xã
hội; điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ. Tham

14


khảo độ tuổi tối thiểu của trẻ em phải chịu TNHS trong pháp luật hình sự của
các nước cho thấy, có sự khác nhau rõ rệt về cách quy định mức tối thiểu về
độ tuổi chịu TNHS của trẻ em cũng như sự phân chia nhóm tuổi chịu TNHS.
Sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia cũng phản ánh sự thiếu đồng
thuận trong cộng đồng quốc tế về độ tuổi chịu TNHS.
Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển và hoàn
thiện về thể chất, tâm sinh lý và nhân cách sống. Theo hướng dẫn tại Thông tư
liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BLĐTBXH ngày
12/7/2011 thì người dưới 18 tuổi được hiểu là: “Người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương; đặc biệt là khi
họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, do đó tùy theo lứa tuổi,
mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo vệ theo đúng
quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự”. Chính vì vậy mà họ có
những đặc điểm tâm lý riêng và được Bộ luật hình sự (BLHS), Bộ luật Tố
tụng hình sự (BLTTHS) quy định thành chương riêng về đường lối, trình tự,
thủ tục xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Chương XII Bộ luật hình
sự năm 2015, chương XXVIII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội).
1.1.2.2. Khái niệm, nội dung áp dụng hình phạt tù đối với người dưới
18 tuổi
Áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi không chỉ là việc Tòa
án xác định mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với họ là đủ. Trình tự quy
định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi cũng nằm trong trình tự quyết

định hình phạt nói chung đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do đối tượng bị
đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi nên khi quyết định hình phạt tù cần xem
xét kỹ về độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội của họ, điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay

15


không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội và
những tình tiết khác của vụ án. Chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người dưới
18 tuổi khi nhận thấy nếu để họ ngoài xã hội thì không có khả năng giáo dục
họ trở thành người tốt cho xã hội.
Căn cứ vào những đặc điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm: Áp dụng
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động áp
dụng pháp luật của Toà án xác định các tình tiết của vụ án, căn cứ vào quy
định chung và riêng của pháp luật hình sự, buộc người từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi phạm tội phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời
hạn nhất định nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội; bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác
dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới
18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người
đã thành niên phạm tội tương ứng và trong thời gian thích hợp ngắn nhất.
Quy định này phù hợp với đánh giá về sự thiếu hoàn thiện trong nhận thức và
kinh nghiệm sống của người dưới 18 tuổi và cũng là biểu hiện của đường lối
xử lý khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm hạn chế tác động
tiêu cực của môi trường trại giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng
thời, quy định này cũng là sự thể chế hóa các nguyên tắc cơ bản của tư pháp
hình sự người dưới 18 tuổi được ghi nhận trong Công ước quốc tế về Quyền

trẻ em, theo đó, không có trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp
pháp hoặc tùy tiện ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tư pháp người dưới 18
tuổi.
Người dưới 18 tuổi phạm pháp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong
đó quan trọng nhất là nguyên nhân xã hội, nguyên nhân tổng hoà sự giáo dục
của gia đình, nhà trường, xã hội, quản lý nhà nước đối với xã hội nói chung,
16


trong đó có các thiết chế về phòng ngừa chung và những chính sách khác đối
với trẻ em.
Mục tiêu mà Nhà nước ta đang hướng đến là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do đó mọi chính sách của Đảng và Nhà nước trong
đó có chính sách pháp luật đều hướng đến xây dựng một nhà nước pháp
quyền, bảo vệ tối đa quyền con người. Các biện pháp cưỡng chế hình sự, tiêu
biểu là hình phạt bên cạnh tính trừng trị còn nhằm mục đích giáo dục người
phạm tội, giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa, sớm tái
hoàn lương. Mục đích của hình phạt trong Bộ luật Hình sự nước ta hiện hành
mang tính nhân văn và khoan hồng, khác với hình phạt của chế độ phong
kiến, hình phạt không mang tính giáo dục mà mang nặng tính trừng trị, “có tội
phải đền tội” hay “giết người phải đền mạng”. Bộ luật hình sự Việt Nam qui
định chính sách nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi, họ là đối tượng đặc biệt
được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ, khi họ là người bị hại và cả khi họ
là chủ thể của tội phạm, chính sách này của Nhà nước ta thể hiện rõ và nhất
quán, đồng thời cũng phù hợp với Công ước quốc tế của Liên hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã ký kết.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
nhận ra sai lầm và sửa chữa để phát triển thành công dân tốt, bởi nếu khi áp
dụng hình phạt với họ chỉ nhằm trừng trị mà không cải tạo, giáo dục họ thì
khi chấp hành xong hình phạt, ho lại tái phạm thì việc áp dụng hình phạt

không có ý nghĩa, lúc đó mục đích mà chúng ta đã đặt ra cũng không đạt được
gì cả. Do đó, theo tác giả, muốn đấu tranh phòng chống tội phạm chưa thành
niên hiệu quả, thì phải tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh loại
tội phạm này, từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tội phạm
chưa thành niên phát sinh. Cũng giống như người thầy thuốc, muốn chữa hết
bệnh cho bệnh nhân phải tìm được đúng bệnh và áp dụng đúng pháp đồ điều

17


trị. Nên việc tăng mức hình phạt hay giảm tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
của người dưới 18 tuổi không phải là giải pháp khả thi và hiệu quả, mà đôi
khi còn phản tác dụng.
1.2. Cơ sở của việc quy định và áp dụng hình phạt tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi
1.2.1. Cơ sở chính trị - xã hội
Trước hết, tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số
49/NQ-TW), trong đó Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện
chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng
áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình…”. BLHS số
100/2015/QH13 (gọi là BLHS năm 2015) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực toàn phần kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã kịp thời thể chế hoá chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp.
Bên cạnh đó, trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay,
tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, các
cơ quan tư pháp còn một số lúng túng trong việc phòng ngừa và đấu tranh
chống các tội phạm này, nên việc áp dụng các loại hình phạt nói chung và

hình phạt tù nói riêng có vai tròng rất qua trọng. Hình phạt với tính chất là
biện pháp trách nhiệm hình sự được Nhà nước sử dụng như là một công cụ,
phương tiện quan trọng để trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Nó
thông thường gắn liền với việc áp dụng cưỡng chế của nhà nước. Tính cưỡng
chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo, được
thể hiện ở nội dung trừng trị là một đặc điểm cơ bản của hình phạt; đặc điểm
này cho phép phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Nội

18


dung trừng trị của hình phạt có thể nặng, nhẹ khác nhau, nhưng chúng đều có
cùng tính chất là một loại biện pháp cưỡng chế trong hệ thống các biện pháp
cưỡngchế nhà nước.
Hình phạt là một hiện tượng xã hội, sự hình thành và phát triển của nó
gắn với từng giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người, nên
nó trước hết mang bản chất xã hội. Hình phạt thể hiện bản chất xã hội chủ yếu
thông qua các mối liên hệ của nó với xã hội, vớicác quá trình, các hiện tượng
xã hội khác, trong đó quan trọng nhất là hiện tượng tội phạm. Cơ sở pháp lý
cho sự tồn tại của hình phạt chính là sự tồn tại của tội phạm. Không có tội
phạm thì không thể có hình phạt. Hình phạt là hậu quảpháp lý của hành vi
phạm tội, là thước đo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Phải có những vi phạm điều kiện tồn tại của xã hội - tội phạm mới xuất hiện
phương tiện để đấu tranh với các vi phạm đó. Như vậy, giữa tội phạm và hình
phạt có mối quan hệ chặt chẽ, đó chính là mối quan hệ nhân - quả. Quan niệm
như thế nào về tội phạm thì sẽ có một phạm vi tác động cưỡng chế hình sự
tương ứng, sẽ có quan niệm như thế về bản chất và mục đích của hình phạt và
việc áp dụng và thi hành hình phạt trong thực tiễn tương ứng. Với nhận thức
như trên, cú thể khẳng định tính phải chịu hình phạtlà thuộc tính, là dấu hiệu
của tội phạm.

Việt Nam luôn đặt chiến lược phát triển con người trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, câu “trẻ em là tương lai của đất nước”
được toàn xã hội biết đến như là sự khẳng định một chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước và việc áp dụng hình phạt đối với đối tượng là người chưa
18 tuổi cần phải đảm bảo đầy đủ quyền con người và đặc biệt là quyền trẻ
em… Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi đúng còn
tác động nên người bị kết án, họ nhận thấy mức hình phạt phù hợp sẽ cố
gắng cải tạo để về hòa nhập cuộc sống, sinh sống ổn định và không thực

19


hiện hành vi phạm tội nữa. Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đúng đắn sẽ
góp phần bảo vệ công bằng xã hội, tăng cường pháp chế, trật tự pháp luật và
kỷ cương xã hội.
1.2.2. Cơ sở tâm sinh lý lứa tuổi
Người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi trái pháp luật hình sự bị coi là tội
phạm, như vậy họ trực tiếp tham gia các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực hình
sự và tố tụng hình sự. Quan hệ này diễn ra vào thời điểm người dưới 18 tuổi
chưa đủ trưởng thành về tâm sinh lý cũng như hiểu biết pháp luật. Các thủ tục
tố tụng đặc biệt hết sức quan trọng để đảm bảo sự tiếp xúc với cơ quan tiến
hành tố tụng thì các em được đối xử một cách thân thiện, công bằng, được tạo
cơ hội và hướng dẫn để chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, được tạo
cơ hội tránh mắc phải sai phạm như vậy trong tương lai và có trách nhiệm
chấp hành pháp luật.Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em
năm 1989 và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ
em, nhất là những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội. Để có thể kết luận
người dưới 18 tuổi là người phạm tội thì cần phải có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của cơ quan Tòa án. Bản án là kết quả của một quá trình TTHS
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử

người dưới 18 tuổi. Tất cả những hoạt động này ảnh hưởng, liên quan trực
tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi khi họ tham gia
tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và đến tính khách
quan, tính pháp lý của bản án. Do vậy, chính sách hình sự còn có nội dung là
những nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị can,
bị cáo là người dưới 18 tuổi. Với lý do này, pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam đã có những quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho người dưới 18
tuổi khi họ là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự. Những quy định này
được quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 -

20


×