Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bai thu hoach HS 07 Tranh chap ly hon Nguyen Thi Hao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.98 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn

:

Kỹ năng cơ bản của luật sư trong việc
giải quyết các vụ án dân sự
Mã số hồ sơ : LS.DS 07
Diễn lần
: 01
Ngày diễn
: 24/11/2019
Giáo viên hướng dẫn:
Họ và tên
SBD
Lớp
Nhóm

:
:
: Luật sư 20
:

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 11 năm 2019

1



HỒ SƠ 07
TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN
Mã số: LS.DS 07/B4.TH4 – DA1/HNGĐ
I.
1.

NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
Tóm tắt nội dung vụ việc

Bà Nguyễn Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt tự nguyện đăng ký kết hôn tại
UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là TP Hải Dương ngày 26/3/1999.
Ông Nguyệt và bà Hảo có hai con chung là cháu là Nguyễn Thị Nhi (04/01/2001)
và Nguyễn Đức Anh (13/6/2007). Hai người chung sống chung khoảng hơn 02 năm
thì bà Hảo và ông Nguyệt phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân hơn 01 năm.
Nguyên nhân, tính tình không hợp, ông Nguyệt hay đi chơi, về lại hay chửi đánh vợ
con. Nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được.
Vào ngày 02/01/2016, Bà Hảo khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyệt tại Tòa án
nhân dân TP Hải Dương. Vụ án đã được Tòa án TP Hải Dương thụ lý (Thông báo
thụ lý vụ án số 02/TB-TLVA ngày 10/1/2016).
-

Về con chung, cháu Nhi hiện đang ở cùng với bà Hảo, cháu Đức Anh đang ở
cùng ông Nguyệt. Cả bà Hảo và ông Nguyệt đều xin nuôi cả hai con chung.

-

Không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung:
+ Thửa đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại:

xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã được cấp chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên bà Hảo và ông Nguyệt từ năm 2005. Bà Hảo đề
nghị được chia ½ diện tích đất trên và tự nguyện nhận phần đất không có tài
sản. Không yêu cầu ông Nguyệt trả chênh lệch về tài sản nếu có. Còn ông
Nguyệt thì không đồng ý chia cho bà Hảo quyền sử dụng đất vì cho rằng đất
này là của bố mẹ anh em ông Nguyệt, không phải của ông. Ông Nguyệt đề
nghị cơ quan có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận nêu trên để cấp lại cho bố
mẹ đẻ mình vì cho rằng việc cấp giấy này là sai.
2


+ Về tài sản trên đất có nhà và một số công trình phụ, bà Hảo không đề nghị
chia tài sản trên đất, xin được lấy phần không có tài sản trên đất. Còn ông
Nguyệt thống nhất giá trị về các tài sản trên đất với bà Hảo và xin được chia
đôi tài sản này.
+ Về thửa đất số 02 Thượng Kiệt, xã Thượng Kiệt , TP Hải Phòng thống nhất
sẽ do ai canh tác, quản lý
+ Hai vợ chồng có nợ chung vay của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là
30.000.000 đồng. Ông Nguyệt đã tự trả được 10.000.000 đồng và tiền lãi.
Còn lại tiền gốc là 20.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh. Ông nhận trả số tiền
vay này. Nếu ông không trả thì bà Hảo nhận trả một nửa theo quy định của
pháp luật.
Ông Nguyệt và bà Hảo đã tiến hành hòa giải tổng cộng 3 lần vào các ngày
19/05/2016, 17/6/2016 và 12/07/2016 nhưng không thỏa thuận được với nhau.
Ngày 03/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương ban hành Quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm số 73/2017/QĐST-DS.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng vào vụ việc
- Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
- Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Luật đất đai 2003;

- Nghị định 181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất
đai năm 2003;
- Luật đất đai 2013;
- Nghị định 43/2014/ NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành luật đất đai.
- Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành
một số quy định của luật hôn nhân và gia đình;
3


- Nghị định 126/2014 hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
- Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao thông qua
ngày 06/4/2016.
3. Quan hệ pháp luật tranh chấp: ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi
ly hôn theo khoản 1 điều 28 BLTTDS 2015.
4. Thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp thuộc về giải quyết của Tòa án (theo khoản
1 điều 28 BLTTDS 2015). Tòa án nhân dân cấp huyện được giải quyết vụ việc này
(điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS 2015) => Tòa án nhân dân huyện Nam Sách này
là thành phố Hải Dương có thẩm quyền giải quyết vụ việc này (điểm a khoản 1 điều
39 BLTTDS 2015 là tòa án nơi bị đơn cư trú).
5. Thời hiệu khởi kiện: không áp dụng thời hiệu khởi kiện vì là quan hệ nhân thân
gắn liền với tài sản (khoản 1 điều 155 BLDS 2015)
6. Tư cách tố tụng:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hảo
- Bị đơn: Nguyễn Văn Nguyệt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Văn Cang, ông
Tự, UBND tỉnh Hải Dương, UBND xã Thượng Đạt

II.


Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh
• Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Căn cứ Đơn khởi kiện ngày 02/01/2016, Bà Nguyễn Thị Hảo đề nghị Tòa án nhân
dân TP Hải Dương giải quyết những vấn đề sau:
- Về quan hệ hôn nhân: yêu cầu ly hôn với ông Nguyệt.

4


- Về con chung: yêu cầu được nuôi hai con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày
04/01/2001) và Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/6/2007). Không yêu cầu ông
Nguyệt cấp dưỡng;
- Về tài sản chung: yêu cầu chia một nửa nhà, đất và tài sản thuộc thửa đất số 496,
tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
-

Chứng cứ chứng minh
Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của ông Nguyệt với bà Hảo;
Bản sao giấy khai sinh của Nguyễn Thị Nhi;
Bản sao giấy khai sinh của Nguyễn Đức Anh;
Bản sao sổ hộ khẩu của ông Nguyệt và bà Hảo;
Bản sao chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân của bà Hảo
Bản sao giấy xác nhận cư trú của bà Hảo;
Bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 496;
Bản sao kê thu nhập hoặc giấy tờ chứng minh mức thu nhập của bà Hảo;
Bản sao hợp đồng thuê đất khoán số 02 Thượng Kiệt, xã Thượng Kiệt, TP Hải

-


Phòng;
Biên bản định giá các tài sản trên thửa đất số 496.



Kế hoạch xét hỏi

III.

Với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, kế hoạch
hỏi lại tòa của tôi như sau:
1.
-

Hỏi nguyên đơn - Nguyễn Thị Hảo
Mối quan hệ giữa bà và ông Nguyệt hiện nay như thế nào?
Căn cứ bản biên bản lấy lời khai, bản tự khai ngày 18/01/2016, bà muốn ly
hôn vì tính tình vợ chồng không hợp nhau, ông Nguyệt hay chơi bời, chửi

-

bới và đánh đập bà có đúng không?
Sự việc trên có ai trong gia đình, hàng xóm hay cơ quan quản lý địa phương

-

chứng kiến hay không?
Sau khi ly thân cho đến thời điểm hiện tại, bà đang sinh sống ở đâu?
Hiện tại, bà đang làm công việc gì? Thời gian làm việc của bà như thế nào?
Nguồn thu nhập của bà từ đâu mà có?

5


-

Hiện tại, việc sinh hoạt, học tập của cháu Nhi và cháu Đức Anh diễn ra như

-

thế nào? Số tiền học phí và sinh hoạt của cháu Nhi là khoảng bao nhiêu?
Hiện nay, việc học tập, bà có đưa đón cháu Nhi đi học hay không?
Trong gia đình, ai là người thường xuyên gần gũi với các con?
Bà có thường xuyên tâm sự, quan tâm, ổn định mặt tâm lý với cháu Nhi

-

không?
Trong thời gian ly thân, bà có thường đến thăm cháu Đức Anh không? Bà có

-

bị ông Nguyệt gây khó khăn gì trong quá trình thăm con không?
Cháu Anh hay tâm sự với bà chuyện gì nhiều nhất?
Bà có tạo cơ hội cho ba cháu là ông Nguyệt, cháu Đức Anh thăm gặp cháu

-

Nhi không?
Sau khi ly hôn, bà muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nhi và cháu Đức


-

Anh đúng không?
Với khả năng tài chính hiện nay, bà có đủ điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc

-

cho cả hai con hay không?
Trong quá trình sống chung, bà đã đóng góp gì vào tài sản chung của gia

-

đình ?
Việc UBND xã cấp chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 496, tờ
bản đồ số 01, diện tích 216 m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương dưới

-

tên ông Nguyệt và bà, bà có biết hay không?
Tại thời điểm nhận giấy chứng nhận, ông Nguyệt có ý kiến gì đối với việc

-

tên của bà được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Cha mẹ ruột và anh chị em trong gia đình ông Nguyệt có biết sự việc được

-

cấp giấy chứng nhận đất trên không?
Họ có ý kiến gì với quyết định cấp giấy chứng nhận đất dưới tên ông Nguyệt


-

và bà không?
Bà đã có những đóng góp gì vào thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách?

2.
-

Hỏi bị đơn – Nguyễn Văn Nguyệt
Theo ông, nguyên nhân dẫn gì khiến bà Hảo gửi đơn khởi kiện yêu cầu ly

-

hôn ?
Sau mỗi lần vợ chồng cãi nhau, ai là người bình tĩnh làm hòa, gỡ rối mâu
thuẫn ?
6


-

Căn cứ biên bản lấy lời khai ông và bản tự khai ngày 20/01/2006, nguyên
nhân ly hôn là do bà Hảo hay ghen, vì bạn của ông trêu là ông có con ở nơi

-

công tác, vì việc này bà Hảo bỏ về nhà mẹ đẻ đúng hay không?
Sự việc trên có diễn ra thêm lần nào hay không? Nếu có thì xảy ra thêm bao


-

nhiêu lần? Theo ông, tại sao bà Hảo lại ghen nhiều lần như vậy?
Tại sao ông không chủ động giữ kẽ các mối quan hệ đồng nghiệp hay hạn
chế các lời trêu chọc của đồng nghiệp, tránh cho vợ mình ghen tuông nhiều

-

lần?
Hiện tại, ông đang làm nghề gì? Thu nhập như thế nào? Ông có tài liệu gì

-

chứng minh thu nhập đó không?
Tiền học phí và phí sinh hoạt của các con hiện nay do ai chi trả?
Trong thời gian ly thân, ông có thường xuyên gặp cháu Nhi hay không? Ông

-

có tạo cơ hội cho cháu Đức Anh đến thăm cháu Nhi và bà Hảo không?
Theo biên bản lấy lời khai 23/2/2016 của bà Hảo và biên bản xác minh của
cán bộ tư pháp xã là ông Tự ngày 09/3/2016, có phải ông không cho bà Hảo
gặp cháu Đức Anh và ông đã đánh cháu Anh khi cháu Anh gặp bà Hảo đúng

-

không?
Ban đầu, cháu Đức Anh mong muốn được ở với mẹ nhưng sau đó lại đổi ý ở


-

với ba, việc đổi ý như trên có phải do ông đã ép buộc cháu hay không?
Giữa ông và bà Hảo có các tài sản chung nào? Có giấy tờ định giá các tài sản

-

nêu trên không?
Việc UBND xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 496 cho bà Hảo
và ông, ông có biết sự việc này không? Ai là người trực tiếp nhận giấy chứng

-

nhận trên?
Khi ông biết được bà Hảo có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

-

ông không có ý kiến gì về việc này đúng không?
Cha mẹ ruột và anh em ruột của ông có biết bà Hảo đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 496 không? Khi họ đều biết, có ai ý kiến phản đối

-

về quyết định trên của UBND xã không?
Tại sao cho đến khi xảy ra tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly
hôn giữa ông với bà Hảo thì ông mới có ý kiến về việc chính quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 496 là sai?
7



-

Bà Hảo đã đóng góp những gì trên thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách?

3.
-

Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan – Nguyễn Thị Thoa
Hằng ngày, bà thấy bà Hảo chăm sóc con cái và hai vợ chồng bà như thế

-

nào ?
Căn cứ biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2016 bà khai rằng khi mâu thuẫn anh

-

Nguyệt hay đuổi chị Hảo đi đúng không?
Cũng trong bản lấy lời khai trên, bà khai rằng chỉ đến khi lần thứ 2 (ngày
20/3/2013), khi anh Nguyệt thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để
vay vốn ngân hàng thì bà mới biết ông Nguyệt và bà Hảo được cấp giấy giấy

-

chứng nhận quyền sử dụng đất đúng không?
Khi biết bà Hảo có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại sao bà
và các con của bà không kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền hay có ý kiến


4.
-

IV.

gì đối với sự việc này?
Hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan – ông Tự Cán bộ tư pháp xã
Theo ông, nguyên nhân mâu thuẫn lớn nhất dẫn đến việc ly hôn của thân chủ
tôi và ông Nguyệt là gì ?
Sự việc nêu trên đã được ông ghi nhận lại như thế nào?
Ông có biết việc ông Nguyệt không cho cháu Đức Anh gặp mẹ không?
Ông Nguyệt đã nói gì với cháu Đức Anh khi cháu đòi gặp mẹ ?
Bài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn

Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa Đại diện Viện Kiểm sát;
Thưa Luật sư đồng nghiệp.
Tôi là luật sư ………………………, thuộc Văn phòng luật sư LK, Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi tham gia phiên toà ngày hôm nay với tư cách là luật

8


sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Hảo trong
vụ kiện “Ly hôn, nuôi con, chia tài sản” với bị đơn – ông Nguyễn Văn Nguyệt.
Qua quá trình nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phần xét
hỏi công khai tại phiên toà hôm nay tôi xin trình bày quan điểm của mình để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi – bà Nguyễn Thị Hảo như sau:

Về vấn đề ly hôn, do thân chủ tôi và ông Nguyệt đã cùng thỏa thuận ly hôn. Việc

này đã được ghi nhận tại các biên bản hòa giải của Tòa án nhân dân TP Hải Dương
ngày 19/5/2016, 17/6/2016 và 12/7/2016. Căn cứ điều 55 Luật HNGĐ 2014, khi vợ
chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã
thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận
tình ly hôn. Vì vậy, về vấn đề ly hôn, tôi mong Tòa chấp thuận yêu cầu ly hôn của
thân chủ tôi.

Về vấn đề yêu cầu được nuôi con chung của thân chủ tôi với ông Nguyệt.
Thứ nhất, hiện nay bà Hảo đang là công nhân của công ty Trấn An nên bà có thu
nhập ổn định hằng tháng, lương cố định từ 4.000.000 đến 6.000.000 đồng/ tháng.
Đồng thời, công việc có ca làm cố định từ 8 tiếng - 12 tiếng nên bà có thời gian
chăm sóc hai cháu. Về nơi cư trú, bà Hảo hiện đang sống với mẹ đẻ ở thôn Nam
Giàng nên bà ngoại có thời gian chăm sóc, phụ giúp đưa đón các cháu mỗi khi bà
bận. Về mặt tâm lý nuôi dạy, bà Hảo là mẹ của các cháu, là người gần gũi các con
nhất, bà sẽ biết cách chăm sóc và giáo dục các cháu đúng cách. Đặc biệt là đối với
cháu Nhi đang trong tuổi dậy thì còn cháu Đức Anh còn rất bé, chưa trưởng thành
sẽ có những biến đổi tâm sinh lý phức tạp, cần mẹ ở bên bảo ban, săn sóc. Vì

9


những lý do nêu trên, thân chủ tôi có đủ điều kiện kinh tế, chỗ ở, thời gian cho hai
cháu, đảm bảo mọi mặt về quyền lợi của các cháu về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, theo đơn đề nghị ngày 20/1/2016 của cháu Nhi và biên bản lấy lời khai
của cháu Đức Anh ngày 05/7/2016, hai cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ là
bà Nguyễn Thị Hảo. Căn cứ theo khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ 2014 về việc chăm
non, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con sau khi ly hôn : “Vợ, chồng thỏa thuận
về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với
con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một

bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi
trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Vì lẽ đó, mong HĐXX xem xét
nguyện vọng của các cháu.
Thứ ba, theo ông Tự - Cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương đã
xác nhận trong biên bản xác minh ngày 09/3/2016 thì nguyên nhân mâu thuẫn lớn
nhất của thân chủ tôi và ông Nguyệt là do ông Nguyệt chơi bời, về lại hay chửi
đánh vợ con. Ngoài ra ông Nguyệt còn không cho cháu Anh gặp mẹ, de dọa nếu
cháu gặp thân chủ tôi, ông Nguyệt sẽ đánh đòn, hành hạ cháu. Ông Nguyệt hiện
đang làm nông nghiệp, thu nhập tính theo mùa vụ trồng trọt, mức thu nhập không
ổng định và ông Nguyệt cũng chưa đưa ra được chứng minh thu nhập của bản thân.
Nếu các cháu sống với một người ba như vậy thì việc nuôi dưỡng và tâm sinh lý
của các cháu có được đảm bảo một cách tốt nhất?
Chính vì thế, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con của thân chủ tôi, kính
mong HĐXX xem xét và cân nhắc giao hai cháu cho chị Hảo trực tiếp nuôi dưỡng
để các cháu được hưởng mọi quyền lợi tốt nhất.

Về tài sản chung, thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m 2 tại xã Thượng
Đạt, thành phố Hải Dương. Bà Hảo yêu cầu chia đôi nhà đất có số thửa 496, chia
10


một nửa diện tích đất trên và xin được lấy phần không có tài sản trên đất, không đề
nghị chia tài sản trên đất.
Thứ nhất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 496 được Ủy ban nhân
dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cấp mang tên ông Nguyệt và bà Hảo là đúng
trình tự và có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Căn cứ biên bản lấy lời khai của
các đương sự, những người làm chứng đều xác định nguồn gốc thửa đất số 496 là
do ông Cang và bà Thoa mua vào năm 1999. Ngày 10/8/2001, có biên bản xét
duyệt của hội đồng xử lý những thiếu sót tồn tại trong việc giao đất cho dân làm
nhà ở, thu tiền đầu tư xây dựng cơ bản kết cấu hạ tầng, cơ sở xã Thượng Đạt căn cứ

vào hồ sơ lập, hội đồng đã duyệt hợp thức hóa cho 30 hộ trong đó có hộ ông
Nguyệt và bà Hảo. Ngày 25/10/2011, các hộ có đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Trong đó có đơn của hộ ông Nguyệt và thân chủ tôi nhưng hồ
sơ hiện nay đã thất lạc được xác minh bởi ông Nguyễn Văn Bích (công chức địa
chính xã Thượng Đạt). Ông Bích đã trực tiếp xuống các hộ dân đo đạc, lập bản đo
đạc xác minh hiện trạng, văn bản có chữ ký xác nhận của chủ sử dụng đất là ông
Nguyệt và bà Hảo. Ông Bích khẳng định thửa đất của ông Nguyệt bà Hảo sử dụng
ổn định, không có tranh chấp với ai, tiền sử dụng đất cũng đã được gia đình ông
Nguyệt đóng đầy đủ.Vì vậy, theo điều 50 Luật đất đai 2003, điều 135 Nghị định
181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai năm
2003 thì trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyệt và bà Hảo là đảm
bảo đúng quy định pháp luật.

Thứ hai, quyền sử dụng đất số 496 vẫn thuộc quyền sở hữu của bà Thoa và ông
Cang là không có cơ sở. Căn cứ biên bản lấy lời khai của bà Thoa ngày 06/5/2016
bà Thoa đã xác nhận, từ ngày 20/3/2013, vợ chồng bà Thoa đã biết chuyện bà Hảo
được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng cả hai đều không có
ý kiến gì. Mà theo điểm c Khỏa 2 Điều 138 Luật đất đai 2003 quy định “Thời hiệu
11


khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là ba mươi
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành
chính đó. Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án”. Nếu vợ chồng bà
Thoa ông Cang, các thành viên khác có ý kiến gì thì phải kiến nghị trong khoản
thời gian luật đã định, tới thời điểm này thì đã quá hạn.
Đồng thời, theo Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối
cao thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA

ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, khái quát nội dung án lệ
như sau: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ
chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi
vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình
không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công
khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng
đất”. Ông Nguyệt và thân chủ tôi đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định
dưới sự chứng kiến của mọi thành viên trong gia đình chồng. Họ tiến hành kê khai
đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất số
496 vẫn thuộc quyền sở hữu của bà Thoa và ông Cang là không có cơ sở.
Thứ ba, theo khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014: “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật
này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Thửa đất số 496 là vũng sau, ông
Nguyệt và thân chủ tôi phải thuê người san lấp được một phần nhỏ trên thửa đất
12


làm nền đất nhà ở. Đến khi làm nhà, hai người cũng phải thuê người đổ thêm đất
vào nền nhà, nền bếp cho kiên cố thêm. Sau khi ra ở trên nhà đất, vợ chồng bà Hảo
còn tiếp tục đổ thêm đất, cát tôn tạo đất cho cao lên. Mỗi năm, họ làm một ít nên bà
Hảo không nhớ được đã tốn bao nhiêu tiền đổ nền. Ngoài ra, trên đất có các tài sản
là nhà, công trình phụ, tường hào, bể nước, giếng hào, chuồng lợn và một số cây ăn
quả khác. Bà Hảo không yêu cầu chia tài sản mà chỉ yêu cầu chia một nửa diện tích
đất trên và xin được lấy phần không có tài sản là hoàn toàn phù hợp.
Như vậy, việc ông Nguyệt yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà
Thoa và ông Nguyệt là không hợp lý và bác yêu cầu chia tài sản chung là thửa đất

trên không đúng với quy định pháp luật. Bà Hảo yêu cầu chia đôi nhà đất có số
thửa 496, chia một nửa diện tích đất trên và xin được lấy phần không có tài sản trên
đất, không đề nghị chia tài sản trên đất là hoàn toàn phù hợp.

Với những trình bày, lập luận và viện dẫn các chứng cứ cũng như đối chiếu với quy
định của pháp luật ở trên cho thấy yêu cầu của thân chủ tôi bà Nguyễn Thị Hảo là
hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp. Trên đây là toàn bộ quan điểm pháp lý của luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn – Nguyễn Thị Hảo. Kính
mong Hội đồng xét xử xem xét.
Trân trọng cảm ơn!

13



×