Trường Đại Học Ngân Hàng TPHCM
Khoa Tín Dụng
Tiểu luận: Nhập mơn Tài Chính – Tiền Tệ
Đề Tài: Lạm Phát Việt Nam 2011 – Thực trạng, giải
pháp và cái nhìn về tương lai.
Lớp: T08. (Nhóm 3)
GVHD: Nguyễn Văn Nghiện
Sinh viên:
Huỳnh Ngọc Đan Thanh. MSV: 030125090724
Trần Đại Trí.
MSV: 030125090955
TPHCM – 8/11/2011
Mục lục:
1
Lời nói đầu ……………………………………………………………………Trang 3
1.Tình hình lạm phát ở Việt Nam 2011………………………………………..Trang 4
1.1. Đánh giá tình hình lạm phát 7 tháng đầu năm 2011……………………Trang 4
1.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam……………………………………Trang 5
1.2.1. Nguyên nhân tích tụ từ giai đoạn trước……………………………..………Trang 5
1.2.2. Nguyên nhân xuất hiện trong năm 2011……………………………….……Trang 7
1.3. Dự báo lạm phát Việt Nam những tháng cuối 2011……………………Trang 9
2.Các chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam……………………….…Trang 10
2.1.Các chính sách kiềm chế lạm phát 6 tháng đầu 2011..............................Trang 11
2.1.1 Chính sách tiền tệ………………………………..………………………….…Trang 11
2.1.2 Chính sách tài chính……………………………..……….……………………Trang 16
2.2 Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa 6 tháng cuối năm 2011 như thế
nào?…………………………………...…………………………………….…Trang 18
2.3 Các giải pháp phối hợp để kiểm soát lạm phát tại Việt Nam……………Trang 20
Lời kết…………………………………………………………………………Trang 23
Tư liệu tham khảo…………………………………………………………….Trang 24
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát thể hiện giá cả chung cả nền kinh tế trong nước tăng lên theo thời gian, là sự
mất giá của đồng bản tệ theo đó sức mua của đồng tiền bị giảm sút, về quan hệ đối
2
ngoại, lạm phát còn là sự phá giá của đồng tiền nước này so với đồng tiền của nước
khác. Tùy theo mức độ lạm phát mà có tác động tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế
xã hội và uy tín của quốc gia trên trường qc tế, vì vậy, lạm phát luôn là vấn đề được
quốc gia quan tâm. Trong điều hành chính sách tiền tệ, lạm phát luôn là vấn đề được
ưu tiên hàng đầu của mỗi nước.
Trải qua cuộc khùng hoảng tài chính tồn cầu 2007 – 2009, đến nay nền kinh tế thế
giới vẫn còn chưa ổn định. Trong 6 tháng đầu năm 2011, kinh tế thế giới liên tục phục
hồi nhưng có nhiều dấu hiệu bất ổn, tăng trưởng kinh tế chậm lại ở nhiều nước phát
triển như Mỹ, Nhật Bản. Lạm phát có xu hướng tăng cao trên tồn cầu khiến chính
sách thắt chặt tiền tệ lan rộng tại hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Bên cạnh đó, thị
trường tài chính biến động, giá vàng liên tục tăng và lập các kỷ lục mới, đồng USD
giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác, vấn đề nợ công và thâm hụt ngân sách diễn
biến phức tạp ở nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới như châu Âu, Mỹ,… Dưới tác động
của bối cảnh kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng khá lớn và đang đối mặt
với nguy cơ lạm phát tăng cao. Với nhiều dự báo, Việt Nam có thể lạm phát nằm
trong top 4 của thế giới. Điều đó cho thấy tồn tại nguy cơ tiềm ẩn rủi ro khá cao về bất
ổn kinh tế vĩ mơ ở Việt Nam.
Trước tình trạng này, Chính phủ nước ta đã có những biện pháp về “điều hành chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát và từng
bước ổn định vĩ mô”. Đánh giá lại qua 6 tháng đầu năm, những chính sách trên đã có
những tác động nhất định, nhưng song song đó vẫn cịn nhiều thách thức đặt ra. Bài
tiểu luận này giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về vấn đề kinh tế nóng bỏng này.
3
1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2011
Tiếp theo năm 2009, năm 2010 cũng là năm được đánh giá là nền kinh tế khó khăn,
chỉ số CPI tăng 11,75% nhưng Việt Nam đã vượt qua để đạt được tốc độ tăng trưởng
GDP 6,78%. Cũng trong năm 2010 chúng ta kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ tốt hơn
trong năm 2011 nên đã đặt mục tiêu định hướng kiềm chế CPI dưới 7%, đạt tốc độ
tăng trưởng GDP 7,5%, tuy nhiên kinh tế thế giới đã có những diễn biến bất ngờ, giá
vàng, nhiên liệu tăng, bên cạnh đó Nhật Bản bị thảm họa động đất sóng thần; tình hình
chính trị bất ổn ở Lybia, tình hình khủng hoảng nợ cơng châu Âu… đã có những tác
động đến nền kinh tế toàn cầu. Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế
mới nổi tại châu Á phải đối mặt với bài tốn khó, đó là kìm chế lạm phát nhưng vẫn
bảo đảm phục hồi tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đó diễn biến lạm phát của Việt
Nam năm 2011 gia tăng nhanh có nguy cơ lặp lại kịch bản của năm 2008. Giá cả
nhiều mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương thực thực phẩm gia tăng, tác động không
nhỏ đến đời sống thường ngày của người dân. Bên cạnh đó, lạm phát khiến cho mặt
bằng lãi xuất, chi phí các yếu tố đầu vào tăng lên khiến cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của khơng ít doanh nghiệp trở nên khó khăn.
1.1. Đánh giá tình hình lạm phát 7 tháng đầu năm 2011
Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 7 năm 2011 tăng 22,16% so với cùng kỳ năm 2010,
cao gấp 3 lần so với mức tăng tương ứng của năm 2010 (8,19%) và cũng là mức tăng
rất cao so với nhiều năm gần đây ( chỉ thấp hơn cùng kỳ năm 2008 là năm lạm phát
tăng cao đột biến).
Bình quân 7 tháng tăng 16,95%, so với tháng 12 năm 2010 tăng 14,64%; trong đó
tháng 7: 1,17%; tháng 6 1,29%; tháng 5 2,21%; tháng 4 3,32%; tháng 3: 2,17%; tháng
2:2,09% ; tháng 1 :1,74%. Lạm phát cơ bản tháng 6 tăng 14,88% so với cùng kỳ 2010
và tưang 9,1% so với tháng 12 năm 2010, tốc độ tăng có xu hướng chậm lại từ tháng 5
(tháng 1: 1,58%; tháng2: 1,57%; tháng 3: 1,63%; tháng 4:1,83%; tháng 5: 1,39%,
tháng 6:0,76%)
Trong rổ hàng hóa tính CPI, cấu phần có ảnh hưởng lớn nhất đến CPI chung là hàng
ăn và dịch vụ ăn uống tăng 21,2% và chiếm tỉ trọng 59,1% (lương thực tăng 9,8% và
chiếm tỉ trọng 5,6%; thực phẩm tăng 26,12% và chiếm tỉ trọng 44,5%); tiếp đến nhóm
phương tiện đi lại, bưu điện tăng 19,05% (chiếm tỉ trọng 11,8%); nhóm nhà ở,vật liệu
xây dựng tăng 14,15%(chiếm tỉ trọng 10,6%); nhóm đồ dùng và dịch vụ khác tăng
8,51%(chiếm tỉ trọng 1,99%); nhóm may mặc, giày dép, mũ nón tăng 8,65%( chiếm tỉ
trọng 4,4%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 6,48%(chiếm tỉ trọng 3,92%); cịn
các nhóm hàng cịn lại giao động từ mức 4,32% đến 6,36%; trừ mặt hàng bưu chính
viễn thơng đạt mức -1,74%.
4
Mặc dù CPI có xu hướng giảm tốc từ tháng 5 nhưng trong cả giai đoạn, CPI hàng
tháng đều có tốc độ tăng cao hơn so với tháng trước. Tiếp theo đà của những tháng
cuối năm 2010, CPI tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm nay, cá biệt CPI tháng 4 tăng
đột biến 3,32% so với tháng trước và là mức tăng cao nhất so với cùng thời điểm trong
vòng 3 năm qua. Sau đó CPI đã đổi hướng giảm dần trong 2 tháng tiếp theo và CPI
tháng 6 dừng ở con số 1,09% - mức thấp nhất trong vòng 6 tháng đầu năm. Tuy CPI
chỉ tăng nhẹ ở mức 1,17% trong tháng 7 nhưng đã khiến gia tăng quan ngại về lạm
phát tăng tốc trong những tháng cuối năm và đòi hỏi tiếp tục thực hiện nghiêm túc và
triệt để các chính sách kiềm chế lạm phát theo định hướng đề ra.
1.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam
1.2.1. Nguyên nhân tích tụ từ giai đoạn trước
Thứ nhất, giai đoạn 2009 – 2010 chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhanh
chóng được nới lỏng trở lại để khôi phục tăng trưởng kinh tế trong khi những bất ổn
nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để. Sau giai đoạn khủng hoảng tài
chính thế giới và suy thối kinh tế, chính phủ đã thực thi chính sách kích cầu cũng như
gia tăng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước để phục hồi tăng trưởng với mục tiêu đưa tốc
độ tăng trưởng GDP trở lại mức trước khủng hoảng, trong khi đó hiệu quả đầu tư cơng
vẫn cịn thấp. Mặc dù lạm phát năm 2010 đã quây trở lại mức 2 con số nhưng đầu năm
2011, quốc hội vẫn đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7 -7,5% trong khi mục tiêu
kiểm soát lạm phát chỉ ở mức 7%, vì vậy có thể nói các chính sách kinh tế bị động
trước tình trạng lạm phát tăng cao trong năm nay.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn chủ
yếu do mở rộng đầu tư thay vì chú trọng đến hiệu quả đầu tư, vốn đầu tư cũng chưa
được phân bổ một cách hiệu quả. Theo số liệu từ trung tâm nghiên cứu chính sách và
phát triển bền vững (CSDP), giai đoạn 2006-2010 chỉ số ICOR của khu vực nhà nước
vào khoảng 10,2 trong khi của khu vực tư nhân chỉ là 5. Hơn nữa, lĩnh vực thu hút đầu
tư lại là lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản. Trong khi đó, những ngành nghề cần
được đẩy mạnh đầu tư để gia tăng năng lực sản xuất thực sự cho đất nước như các
ngành nông lâm nghiệp, công nghiệp, giáo dục đào tạo… lại chưa được đầu tư đúng
mức. Việc phát triển nền kinh tế khơng bền vững, lệ thuộc nhiều vào dịng vốn từ
nước ngoài được coi là nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng lạm phát cao của Việt
Nam trong những năm vừa qua.
Thứ ba, giá lương thực thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu tồn cầu trên tế giới đã
có tác động nặng nề đến các nước, trong đó có Việt Nam. Tính bình qn trong vịng
10 năm qua, giá lương thực thực phẩm đã tăng 2,6 lần trong khi các hàng hóa khác
tăng 1,7 lần. Đây cũng là nhân tố làm lạm phát ở Việt Nam tăng mạnh do nhóm các
hàng hóa này chiếm hơn 40% khi tính CPI tại Việt Nam.
5
1.2.2. Nguyên nhân xuất hiện trong năm 2011
Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao:
Mở đầu cho việc tăng giá mặt hàng thiết yếu là ngày 24/2 năm 2011, giá xăng trên thị
trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19.300đồng/lít và đến ngày 26/7/2011 là
21.300đồng/lít. Sau chuỗi tăng giá xăng thì thị trường Việt Nam còn phải chịu thêm
gánh nặng của việc ngành điện quyết định tăng giá trong tháng 3 năm 2011. Theo
đánh giá của giới chuyên môn lần tăng giá này là cần thiết và hợp lý vì lâu nay ngành
điện ln phải bù lỗ để có mức giá ưu đãi cho nhân dân. Tuy nhiên trong tình trạng
giá cả leo thang, các cơng trình thủy điện đang xây dựng gian dở cần huy động thêm
vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở thành điều không thể đối với ngành điện. Với việc 2
nguồn nhiên liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá thì việc các loại
hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó tránh khỏi.
Lạm phát tăng cao và nhanh ở 3 nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm; thuốc tân
dược và vật liệu xây dựng. Cả 3 mặt hàng này đều liên quan trực tiếp và thường xuyên
đến đời sống của đông đảo quần chúng, đặc biệt là những người hưởng lương, những
người dân có hồng cảnh khó khăn và khơng có nguồn thu nhập. Sự tăng cao của giá
cả tiêu dùng có rất nhiều lý do nhưng các lý do sau đây cần phải quan tâm:
-
-
-
Về tình hình sản xuất: Một số các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải thu
hẹp sản xuất vì thiếu vốn do lãi xuất vay ngân hàng cao có khi phải vay 2526%, hiện nay tuy có giảm cũng đang nằm ở mức 21-23%, sản phẩm sản xuất
giảm trong khi nhu cầu thiết yếu của người dân cần sử dụng đã đẩy giá lên cao.
Một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi có nguồn vốn dồi dào thì thực hiện
khép kín từ khâu mua nguyên liệu vật liệu sản xuất để sản xuất ra nhiều sản
phẩm với giá thành sản phẩm thấp, lại tìm cách chiễm lĩnh thị phần có thể
khống chế mặt hàng, nâng giá cả lên cao thu lợi lớn.
Về khâu phân phối: Các kênh phân phối hồn tồn khó kiểm soát cũng là lý do
đẩy giá lên cao. Nạn đầu cơ, bn lậu khó kiểm sốt tạo thế lực trong phân
phối, quyết định giá cả các mặt hàng đặc biệt các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
Ngoài ra nguyên nhân tác động kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh…
Tác động tâm lý:
Sức mua của đồng Việt Nam giảm sút nhanh càng khiến cho người dân hướng tới
vàng và ngoại tệ như một phương tiện cất trữ tài sản. Tâm lý tích trữ vàng và ngoại tệ
nhất là đơ la Mỹ của một bộ phận lớn dân cư đã góp phần đẩy giá vàng và đơ la lên
cao, đồng thời ngày càng làm mất giá trị của tiền đồng. Vịng lẩn quẩn ấy đã khiến
cho tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Chỉ trong 3 tháng
6
đầu năm 2011 tiền đồng của Việt Nam đã mất giá 8,5%. Đặc biệt NHNN Việt Nam đã
phải quyết định tỉ giá 1 đô la Mỹ từ 18.643VND lên đến 20.900VND theo tỉ giá hối
đối chính thức (giá chợ đen lên đến khoảng 21.500VND) hiện nay giá vàng lên rất
cao đạt 40,05 triệu đồng/lượng trong ngày 27/7/2011.
Nguyên nhân từ sự thiếu hụt thanh khoản của các ngân hàng thương mại,
điều này đã đẩy lãi suất cho vay của NHTM tăng cao và làm tăng chi phí đầu vào của
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự thiếu hụt thanh khoản của các NHTM từ
nhiều nguyên nhân nhưng một số khía cạnh đáng chú ý như:
- Hoạt động của thị trường liên ngân hàng: Theo NHNN lãi suất cho vay trên thị
trường liên ngân hàng từ giữa tháng 5 đến tháng 7 có xu hướng giảm so với
thời gian trước, hiện nay lãi suất cho vay qua đêm ở mức 13%/năm, lãi suất cho
vay 1 tuần ở mức 15%/năm lãi suất cho vay 2 tuần đến 1 tháng ở mức
18%/năm. Tuy nhiên, thời gian trước, lãi suất thị trường liên ngân hàng liên tục
tăng cao, có thời điểm lãi suất lên đến 25-27%. Nguyên nhân do việc thắt chặt
tiền tệ để kiềm chế lạm phát của NHNN đã khiến một số ngân hàng nhỏ gặp
khó khăn về thanh khoản. Trong khi đó, các NH này bị hạn chế về thương hiệu,
mạng lưới khiến khó có thể cạnh tranh được với các ngân hàng lớn trong việc
huy động vốn, nhất là khi NHNN ấn định trần lãi suất huy động tối đa chỉ là
14%/năm. Các NH này cũng gặp khó khăn trong việc đi vay từ NHNN trên thị
trường mở do thiếu giấy tờ có giá để giao dịch; NHNN cũng đang hạn chế
lượng tiền cung ứng để kiềm chế lạm phát. Khó khăn về thanh khoản khiến các
NHTMCP nhỏ thường xuyên phải vay trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân
hàng dư vốn đã tận dụng tình trạng này để cho vay các NHTM thiếu vốn với lãi
suất cao có lúc lên đến 20-21%/năm. Thực trạng này làm mất đi ý nghĩa vốn có
của thị trường liên ngân hàng là nơi đi vay và cho vay ngắn hạn giữa các ngân
hàng với nhau, là nơi “bấu víu” của các NH tạm thời thiếu thanh khoản. Không
những vậy, việc làm này còn khiến đồng vốn chỉ chạy lòng vòng trong các
ngân hàng mà không đi vào vùng kinh tế để phục vụ phát triển sản xuất kinh
doanh. Thậm chí nhiều NHTM nhỏ không chấp nhận kiểu đi vay này đã quay
trở lại thị trường 1 để huy động vốn bằng mọi giá. Và khi các NHTM nhỏ khởi
động cuộc đua, để giữ chân khách hàng và duy trì nguồn vốn ổn định, các
NHTM lớn cũng buộc phải đẩy lãi suất huy động lên cao khiến cuộc đua lãi
xuất bùng phát.
- Thiếu sự hỗ trợ thanh khoản đối với các ngân hàng TM từ công ty Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam: Việt Nam đã có nhiều văn bản đề cập đến việc chi trả tiền
gửi cho người gửi tiền khi NH bị phá sản, song đây khơng phải là nhiệm vụ
chính yếu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một
kênh rất quan trọng hỗ trợ cho các NHTM khi họ gặp khó khăn về thanh khoản
nhưng đến nay vẫn chưa có luật bảo hiểm tiền gửi để làm minh bạch cho nhiệm
vụ và quyền lợi của NHTM, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, người gửi tiền.
7
-
Sự hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản từ số dư tiền gửi bắt buộc từ NHNN: NHNN
có thể tăng, giảm tỉ lệ dự trữ bắc buộc để tác động đến mở rộng, thu hẹp hoạt
động kinh doanh của NHTM khi các NHTM chấp hành thực hiện chuyển tiền
vào tài khoản tiền gửi dự trữ bắc buộc tại NHNN. Nếu các NH chấp hành tốt
thì thực sự làm mạnh hệ thống thanh khoản đối với hệ thống NH. NHNN có thể
sử dụng số tiền này để hỗ trợ sự thiếu hụt thanh khoản của một số NH, đảm bảo
an toàn hệ thống NHTM. Hiện nay điều này chưa được đề cập chức năng này
của NHNN trong việc hỗ trợ thanh khoản từ kênh tiền dự trữ bắt buộc.
1.3. Dự báo lạm phát Việt Nam những tháng cuối 2011
Nhiều chuyên gia nhận định rằng lam phát Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào tháng 8, tháng 9
sau đó giảm dần đến cuối năm:
-
Tổng cục thống kê nhận định lạm phát tiếp tục tăng cao đến khoảng tháng 89/2011 sau đó giảm dần.
World Bank dự báo lạm phát Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào tháng 6 với mức tăng
22% so với cùng kỳ và giảm dần, đến tháng 12 đạt khoảng 15%.
Trong những tháng tới lạm phát chịu nhiều sức ép tăng do:
-
-
-
-
Giá hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá các nguyên, nhiên vật liệu cơ bản và giá
lương thực thực phẩm như: gạo, xăng dầu, gas, cao su, phơi thép, đồng, thiết…
có thể đứng ở mức cao trong thời gian tới (theo báo cáo triển vọng kinh tế thế
giới công bố tháng 6/2011, IMF dự báo giá dầu năm 2011 tăng 34,5%, giá các
hàng hóa phi dầu tăng 21,6% - mặc dù thấp hơn mức dự báo tương ứng là
35,6% và 25,1% hồi tháng 4/2011 nhưng vẫn ở mức cao).
Tình hình thời tiết, dịch bệnh trong nước diễn biến phức tạp, bão lũ ( nhất là
trong quý 3 năm 2011) có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn cung
hàng hóa, nhất là lương thực thực phẩm.
Giá các mặt hàng do nhà nước quản lý và giá các mặt hàng quan trọng thiết yếu
có thể tăng do ảnh hưởng của giá thế giới và chính phủ tiếp tục thực hiện cơ
chế giá thị trường.
Nhập siêu có thể gia tăng gây áp lực tỉ giá/giảm giá VND.
Chính sách tài khóa, đặc biệt là việc cắt giảm đầu tư công chưa thể hiện được
quyết tâm chống lạm phát.
Kỳ vọng lạm phát gia tăng do giá các mặt hàng thiết yếu tăng, tiền lương tăng,
giá thế giới tăng.
Dự báo lạm phát năm 2011 của Việt Nam có thể ở mức 17,5-19,5%.
2. CÁC CHÍNH SÁCH KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM:
8
Trong năm 2011, với các bất ổn về chính trị ở Lybi, Bắc Phi, Triều Tiên… các thảm
họa thiên nhiên như động đất, sóng thần Nhật Bản ngày 11/3/2011, giá hàng hóa tăng
(dầu hỏa, vàng, lương thực, năng lượng…), tình hình phục hồi kinh tế tồn cầu chưa
vững chắc ở 2 quý đầu năm. Nền kinh tế Mỹ nổi bật với thất nghiệp 10%, thị trường
nhà đất dễ tổn thương, tốc độ phục hồi kinh tế chậm, có khả năng giảm phát, gói kích
thích kinh tế lần 2 (QE2) với 600 tỷ USD sẽ kết thúc tháng 11/2011. Châu Âu đang
phải đối mặt với nợ công trầm trọng từ tháng 4/2010 (110% GDP ở Hy Lạp, Bồ Đào
Nha 85,1%, Bỉ 100,9%, Tân Ban Nha 69,1%...). Lạm phát cao ở Châu Á đã khiến các
quốc gia ở châu lục này phải ưu tiên kiềm chế lạm phát trong năm 2011. Sự trỗi dậy
của Trung Quốc –nền kinh tế thứ 2 thế giới- đã khẳng định vai trò đầu tàu của tăng
trưởng kinh tế toàn cầu và khả năng vươn lên của đồng nhân dân tệ trong hệ thống
tiền tệ thế giới.
Tại Việt Nam, sau hơn 25 năm đổi mới kinh tế và 10 năm thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2001-2010, nền kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng 6,78%, cao hơn
mức 5,32% của năm 2009 và 6,31% của năm 2008 – là một trong những quốc gia có
tốc độ tăng trưởng kinh tế tốt nhất trong khu vực. Năm 2010 cũng là năm thứ 2 liên
tiếp đánh dấu nhiều thành công, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng kinh tế hoàn thành
vượt mức chỉ tiêu đặt ra, nhưng bên cạnh đó cũng để lại nhiều lo ngại vĩ mô. Bước
sang 2011, các bất ổn vĩ mô ngày càng trở nên trầm trọng, đặc biệt là LẠM PHÁT
tăng mạnh, nếu lạm phát ở mức vừa phải có thể xem là một “liều thuốc kích thích”
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhưng ở mức cao 2 con số như hiện nay lại là
vấn đề cần bàn để có những biện pháp thích hợp nhằm kiểm sốt, nếu không sẽ đe dọa
hoạt động kinh tế cả nước và an sinh xã hội.
Trong phạm vi của phần viết này, tơi xin đưa ra những chính sách mà chính phủ đã
thực hiện để kiềm chế căn bệnh nan y Lạm Phát trong 6 tháng đầu năm 2011, cũng
như đưa ra cái nhìn và đề xuất trong 6 tháng cuối năm 2011.
2.1 CÁC CHÍNH SÁCH KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ 6
THÁNG ĐẦU NĂM 2011.
2.1.1 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
Chính sách tiền tệ giữ vai trò trực tiếp và gián tiếp trong những cố gắng của chính
phủ, nhằm mở rộng hoạt động kinh tế trong những thời kì thất nghiệp và cơng suất dư
thừa, và giảm bớt hoạt động đó trong những thời kì cầu quá lớn và lạm phát.
Ngân hàng Trung Ương (NHTW) là cơ quan công quyền lớn nhất có chức năng thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia. Về cơ bản, chính sách tiền tệ tác động mạnh nhất đến
hai yếu tố cung tiền và lãi suất. Để kiểm sốt mức cung tiền và do đó điều chỉnh được
lãi suất trong nền kinh tế. Để thực hiện chính sách tiền tệ NHTW có thể sử dụng 3
9
cơng cụ chính là: hoạt động trên thị trường mở (nghiệp vụ thị trường tự do), thay đổi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tài chính, tăng hoặc giảm lãi suất chiết khấu.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lạm phát thì
tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng tính đến tháng 6/2011 là 13,29%. Chính phủ đã 2 lần
nới chỉ tiêu chỉ số giá tiêu dùng từ 7% lên 15% (vào cuối tháng 5/2011), ngay sau đó
điều chỉnh lên 17% (cuối tháng 6/2011). Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm
2011 đạt 5,6% (so với 6,16% cùng kì 2010 và 7-7,5% chỉ tiêu tăng trưởng của năm
2011). Ngày 22/4/2011 Chính Phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải
pháp chủ yếu nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã
hội. Tóm tắt 6 nhóm giải pháp chủ yếu:
-
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thận trọng.
-
Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước.
-
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử
dụng tiết kiệm năng lượng.
-
Điều chỉnh giá điện, xăng, dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo.
-
Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.
-
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Các biện pháp trên có sự tương hỗ với nhau và qua 6 tháng thực hiện cho thấy hiệu
quả thực tế của chúng đối với nền kinh tế. Mỗi biện pháp áp dụng, bên cạnh những tác
động tích cực và bao giờ cũng vậy ln có những tác động trái chiều. Do đó, cần phải
cân nhắc kỹ lưỡng các tác động tích cực và tiêu cực cũng như thời điểm áp dụng và
thời điểm dừng một cách hợp lý.
Để kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tổng phương diện thanh tốn, dư nợ tín
dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, NHTW đã:
-
Yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh tăng trưởng tín dụng dưới
20% trong cả năm 2011, tập trung vốn tín dụng cho phát triển sản xuất kinh
doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đồng thời giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ tín dụng trong lĩnh vực phi
sản xuất xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011;
-
Điều chỉnh tăng dần các mức lãi suất chính sách của NHTW và tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ cho phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô và tốc độ tăng
của chỉ số giá tiêu dùng.
10
-
Điều hành lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn phù hợp với
nhu cầu của thị trường tiền tệ.
-
Tái cấp vốn và gia hạn các khoản vay hỗ trợ vốn tín dụng nơng nghiệp, nơng
thơn đến hạn thanh tốm.
Bên cạnh đó, NHTW cịn thực hiện một loạt các biện pháp nhằm duy trì lãi suất thị
trường ở mức hợp lý và đảm bảo khả năng thanh khoản của nền kinh tế và hệ thống
ngân hàng:
-
Quy định trần lãi suất huy động VND;
-
Quy định tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất tiền gửi khơng kì hạn đối với tổ
chức, cá nhân rút tiền gửi kì hạn;
-
Quy định về thu phí trong họat động cho vay;
-
Chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước tiết kiệm chi phí, giảm lợi nhuận
để áp dụng mức trần cho vay khu vực nông nghiệp là 17%/năm, các khu vực
khác 18%/năm;
-
Hỗ trở các tổ chức tín dụng khó khăn về thanh khoản.
Đối với điều hành tỷ giá, quản lý thị trường ngoại hối và thị trường vàng, NHTW đã
triển khai nhiều giải pháp như:
-
Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 11/02/2011 và thu hẹp
biên độ ấn định tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình
quân liên ngân hàng từ ± 3% xuống ±1%.
-
Quy định lãi suất huy động tối đa bằng ngoại tệ, thu hẹp đối tượng cho vay
bằng ngoại tệ.
-
Kiểm tra, phối hợp, xử lý nghiêm các trường hợp mua- bán, kinh doanh ngoại
tệ, vàng trái pháp luật, đồng thời, trình Thủ tướng nâng mức xử phạt đối với
các hành vi vi phạm quy định về quản lý ngoại tệ và vàng.
-
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết
trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hạn chế cho vay, thanh tốn ngoại tệ nhập
khẩu hàng hóa khơng thiết yếu, khơng khuyến khích nhập khẩu và tăng cường
hoạt động mở thẻ thanh toán quốc tế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ở nước ngoài
của người dân.
-
Ban hành quy định chấm dứt huy động và cho vay bằng vàng, mở rộng đối
tượng phải bán và được mua ngoại tệ từ ngân hàng thương mại đối với Tập
đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
11
-
Tập trung xây dựng, hoàn thiện nhiều dự thảo văn bản có liên quan đến quản lý
hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ.
Theo đó, trọng tâm là phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
theo hướng chặt chẽ, thận trọng. Theo báo cáo của Chính Phủ, cuối q II/2011, đến
nay đã có những dấu hiệu lạc quan bước đầu:
-
Do phải tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 có bị ảnh hưởng, ước đạt
5,57%.
-
Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu, kế hoạch đề ra.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6/2011 theo giá cố định tăng 15,2% so với
cùng kỳ năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm 2011 tăng 14,3% so với cùng
kỳ năm 2010.
-
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục có sự phát triển ổn định. Trong 6 tháng đầu năm
2011, ước giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp và thủy sản theo giá cố định tăng
3,7% so với cùng kỳ năm 2010.
-
Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt trên 911 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6% so với
cùng kỳ năm 2010. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 6 tháng
đầu năm 2011 tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước.
-
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an
sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; tích cực
triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; tăng
cường chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ… làm tốt công
tác giải quyết việc làm. Trong 6 tháng đầu năm 2011, ước tạo việc làm cho
khoảng 722,8 nghìn người, bằng 45,2% kế hoạch năm, trong đó xuất khẩu lao
động khoảng 44 nghìn người, đạt 50,6% kế hoạch năm.
-
Các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã
cẳt giảm, điều chuyển tổng số vốn trong năm 2011 là 80.550 tỷ đồng (chưa tính
số vốn đầu tư giảm từ NSNN của năm 2011 so với thực hiện năm 2010), bằng
khoảng 9% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011.
-
Tổng phương tiện thanh toán đến 20/6/2011 ước tăng 1,25% so với tháng trước
và tăng 2,45% so với tháng 12/2010. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng
đang dần được cải thiện. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín
12
dụng đến ngày 20/6/2011 ước tăng 1,04% so với cuối tháng trước và tăng
2,88% so với cuối năm 2010.
-
Lãi suất đang có xu hướng giảm do giá cả thị trường giảm, các cân đối và tỷ giá
ngoại tệ đang đi dần vào thế ổn định. Lãi suất huy động VND bình quân hiện ở
mức 15,5%, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,7%.
-
Tỷ giá giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ đang có xu hướng giảm và ổn định
ở mức thấp hơn tỷ giá trần cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ ngoại
hối cũng đang dần được cải thiện, đã tăng được gần 3 tỷ USD.
-
Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 tăng 30,3% so với cùng kỳ
năm trước và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua
(10%). Đặc biêt, nhập siêu tháng 6/2011 ước đạt 0,4 tỷ USD, bằng 5,1% kim
ngạch xuất khẩu, đây là tỷ lệ nhập siêu thấp nhấp trong vòng 6 tháng qua.
-
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2011 tăng 1,09% so với tháng trước, giảm đáng kể
so với các tháng trước và là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm.
Đó là báo cáo trên giấy tờ của Chính Phủ, nhưng lúc nào cũng vậy, con số trên giấy và
con số thực tế rất khác nhau, và những hạn chế hay yếu kém của chính sách tiền tệ ít
khi nào được đả động nhưng nó vẫn tồn tại trước mắt như một thách thức lớn đối với
các nhà làm chính sách. Và một câu hỏi lại được đặt ra là: “CHÍNH SÁCH TIÊN TỆ,
ĐÃ ĐỦ CHẶT CHƯA…?”
Thơng tư 13 là rất cần thiết, nếu các ngân hàng thực hiện đúng các tỷ lệ thanh khoản
và hệ số rủi ro theo thơng tư thì trường hợp thiếu thanh khoản trầm trọng gần như
không thể xảy ra. Tuy nhiên, phần lớn các ngân hàng đều báo cáo là đã thực hiện đúng
nhưng thanh khoản thì vẫn thiếu một cách trầm trọng!? Điều này chứng tỏ ý chí và trí
tuệ có thể đủ, tuy nhiên nguồn lực, công nghệ giám sát và quản lý từ cả hai phía ngân
hàng thương mại và NHTW đang rất yếu. Chính điều này cũng dẫn đến việc thực thi
chính sách tiền tệ khó khăn hơn.
Chi phí vay đã lên rất cao 21%- 24% và duy trì trong 6 tháng qua của 2011, cung tiền
tăng rất thấp trong 6 tháng đầu năm (tăng 2,6% so với bình quân 9% trong 10 năm quá
khứ) – sức cầu tiêu dùng đã chậm và yếu đi thấy rõ. Tổng mức bán lẻ tăng trưởng của
Việt Nam sau khi loại đi yếu tố trượt giá đã gần về 0, thấp kỷ lục trong nhiều năm
nay. Sức cầu giảm đi thấy rõ, thế nhưng lạm phát vẫn cao. Nếu tiếp tục hay thắt chặt
tiền tệ mạnh thêm có lẽ cái giá phải trả sẽ cao hơn cái được rất nhiều.
Thêm một tồn tại quan trọng nữa là Việt Nam quá chú trọng lãi sức thực dương. Tại
Mỹ, lãi suất tiền gửi kì hạn 1 năm tính đến tháng 8/2011 khoảng 0,2-0,8% trong khi
lạm phát ở mức 3,4%. Lãi suất tiền gửi tại Trung Quốc khoảng 3% cho kì hạn 1 năm,
tuy nhiên lạm phát tại nước này đang ở mức 6,5%. Nhìn lại Việt Nam chúng ta, việc
13
duy trì lãi suất thực dương của phần lớn các ngân hàng khơng mang lại điều gì tốt đẹp
cả ngồi việc sự cạnh tranh gay gắt trong việc huy động vốn giữa các ngân hàng, đồng
thời đặt một dấu chấm hỏi to đùng trong sự khó khăn trong quản trị rủi ro thanh khoản
của các ngân hàng.
Trong tình hình lạm phát cao như hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng nên đưa một
thông điệp là nhấn mạnh thắt chặt tiền tệ, cụ thể là làm giảm lạm phát kì vọng. Đừng
đánh giá thấp ảnh hưởng của lạm phát kì vọng. Chính sách tiền tệ thắt chặt khơng có
nghĩa là lãi suất huy động hay cho vay phải ở mức cao hoặc tiếp tục lên cao mà quan
trọng ở việc quản lý chất lượng tăng trưởng tín dụng mới là điều đáng lưu ý. Đặc biệt
là tín dụng cho phát triển sản xuất và hỗ trợ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Một số chuyên gia kinh tế nên cho rằng nên tăng dự trữ bắt buộc tiền đồng, nhưng một
số lại khơng cho rằng điều đó là đúng đắn lúc này. Trong 6 tháng đầu năm 2011 tín
dụng chỉ tăng dưới 6%, rất thấp với mức trung bình trong 10 năm qua là 12,7%. Hơn
nữa tín dụng tiền đồng chỉ tăng 2,7% trong 6 tháng. Lãi suất cho vay VND đang rất
cao, việc tăng dự trữ bắt buộc VND thực sự chưa nên bàn lúc này. Tuy nhiên tăng
trưởng tín dụng bằng USD lại là vấn đề đáng nói. Bất chấp việc tăng thêm 3% dự trữ
bắt buộc của USD trong nhiều tháng qua, lãi suất cho vay USD vẫn đang ở mức 6-7%,
điều này dường như khuyến khích doanh nghiệp vay USD. Việc này lại có thể tạo áp
lực lên tỷ giá nếu quản lý khơng tốt. Có lẽ NHTW nên tiếp tục tăng mạnh dự trữ bắt
buộc của USD để kiểm sốt tín dụng USD và giảm tình trạng dolar hóa.
Chúng tơi tin rằng lãi suất huy động sẽ giảm về khoảng 14-15% và lãi suất cho vay sẽ
về dưới 20% vào cuối năm nay. Tuy nhiên mặt bằng lãi suất vẫn giữ rất cao trong năm
2012 so với thời kì trước.
2.1.2 CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH:
Thực hiện NQ 11/2011, ngành tài chính đã:
-
Điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế, chính sách chi khác hạn chế nhập khẩu,
khuyến khích xuất khẩu, kết hợp chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong
việc rà soát, điều chỉnh tạo điều kiện thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, hỗ trợ phát
triển các ngành công nghiệp phụ trợ, hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu.
-
Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngoài lương của 9 tháng cịn lại; khơng
cấp kinh phí cho những việc chưa thật sự cấp bách.
-
Rà sốt tồn bộ cơng trình, dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu
Chính Phủ đã được bố trí năm 2011, xác định cụ thể các cơng trình cần ngừng,
14
đình hỗn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các
khoản bố trí nhưng chưa cấp bách và không đúng mục tiêu.
-
Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra, rà
sốt lại đầu tư của các tập đồn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, loại bỏ
những dự án đầu tư kém hiệu quả, dàn trải; không được ứng trước vốn ngân
sách, trái phiếu Chính Phủ của năm 2012; không kéo dài thực hiện các khoản
vốn đầu tư từ ngân sách, trái phiếu Chính Phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi tồn
bộ số vốn bố trí khơng đúng quy định.
Đến cuối tháng 6/2011, ngành tài chính đã cắt giảm tổng số tiền chi thường xuyên là
3857,7 tỷ đồng, cắt giảm tổng số vốn đầu tư của các bộ, ngành, địa phương và các tập
đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước là 80550 nghìn tỷ đồng, bằng 9% tổng đầu tư xã
hội năm 2011. Giảm tỷ trọng đầu tư Nhà nước trong tổng đầu tư xã hội xuống 34%,
thực hiện an sinh xã hội thông qua tăng lương 100.000 đồng trong doanh nghiệp từ
1/5/2011, cắt 140 dự án, giảm tiến độ 133 dự án, chỉ tập trung vào dự án trọng điểm,
có hiệu quả, nhất là về xây dựng cơ bản…
Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì dường như nỗ lực của ngành tài
chính trong cuộc chiến chống lạm phát hiện nay chưa thật sự quyết liệt và quyết tâm
như ngành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân lạm phát của năm 2011 là do
việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, hiệu quả đầu tư thì
thấp, khi mà cịn tồn đọng hậu quả của chính sách kích cầu với 10% GDP vào năm
2009 (1 tỷ USD). Ngành tài chính cũng là một trong các kênh thực hiện chính sách hỗ
trợ kinh tế này thông qua đầu tư công, chi ngân sách (6 tháng đầu năm 2011, bội chi
ngân sách là cao nhất so với năm 2009 và 2010). Bên cạnh đó, cơng tác tun truyền,
phổ biến thơng tin của Bộ Tài chính đối với cơng chúng dường như chưa kịp thời và
công khai…
Chỉ số ICOR được công bố là rất cao, khoảng 8%, nhưng thực sự phân tích và nhìn kỹ
sự kém hiệu quả này là chưa đầy đủ và rõ ràng. Theo các chuyên gia thì ICOR 6 tháng
đầu năm 2011 vào khoảng 6,9 (năm 2010 con số đó là 7,38), khu vực kém hiệu quả
nhất là khu vực nhà nước (lúc nào cũng vậy) chiếm khoảng 33% GDP và FDI. Các
chính sách về giá xăng dầu, lương thực, thực phẩm, điện, ngun liệu… chưa có sự
giải trình rốt ráo, minh bạch và kịp thời trong bối cảnh lạm phát cao. Ngành tài chính
có 16 đơn vị báo chí, song việc quan tâm tới truyền thông chưa thật đầy đủ, chưa dễ
hiểu, trong khi đó, cơng luận chỉ trích nhiều về quản lý đầu tư công trong thời gian
qua là q lớn, lãng phí và kém hiệu quả. Vì vậy, dường như chính sách tài chính tỏ ra
“lép” hơn chính sách tiền tệ vào giai đoạn này, mặc dù năm 2011 được coi năm thử
lửa đối với chính sách tài chính!
15
Có thể thấy việc cắt giảm đầu tư cơng vẫn chưa được thực hiện như mong đợi, giữa
con số được cơng bố và con số thực tế vẫn có một khoảng cách khá xa. Để chia sẻ
trách nhiệm với chính sách tiền tệ trong việc chữa căn bệnh Lạm phát, thì chính sách
tài chính thắt chặt cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn và minh bạch hơn.
Nếu việc thắt chặt tài khóa được thực hiện tốt hơn sẽ giảm gánh nặng cho chính sách
tiền tệ trong việc làm giảm kỳ vọng lạm phát và từ đó giúp giảm mặt bằng lãi suất,
giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh “dễ thở” hơn, đặc biệt là doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Nếu không thực hiện được, lãi suất vẫn ở mức cao!
2.2 PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ TÀI KHÓA TRONG 6 THÁNG
CUỐI NĂM 2011 NHƯ THẾ NÀO?
Vậy sự phối hợp giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ trong thời gian tới sẽ
nên thực hiện như thế nào?
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ trong việc ổn
định vĩ mô, ưu tiên hàng đầu cho kiềm chế lạm phát. Sự phối hợp này cần thể hiện rõ
ở:
-
Phối hợp và chia sẻ thơng tin quản lý giữa Bộ Tài chính và ngân hàng nhà
nước, nhất là các thông tin về xuất nhập khẩu, di chuyển vốn FDI&FII,
quản lý giá cả….
-
Thực hiện đúng quy định của Luật ngân hàng nhà nước là tiền gửi của Kho
bạc Nhà nước phải gửi ở ngân hàng nhà nước.
-
Tăng cải tiến độ giải ngân vào các dự án trọng điểm mà Chính phủ phê
duyệt chứ khơng hẳn là dừng tất cả các cơng trình xây dựng cơ bản.
16
-
Nghiên cứu, thiết lập khung quản lý vàng, ngoại tệ, bất động sản phù hợp
với đặc thù của Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, không cần cứu thị
trường bất động sản vì giá cả của nó đã bị đẩy lên q mạnh trong thời gian
qua.
-
Trình Chính phủ 1 Nghị định về phối hợp thông tin và thanh tra , điều tra
trong lĩnh vực chứng khốn giữa Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khốn Nhà
nước nhằm góp phần thực hiện an ninh tài chính- tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ cần minh bạch hơn, có thể theo dõi được việc điều chỉnh thu chi
ngân sách nhà nước hay đầu tư của chính phủ. Kiên quyết cắt giảm đầu tư vào các dự
án, các cơng trình hiệu quả thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư cơng. Bộ Tài chính cần có
một tổ chức đánh giá tồn bộ tình hình và hiệu quả của các biện pháp trong lĩnh vực
tài chính từ nữa đầu 6 tháng đầu năm 2011 và tham vấn cho Bộ trong nữa cuối năm.
Nhiệm vụ này có thể giao cho Viện Chiến Lược và chỉnh sách tài chính làm đầu mối.
Bộ Tài chính cần chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền, phát ngôn của Bộ trước
cơng luận, giải trình các biện pháp về quản lý giá các mặt hàng chủ đạo ( ví dụ tiến
trình tăng giá điện, xăng dầu hoặc lương thực thực phẩm…), về IPO các doanh nghiệp
nhà nước lớn trong bối cảnh thị trường chứng khoán suy giảm nghiêm trọng , hoặc là
cải cách tiền lương, tình hình nợ cơng của Việt Nam…Nhiều thuật ngữ đang được
nhắc đến nhiều trên công luận như “ bão giá”, xếp chứng khoán vào lĩnh vực phi sản
xuất…chưa phải là đúng và hợp lý. Ý kiến của các cơ quan ngơn luận chính thức ở
đây là rất quan trọng, tránh để người dân hiểu lầm, hiểu sai vấn đề.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chủ yếu là từ khu vực doanh nghiệp nhà nước và
FDI, trong khi đó, đây lại là 2 khu vực kém hiệu quả nhất. Vậy, vấn đề đổi mới cơ chế
đối với 2 khu vực này sắp tới như thế nào, cải cách triệt để doanh nghiệp nhà nước tập
trung vào đâu, quyết sách đối với khu vực FDI giai đoạn tới cần có sự chuyển biến sau
ít nhất 10 năm kêu gọi vốn FDI vào Việt Nam, so sánh sự ưu đãi và hiệu quả của nó,
chống chuyển giá của doanh nghiệp FDI. Nhiều vấn đề tài chính lớn của đất nước cần
có sự minh bạch kịp thời để người dân thơng hiểu và chia sẻ gánh nặng cùng Chính
phủ.
Về phía ngân hàng nhà nước, cần giảm dần các biện pháp hành chính trong điều hành
thị trường tiền tệ - tín dụng, xem xét lại các chỉ tiêu quản lý tín dụng trong các Thơng
tư đã ban hành trong thời gian qua. Nếu duy trì quá lâu các biện pháp này thì thị
trường sẽ bị ảnh hưởng, dịng vốn bị phân bổ không hợp lý. Mặt khác, kiềm chế lạm
phát khơng có nghĩa là hồn tồn cắt đứt cung tiền, mà ngân hàng nhà nước sử dụng
linh hoạt và chủ động các cơng cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ để cung tiền và thu
tiền về ngân hàng nhà nước, nhất là nghiệp vụ OMO. Điều này cũng tương tự như
17
việc ngân hàng nhà nước đã mua vào khoảng 3 tỷ USD và sử dụng các công cụ khác
để hút tiền về, không làm ảnh hưởng lớn đến tổng thanh tốn trong lưu thơng. Nếu
kiểm sốt cung tiền q chặt và lâu thì nền kinh tế sẽ suy giảm mạnh, trong khi
đó,chúng ta vẫn cịn chỉ tiêu trong lĩnh vực này.
Đã lâu rồi chúng ta lại phải sống trong lạm phát cao, mặc dù Chính phủ đã nâng trần
lạm phát cả năm 2011 tới 17%. Với nhiều bất ổn vĩ mơ ở trong và ngồi nước, các
biện pháp kiềm chế của Chính phủ chưa phải là có hiệu lực ngay.
Bên cạnh các biện pháp mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ và pháp lý, vấn đề đổi mới về
thể chế có ý nghĩa lâu dài và chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền có ý nghĩa bổ sung.
2.3 CÁC GIẢI PHÁP PHỐI HỢP ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TẠI VIỆT
NAM.
Một là, nhanh chóng xây dựng tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ và vàng:
Cơ quan chức năng cần nhanh chóng xây dựng các cơ chế, chính sách tăng cường
quản lý ngoại tệ (dolar) và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, bn bán trái
trái phép, cần có lộ trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích hợp
pháp của người có tài sản này; quan tâm đúng mức nhu cầu chính đáng của doanh
nghiệp và người dân, tránh tạo ra các “cú sốc” về tâm lý gây bất ổn xã hội; khuyến
khích, khơng gây trở ngại cho việc thu hút các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài về. Tổ
chức lại thị trường kinh doanh vàng tránh việc thao túng giá mua bán vàng của các
doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường như qui định khung biên độ chênh lệch
giữa giá mua và giá bán vàng, đảm bảo lợi ích của người mua vàng, tránh việc thu lợi
lớn về chênh lệch giá vàng của doanh nghiệp kinh doanh vàng, giảm giá cả vàng theo
sát giá vàng thế giới.
Hai là, minh bạch về sự lỗ, lãi của ngành điện, xăng dầu, xóa bỏ sự bù lỗ cho các
ngành này và có cơ chế kiểm soát được giá cả của các mặt hàng xăng dầu, điện:
Các doanh nghiệp xăng dầu, điện lực cũng phải tuân theo hoạt động của cơ chế thị
trường. Thời gian qua có khá nhiều tin liên quan đến sự lỗ, lãi của các doanh nghiệp
này trong khi đó nhà nước khơng kiểm soát được đúng giá cả thật sự của hai mặt hàng
này. Trong thời gian tới phải xóa bỏ bù lỗ xăng dầu vì các doanh nghiệp phải theo cơ
chế thị trường. Tuy nhiên, vì là mặt hàng liên quan đến đầu vào của nhiều doanh
nghiệp nhà nước cần có cơ chế thông tin minh bạch về giá cả thế giới, có qui định
cơng thức tính giá cả mặt hàng để kiểm soát giá.
18
Ba là, cần qui định trần của lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại
(NHTM) để giảm lãi suất cho vay:
Quy định trần lãi suất cho vay theo lộ trình giảm dần đáp ứng được sự chịu đựng của
các doanh nghiệp, cần từng bước và có lộ trình không gây sốc cho các NHTM. Song
nhất thiết phải qui định để các NHTM phải giảm lãi suất. Việc lãi suất cho vay của
NHTM cao khơng chỉ khó khăn với các doanh nghiệp. mà nguy cơ rủi ro đối với các
NHTM cũng rất lớn do mạo hiểm khi cho vay.
Bốn là, tăng cường kiểm soát hoạt động thị trường liên ngân hàng:
Nhiều chuyên gia ngân hàng đã kiến nghị Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần quản lí
chặt thị trường liên ngân hàng. Lãnh đạo nhiều NHTMCP nhỏ cũng đề nghị, NHNN
cần mở rộng cửa hơn để các NHTM nhỏ tham gia vào thị trường mở. NHNN cần giao
Vụ Chính sách Tiền tệ theo dõi và quản lý hoạt động của thị trường liên ngân hàng
nhằm hướng tới ban hành quy định về vay vốn giữa các tín dụng trên thị trường này.
Trong đó, quy định rõ về thời hạn vay vốn, mục đích sử dụng tiền vay mà mục đính
chính là bù đắp thiếu hụt tạm thời về vốn ngắn hạn, lãi suất cho vay... Tạo điều kiện
cho các NHTM thiếu vốn tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất thấp
Năm là, xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi: nhằm qui định trách nhiệm hỗ trợ thanh
khoản cho các NHTM đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Sáu là, quản lí tốt việc chấp hành dự trữ bắt buộc của các NHTM và khi các NHTM
gặp khó khăn về thanh khoản NHNN cần sử dụng số tiền này để hỗ trợ thanh khoản
cho các NHTM.
Bảy là, đảm bảo ổn định, an tồn của hệ thống tài chính- ngân hàng:
Chính phủ cần giao NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng; tăng cường cơng tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng
hoạt động của từng ngân hàng thương mại tổ chức tín dụngvà của tồn bộ hệ thống
ngân hàng, các tổ chức tín dụng để có phương án xử lý kịp thời khi cấn thiết.
Tám là, cần có giải pháp cụ thể cho việc ổn định, phát triển nền kinh tế và chiếm
lĩnh thị trường nội địa nhằm phát triển kinh tế Việt Nam: để giảm tỷ lệ lạm phát đi
song với các giải pháp trên cần thiết phải ổn định và phát triển kinh tế. Sản xuất nhiều
sản phẩm đáp ứng nhu cầu và phải chiếm lĩnh được thị trường nội địa. Muốn vậy,”
cần lưu ý các giải pháp cụ thể sau”:
-
Phải sản xuất được hàng hóa có mẫu mã đẹp, phù hợp người tiêu dùng: từ
trước đến nay, phần lớn hàng hoán sản xuất trong nước được biết đến với
mẫu mã khá khiêm tốn. Điều này cũng ành hưởng đến việc xây dựng
thương hiệu mang tầm quốc gia và vươn tới khu vực, quốc tế. Mẫu mã đẹp,
19
phù hợp nhu cầu người tiêu dùng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng hàng
hóa và có khi giá trị gia tăng rất cao.
-
Chất lượng và tính ổn định của chất lượng hàng hóa: chất lượng và tính ổn
định của hàng hóa sẽ ln thu hút được khách hàng đã qua một lần sử dung
sản phẩm. Một số doanh nghiệp hiện nay đã có chiến lược cụ thể nhắm tới
phân khúc trung và cao cấp. Tuy nhiên do quy trình sản xuất và hệ thống
quản lí chưa đồng bộ nên đã để xảy ra lỗi sản phẩm với xác suất cao.
-
Giá cả hàng hóa phải cạnh tranh được ngay cả trên thị trường nội địa: hiện
nay có một thực tế là một số sản phẩm nội địa được tiêu thụ tốt đã được
định giá cao trên mức người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Chính vì lẽ
đó, nên một số sản phẩm sau khi tạo được tiếng vang trong thị trường đã bị
thu hẹp thị phần và chìm vào quên lãng.
-
Đa dang hóa chủng loại sản phẩm: nhiều doanh nghiệp vẫn con chưa có
chiến lược phát triển sản phẩm cụ thể đối với các vùng ngoại thành, nông
thôn, vùng sâu vùng xa. Các thị trường này thời gian qua đã bị bỏ quên, hầu
như sử dụng hàng hóa rẻ, chất lượng kém của Trung Quốc.
-
Xây dựng liên kết giữa mạng lưới phân phối bán lẻ: các nhà sản xuất hàng
hóa nội địa. phải tăng cường cơng tác tun truyền trong xã hội, xúc tiến
phát triển liên kết- chắp mối kinh doanh. Trong nhiệm vụ này, chúng ta phải
kể đến tầm quan trọng của hạ tầng phân phối- bán lẻ trong nước mà cụ thể
hơn la hạ tầng về giao thông, kho bãi và hậu cần… Nhà nước trong các thời
kỳ cần xác định những mặt hàng nào là thiết yếu có thể làm tăng tỉ lệ lạm
phát phải quản lí giá cả và cả kênh phân phối. kênh phân phối rất nhiều thời
điểm làm tăng giá cả hàng hóa rất cao do sự đầu cơ, lũng đoại thị trường
của một số người. Giải quyết được kênh phân phối thuận tiện, đưa nhanh
được hàng hóa thơng suốt giá cả hàng hóa sẽ giảm thấp.
-
Chiếm lĩnh và phát triển thị trường nội địa cần được xem xét: Dân số Việt
Nam hiện nay đã gần trên 100 triệu người. Thời gian qua có rất nhiều doanh
nghiệp giữ vững được thị trường nội địa và phát triển tốt hoạt động kinh
doanh của mình. Trong khi đó, thị trường các nước do khủng hoảng kinh tế,
gặp nhiều khó khăn thì thị trường nội địa là nơi các doanh nghiệp dễ xâm
nhập nhất vì quen với văn hóa, hiểu biết sở thích của người tiêu dùng. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần hướng đến tiêu chí, khái niệm” Hàng Việt Nam
chất lượng quốc tế” trong quá trình hoạt động.
Trên đây là một số ý kiến về kiểm soát lạm phát gốp phần “hạ nhiệt” tỷ lệ lạm phát
đang ở mức cao góp phần dần từng bước làm cho nền kinh tế phát triển ổn định bền
vững.
20