Chiến thuật chia nhỏ cổ phiếu của công ty tăng trưởng mạnh
1. Nguyên nhân và kết quả.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong thời gian qua được thế
giới và những chuyên gia đánh giá là tăng trưởng nóng. Theo ông Jack
Lin Giám đốc quản lý vùng châu Á - Franklin Templeton Investments,
triển vọng TTCK Việt Nam năm 2007 là rất lạc quan.
Mặc dù vậy, chỉ số thị trường cho thấy là nóng. Tuy nhiên, ông Jack Lin cho rằng nếu quản lý một
cách hợp lý thì đây sẽ là cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh hơn. Điều cần thiết bây
giờ là phải có các có biện pháp quản lý phù hợp các nguồn vốn vào thị trường. Về mặt dài hạn,
Việt Nam là môi trường đầu tư đầy kỳ vọng. Ông John Shrimpton - Giám đốc Dragon Capital cho
rằng, năm 2007 là một năm nhiều thách thức với TTCK Việt Nam. Trong điều kiện ấy, cùng với
số lượng doanh nghiệp niêm yết ngày càng lớn, thị trường tài chính cũng ngày càng đa dạng
hơn cả về thành viên tham gia, môi trường và kĩ thuật-công cụ được áp dụng. Bài viết này
hướng đến tìm hiểu một kĩ thuật đang được nhiều doanh nghiệp áp dụng là chia tách cổ phiếu.
Chia nhỏ cổ phiếu là gì? Đó là một hành động của một công ty làm tăng số lượng cổ phiếu hiện
đang lưu hành (outstanding shares). Tuy nhiên mức vốn hóa của cổ phiếu (stock's market
capitalization) vẫn không thay đổi. Các tỉ số phổ biến của việc phân chia là 2:1, 3:1, 3:2. Giả sử
công ty A phát hành tổng cộng 1000 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu có trị giá 10$. Công ty A quyết định
chia cổ phiếu theo tỉ lệ 2:1 tức là 1 cổ phiếu sẽ phân chia thành 2 cổ phiếu. Giá trị của 2 cổ phiếu
bây giờ ngay bằng với một cổ phiếu trước khi phân chia.
Như vậy về cơ bản, tổng giá trị cổ phiếu trên thị trường cũng như của bạn là không thay đổi. Vậy
thì tại sao các công ty lại phân chia cổ phiếu, tại sao những người lãnh đạo của các công ty lại
coi đây là công cụ marketing mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất ?
Nguyên nhân 1: Theo tâm lý của nhà đầu tư, khi phân chia cổ phiếu, công ty có thể làm cho
người giữ cổ phiếu cảm thấy giá trị của cổ phiếu họ giữ tăng lên mà chỉ phải bỏ ra một khoản chi
phí nhỏ.
Nguyên nhân 2: Công ty quyết định phân chia cổ phiếu, vì giá cổ phiếu của họ trên thị trường đã
đạt tới mức quá cao và vượt xa giá cổ phiếu của những công ty tương tự. Việc phân chia cổ
phiếu là để thu hút những thêm các nhà đầu tư nhỏ và trung bình. Nếu như trước khi phân chia,
bạn có thể cảm thấy 10$/cổ phiếu là khá đắt, đó là nguyên nhân mà bạn mua không thật nhiều.
Đến bây giờ giá cổ phiếu chỉ còn 5$/cổ phiếu, bạn sẽ sẵn sàng hơn trong việc mua cổ phiếu của
A. Về phía công ty hành động này có tác dụng cắt nhỏ "miếng thịt lớn" ra để thị trường có thể
"tiêu hoá" một cách nhanh và dễ dàng.
Nguyên nhân 3: Phân chia cổ phiếu là tăng sự ổn định về mặt giá cả cho cổ phiếu (increase
stocks' liquidity). Nói chung, những nhà đầu tư lớn như các công ty, ngân hàng tránh giao dịch cố
phiếu của công ty mà tổng số cổ phiếu lưu động có số lượng thấp. Tôi xin lấy ví dụ sau để làm rõ
hơn. Giả sử công ty A có tổng giá trị cổ phiếu lưu dộng là 10.000$. Có hai trường hợp, một là
công ty chỉ phát hành 2 cổ phiếu, hai là công ty phát hành 1000 cổ phiếu. Để có thể so sánh
được sự ảnh hưởng của sự thay đổi của giá 1 cố phiếu có ảnh hưởng như thế nào đến giá cả
của những cổ phiếu còn lại, tôi xin lấy giả sử nhà đầu tư X NĐT X) giữ 1 cổ phiếu trong cả hai
trường hợp.
Trong trường hợp này công ty có 2 cổ đông, mỗi người giữ 50% tổng số cổ phiếu. Giả sử như
anh NĐT X cần vốn khẩn cấp, và sẽ quyết định bán cổ phiếu anh ta giữ với 50% giá gốc tức là
2.500$/cổ phiếu. Như vậy giá trị cổ phiếu của anh ta chỉ có 2.500$ một cổ phiếu, cổ phiếu bạn
đang giữ cũng sẽ bị xuống giá một cách đáng kể, sẽ rất khó để bạn bán được với giá 5.000$,
trên thực tế bạn có lẽ sẽ chỉ bán được hơn 2.500$ một chút nếu bạn thực sự giỏi. Nếu bạn
không muốn bán, giữ cổ phiếu lại thì cũng có nhiều khả năng là giá cổ phiếu của công ty sẽ bị
giảm dần theo thời gian vì người đầu tư sẽ không quan tâm như trước nữa (vì nhìn từ phía
ngoài, giá trị của công ty bị giảm đáng kể sau hành động bán cổ phiếu của NĐT X). Như vậy là
chỉ với sự thay đổi của một cổ phiếu, giá trị của cổ phiếu còn lại cũng sẽ bị tác động rất mạnh.
Giả sử cùng một tình huống như trên, NĐT X muốn bán toàn bộ cổ phiếu của mình với giá 50%
giá gốc tức là 5$ /cổ phiếu. Tuy nhiên anh ta chỉ giữ 1/1000 toàn bộ số cổ phiếu lưu động trên thị
trường, những người muốn mua cổ phiếu của công ty A phải mua từ bạn hoặc NĐT Y, NĐT Z.
Họ đơn thuần là không thể mua hết cổ phiếu của một người nào đó với giá thấp được, và như
vậy họ không thể ép giá bất cứ ai. Như vậy, giá trị của các cố phiếu còn lại sẽ được bảo vệ cho
dù nếu có sự thay đổi giá của một cổ phiếu nào đấy. Khi có càng nhiều cổ phiếu trên thị trường,
sẽ có càng ít khả năng một cá nhân nào đó giữ một số lượng đủ lớn để ảnh hưởng lớn đến giá
cả của toàn bộ cổ phiếu của công ty phát hành. Hành động này cũng tương tự như đưa ra chính
sách chống độc quyền. Như trường hợp 1, chỉ cần có 1 cổ phiếu là bạn đã nắm giữ 50% cố
phiếu toàn công ty trong tay, trong trường hợp 2 bạn phải tìm mua 500 cổ phiếu để có thể nắm
được 50% tổng số cổ phiếu. Đó chính là nguyên nhân mà công ty muốn tăng số lượng cổ phiếu
lưu động trên thị trường bằng cách phân chia cổ phiếu.
2. Các giai đoạn của giá cả.
Như vậy, chúng ta đã bàn đến các nguyên nhân mà một công ty phân chia cổ phiếu của mình.
Giá của cổ phiếu (stock's price) cũng bị ảnh hưởng bởi việc phân chia cổ. Sau khi phân chia giá
của cổ phiếu sẽ giảm ngay tức khắc khi số lượng cổ phiếu tăng lên theo tỷ lệ phân chia. Như vậy
các công ty sau một quá trình phát triển tốt, hầu hết các công ty đều phân chia cổ phiếu. Khi giá
cổ phiếu giảm, nhiều nhà đầu tư nhỏ nghỉ rằng mình đã có đủ khả năng và quyết định mua cổ
phiếu này.Cùng với việc phân chia cổ phiếu thường chứng tỏ quá trình phát triền mạnh của công
ty, nhu cầu về cổ phiếu sẽ tăng dẫn đến giá trị cổ phiếu của công ty cũng tăng lên. Đây là kết quả
quá trình đấu tranh giữa lợi nhuận trước mắt và lợi nhuận lâu dài. Nếu có một người đang giữ cổ
phiếu sẽ lên giá, bạn muốn mua của họ thì bạn phải nâng giá mua đến một điểm nào đó để họ
chọn cái lợi trước mắt và đưa cho bạn cái lợi lâu dài.
Một câu hỏi mà hầu hết nhà đầu tư đều quan tâm là sự thay đổi giá cả của cổ phiếu khi bị phân
chia. Như đã nó, bản thân doanh nghiệp không có gì thay đổi, cả về vận hành kinh doanh hay
vốn điều lệ, cái thay đổi duy nhất là số lượng cổ phiếu, từ đó tác động đến giá, như thế xu thế và
tâm lý của nhà đầu tư sẽ tác động nhiều đến giá. Về mặt ngắn hạn, chính xu hướng của các nhà
đầu tư mới là yếu tố quan trọng nhất quyết định giá cả của cổ phiếu. Như vậy là dựa vào phân
tích này bạn có thể tạo ra lợi nhuận mà không cần biết là công ty có thực sự phát triển hay
không.
Quá trình thay đổi giá cả của cổ phiếu khi phân chia có thể chia ra làm 6 giai đoạn chính dựa vào
hai cột mốc thời gian: thời điểm công ty tuyên bố phân chia cổ phiếu và khi việc phân chia diễn
ra.
• Giai đoạn 1: Trước khi tuyên bố phân chia.
Giá cổ phiếu có xu hướng tăng mạnh hơn bình thường trong vòng 10 ngày trước khi sự phân
chia được chính thức tuyên bố. Trước khi BMC tuyên bố phân chia cổ phiếu giá cổ phiếu phiếu
BMC ( 14/04/2007 :666.0; 15/05 : 699.0; 16/05: 733.0; 17/05: 769.0 và đạt 847.0 vào ngày
21/05/2007). Đây là kết quả của sự mua vào liên tục của những nhà đầu tư nghiên cứu và nắm
bắt được trước thời điểm cổ phiếu sẽ phân chia. Các cổ đông chưa biết nên giá bán ra chỉ nhỉnh
lên một chút so với bình thường. Chìa khoá để làm ra lợi nhuận trong giai đoạn này là phải nắm
bắt được cổ phiếu công ty nào sẽ phân chia và khi nào.
• Giai đoạn 2: Tuyên bố phân chia.
Giá cổ phiếu sẽ nhảy vọt vào thời điểm kế hoạch phân chia được công bố. Có thể giá cổ phiếu
sẽ còn tiếp tục tăng trong vòng vài ngày kế tiếp. Đây là kết quả của sự mua vào của những nhà
đầu tư không biết trước cổ phiếu sẽ phân chia cho đến lúc có sự thông báo chính thức của công
ty. Tuy nhiên vì là thông báo chính thức nên các cổ đông cũng ngay lập tức nhận ra lợi nhuận
sắp tới, do vậy giá bán ra sẽ bị đẩy lên mạnh. Những người đầu tư ngắn hạn mua trong giai
đoạn này có xu hướng giữ cổ phiếu trong 2-3 ngày, khi cổ phiếu có dấu hiệu đi xuống sẽ bán
ngay tức khắc. Những nhà đầu tư mua trong giai đoạn trước cũng quan sát rất kĩ sự thay đổi về
giá cả của cố phiếu xem đã đến đỉnh hay chưa để khoá lợi nhuận chắc ăn lại đúng lúc.
• Giai đoạn 3: Tình trạng ngủ giá cổ phiếu
Vài ngày sau khi tuyên bố chính thức, giá cổ phiếu dừng tăng và chuyển sang giai đoạn ngủ.
Người mua và người bán đi qua trạng thái bộc phát và có thời gian để đưa giá cổ phiếu xuống
dần và dừng ở mức cân bằng. Tuy nhiên một số cổ phiếu đặc biệt mạnh thì giai đoạn này có thể
rất ngắn, thậm chí không có và vào ngay giai đoạn kế tiếp (như cổ phiếu SJS và BMC không có
trải qua gian đoạn này). Độ dài của giai đoạn này cũng phụ thuộc vào khoảng thời gian giữa thời
điểm tuyên bố và khi tiến hành tách cổ phiếu. Nếu thời gian này càng ngắn thì giai đoạn này cũng
càng ngắn.
• Giai đoạn 4: Trước khi phân chia
Khi cổ phiếu đến gần ngày phân chia, nó có xu hướng ra khỏi trạng thái ngủ và tiếp tục tăng giá.
Việc này có thể xảy ra khoảng 5 ngày trước khi sự phân chia tiến hành. Tại thời điểm này, những
nhà đầu tư đến muộn bắt đầu mua vào. Khoảng thời gian 5 ngày là hoàn toàn ước lượng đối với
thị trường chứng khoán Việt Nam, thời gian thực tế phụ thuộc vào tình trạng của toàn bộ thị
trường và sự phát triển của từng lĩnh vực khác nhau.
• Giai đoạn 5: phân chia cổ phiếu
Bình thường giá cổ phiếu sẽ tăng nhang chóng trước khi cổ phiếu phân chia. Sau khi phân chia,
những nhà đầu tư mới bắt đầu mua vào với giá cổ phiếu ngay sau khi đã phân chia. Việc này
đẩy giá cổ phiếu còn lên cao nữa (Ví dụ như ngay trước khi phân chia giá cổ phiếu là 10$/cổ
phiếu, sau khi phân chia 2:1 thành 5$/cổ phiếu, giá này bị đẩy lên tiếp thành $5.5$ ).
• Giai đoạn 6: Sau khi phân chia cổ phiếu
Giá cổ phiếu thời điểm này sẽ giảm xuống vì ít người mua hơn và những nhà đầu tư trong các
giai đoạn trước khi phân chia đã bắt đầu bán ra ngay sau khi phân chia.
Tương tự như giai đoạn ngủ cổ phiếu, giá cổ phiếu dần dần trở về trạng thái cân bằng. Với
những cổ phiếu thực sự mạnh, giai đoạn về cân bằng này sẽ đi qua nhanh chóng và giá cổ phiếu
tiếp tục tăng lên.
Ở trên là 6 giai đoạn lớn mà cổ phiếu thường trải qua. Tuy nhiên sự thay đổi có thể khác với trên
vì những nguyên nhân khách quan lớn (như thể chế chính phủ, thay đổi lãi suất, thuế suất…). 6
giai đoạn trên cũng có thể không đúng nếu một công ty thực sự không mạnh để lộ ra là mình yếu
kém trong một giai đoạn nào đấy. Nói chung thì sau khi nắm được 6 giai đoạn trên, bạn có thể
nhận thấy có nhiều cách để thu hoạch được lợi nhuận. Những phân tích trên không hoàn toàn
đúng tuyệt đối, xác suất đúng cao trong một thị trường chứng khoán phát triển (NYSE, Nasdaq,
…) Nếu bạn là nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn này thì những
phân tích trên chỉ mang tính tham khảo.
===========================
Bài Saga hợp tác với báo Đầu tư Chứng khoán số 49 (417), ngày 18/6/2007
Admin