Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Môn kế hoạch hóa - đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2006 -2008.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.72 KB, 25 trang )

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế GĐ 2006-2008
Phần I: Đánh giá chung
Tổng quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2006-2008, cho
thấy nền kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện giá
cả tăng cao, quy mô tổng sản phẩm trong nước khơng ngừng tăng lên.
Tớc đợ tăng GDP bình qn trong ba năm 2006-2008 là 7,8%, cao
hơn mức 7,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong đó năm 2006, tăng
trưởng GDP của cả nước là 8,23%; năm 2007 là 8,48%; năm 2008, GDP
chỉ tăng 6,7%.

Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế GĐ 2006-2008.
- Năm 2006: Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh tăng 8,23%
(kế hoạch là 8%). Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
tăng 3,4 (kế hoạch là 3,8%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%
(kế hoạch là 10,2%); ngành dịch vụ tăng 8,29% (kế hoạch là 8%); Khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm
2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại


vì ảnh hưởng của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp,
xây dựng tăng trưởng thấp hơn mức tăng của năm ngối do sản xuất cơng
nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn
của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga cũng giảm so với
mức tăng trưởng năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng trưởng
chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được
mức độ tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thơng, du lịch;
khách sạn, nhà hàng; tài chính ngân hàng, bảo hiểm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp
và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm
2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên


38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn
20,40%.
- Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng
8,48%, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Ba nhóm ngành chính (nơng, lâm,
ngư nghiệp; cơng nghiệp-xây dựng và dịch vụ) có tốc độ tăng trưởng khá
(tương ứng là 3,5%, 10,6% và 8,7%), đều đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch
đề ra (chỉ tiêu kế hoạch tương ứng là 3,5-3,8%; 10,5-10,7% và 8-8,5%). Cơ
cấu giữa các nhóm ngành tiếp tục có chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của khu
vực nơng nghiệp trong GDP giảm từ 20,4% xuống cịn 20%; của công
nghiệp và xây dựng tăng từ 41,5% lên 41,8%. Đây cũng là lần đầu tiên tốc
độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ (8,7%) cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của cả nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế 2007 được đánh giá là toàn
diện do tăng trưởng đồng đều ở cả ba khâu cơ bản: đầu vào, sản xuất và đầu
ra.
- Năm 2008 Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 6,5 - 7%;
trong đó, nơng nghiệp tăng 3,5 - 3,9%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,3 7,5%, dịch vụ tăng 7,2 - 7,8%; GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000


USD. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá đầu vào tăng
cao nhưng nông nghiệp vẫn đạt được những kết quả nổi trội: giá trị sản xuất
ước tăng 5,1% (năm 2007 tăng 4,6%); sản lượng lúa tăng khoảng 2,6 triệu
tấn, là mức tăng cao nhất từ trước đến nay, thuỷ sản tăng gần 9,0%. Giá trị
sản xuất công nghiệp ước tăng 16,2% (năm 2007 tăng 17,1%). Nhiều ngành
dịch vụ phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng
31% (năm 2007 tăng 22,7%). Tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong
GDP là 21,7%, trong khi mục tiêu năm 2010 đạt 15-16%. Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng là 40%, trong khi mục tiêu 2010 là 43-44%. Tỷ trọng
dịch vụ là 38,3% (trong khi mục tiêu 2010 là 40-41%).
Bảng1: Tổng hợp cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2006-2008
Đơn vị : %

Năm
Nông-lâm
nghiệp
Công

2005
ngư 21,02

2006
20,40

2007
20

2008
21,7

KH 2010
15-16

nghiệp-xây 40,97

41,52

41,8

40

43-44


38,01
100

38,08
100

38,2
100

38,3
100

40-41

dựng
Dịch vụ
Tổng

Hinh: Tổng hợp cơ cấu ngành KTế giai đoạn 06-10
%
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%

0%

38.01

38.08

38.2

38.3

40.41
DV
CN-XD
N-L-NN

40.97

41.52

41.8

40

43.44

21.02

20.4

20


21.7

16.15

2005

2006

2007

2008

2010

Năm


Qua biểu đồ trên có thể thấy ba năm qua tuy cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm song về cơ bản cơ cấu kinh tế của nước ta đã được bố trí hợp
lý và phát triển theo hướng cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong từng
ngành nghề kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ
cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm chẳng hạn như trong nhóm nơng, lâm, ngư
nghiệp thì tỷ trọng thuỷ sản đang tăng lên, trong công nghiệp, tỷ trọng của
ngành chế biến cơng nghiệp đang có chiều hướng phát triển, trong dịch vụ,
tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như : tài chính, ngân hàng, du
lịch, bảo hiểm ngày càng phát triển nhanh.
Măc dầu có những đóng góp to lớn và có những bước phát triển mới như
trên nhưng nhìn tổng thể và khách quan thì 3 năm qua sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vẫn q chậm, thậm chí có một số lĩnh vực vẫn cịn trong tình

trạng lạc hậu so với sự phát triển. Sự chậm chễ này biểu hiện ở những bằng
chứng sau: Chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế
công nghiệp là một trong những yếu điểm nhất của chúng ta hiện nay. Mơ
hình tăng trưởng chủ yếu của Việt Nam là dựa vào những lợi thế so sánh
tĩnh đó là nguồn tài ngun thơ và lao động rẻ chưa có kỹ năng. Sản phẩm
cơng nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp , rất ít sản phảm có hàm lượng
trí tuệ cao. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nơng nghiệp và nơng thơn cịn
rất lúng túng. Đến nay sản xuất nông nghiệp vẫn luôn ln bị động trước
những địi hỏi của thị trường, nhiều địa phương vẫn không xác định được
định hướng nuôi trồng cây gì, con gì … Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn
thấp (năm 2006 là 38,01% thì đến 2008 chỉ là 38,3 %). Quá trình phát triển
khu vực này cũng đang bộc lộ khá nhiều thách thức như: phát triển các khu
du dịch, sân gôn, khu công nghiệp … tuỳ tiện làm giảm diện tích cấy trồng
của nơng nghiệp, ơ nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới đời sống của nông
dân.

Phần II: Đánh giá quá trình thực hiện KH chuyển dịch trong


nội bộ các ngành GĐ 2006-2008 và dự báo thực hiện trong 2
năm còn lại của KH 2006-2010
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP của từng ngành GĐ 2006-2010

2005

2006

2007

2008

(ước đạt)

KH
2006-20

Tốc độ tăng trưởng GDP

8,43

8,20

8,48

6,5–7,0

10
7,5-8,0

- Nông–lâm–thủy sản

4,00

3,40

3,41

3,5-3,9

3,0-3,2


- Công nghiệp–xây dựng

10,65

10,37

10,60 7,3-7,5

9,5-10,2

- Dịch vụ

8,48

8,29

8,68

7,7-8,2

7,2-7,8

Qua bảng trên ta thấy trong 2 năm 2006, 2007 tốc độ gia tăng GDP
của toàn nền kinh tế và của các ngành đều cao và vượt KH ( tốc độ tăng
GDP ngành công nghiệp-xây dựng TB là 10,5% trong khi KH chỉ là
9,5-10,2%; của ngành dịch vụ là 8,5% KH là 7,7-8,2%). Riêng năm 2008
tốc độ tăng chậm lại đã kéo thụt lùi thành tích của 2 năm trước. Đặc điểm
của năm 2008 là ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới lẫn khó khăn
về lạm phát trong nước, tuy vậy, nơng nghiệp ít bị ảnh hưởng nhất. Thêm
một đặc điểm nữa là nông nghiệp năm 2008 lại thuận lợi. Đầu năm 2008

nhiều người nghĩ là ngành sản xuất lương thực sẽ gặp khó khăn, nhưng sau
đợt rét đậm, rét hại, sâu bệnh lại chết nhiều, diện tích lúa hè thu tăng gần
gấp đơi, khu vực sản xuất nông nghiệp nổi trội trong cơ cấu kinh tế. Năm
2008, cơ cấu nông nghiệp được đẩy lên nhưng sang năm và sang năm nữa
thì tỉ trọng sẽ giảm đi.


Sau đây là đánh giá cụ thể quá trình thực hiện KH chuyển dịch cơ
cấu trong nội bộ các ngành GĐ 2006-2008.
I. Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
A. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trong kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006-2010.
- Tăng cường đầu tư chiều sâu, tạo sự chuyển biến về chất trong sản
xuất nông nghiệp và phát triển toàn diện kinh tế nông thôn. Chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa, nâng cao trình độ nghiên cứu, tăng hiệu quả và nâng cao trình độ công
nghệ thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất. Phát
triển đa dạng các ngành nghề, nhất là các ngành có giá trị gia tăng và giá trị
xuất khẩu cao.
- Về lương thực, tăng lương thực ở mức hợp lý để đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, coi trọng chất lượng, tăng sản lượng gạo chất lượng
cao, không tăng diện tích lúa, chuyển một số vùng trồng lúa năng suất thấp
sang nuôi trồng cây con khác có hiệu quả cao hơn. Phát triển đa dạng các
sản phẩm rau quả đặc trưng của Việt Nam, nhất là các loại quả đặc sản. Đối
với cây công nghiệp: Tăng năng suất, chất lượng, chế biến các sản phẩm có
giá trị cao và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Phát triển vùng sản xuất
chuyên canh lớn gắn với công nghiệp chế biến, từng bước công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư và áp dụng tiến bộ kỹ thuật
mới, các giống mới có năng suất và chất lượng cao. Phát triển cây chè phù
hợp với nhu cầu của thị trường, tăng nhanh diện tích và sản lượng điều, đẩy

mạnh trồng mới cây cao su, chuyển một phần diện tích rừng nghèo kiệt,
nương rẫy sang trồng cao su. Giảm diện tích cây cà phê tại các vùng khó
tưới, thổ nhưỡng không phù hợp và năng suất thấp.
- Phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng sản xuất tập trung gắn với
chế biến và phòng trừ dịch bệnh.


- Phát triển khai thác nuôi trồng, chế biến thủy sản đồng bộ bảo đảm
tăng trưởng bền vững, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển đảo,
ổn định khai thác ven bờ.
B. Đánh giá tình hình thực hiện
Năm 2006: Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
năm 2006 (theo giá cố định) tăng 4,4% so với năm 2005, trong đó nơng
nghiệp tăng 3,6%; lâm nghiệp tăng 1,2%; thuỷ sản tăng 7,7%.
Trồng trọt: Sản lượng lương thực có hạt năm 2006 ước tính đạt 39,65
triệu tấn, chỉ tăng tăng 0,1% so với năm trước, tương đương với tăng thêm
26,4 nghìn tấn, trong đó lúa 35,83 triệu tấn, giảm 0,1% và ngô 3,82 triệu
tấn, tăng 0,9%. Sản lượng một số cây hàng năm so với năm trước tăng,
giảm với mức độ khác nhau: khoai lang tăng 0,8%; sắn tăng 14,9%; đỗ
tương giảm 11,8%; lạc giảm 5%; rau các loại tăng 6,4%; mía tăng 4,9%...
Do thời tiết thuận và giá thu mua một số nông sản cho xuất khẩu như cao
su, cà phê, chè, hồ tiêu tăng cao đã kích thích người dân mở rộng sản xuất,
tăng sản lượng: trong đó sản lượng cao su tăng 13,4%, cà phê tăng 13,5%,
hồ tiêu tăng 2,9%, chè tăng 7,4%; riêng cây điều tuy diện tích tăng 14,4
nghìn ha (+4,1%) nhưng sản lượng giảm 2%. Diện tích cây ăn quả tăng 7
nghìn ha so với cùng kỳ năm trước.
Chăn ni: Theo kết quả điều tra, tính đến 1/8/2006, đàn trâu cả nước
đạt 2,92 triệu con, đàn bò 6,51 triệu con (trong đó đàn bị sữa 113,2 nghìn
con); đàn lợn 26,86 triệu con; đàn gia cầm 214,6 triệu con (trong đó đàn gà
152 triệu con). Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 3,1 triệu tấn, tăng

9,3% so với năm 2005, trong đó thịt trâu tăng 7,5%; thịt bị tăng 12,2%; thịt
lợn tăng 9,5%; gia cầm tăng 7%. Sản lượng sữa bị đạt 215,9 nghìn tấn, tăng
9,2%. Sản lượng trứng gia cầm các loại 4 triệu quả, tăng 0,5%.
Lâm nghiệp: Diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 184
nghìn ha, bằng 103,7% năm trước; trồng cây phân tán 202,5 triệu cây, bằng
99,2%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 486,7 nghìn ha, tăng 0,9%; diện


tích rừng khoanh ni tái sinh 911,4 nghìn ha, tăng 0,4%; sản lượng gỗ khai
thác 3011,2 nghìn m3, tăng 0,5% (chủ yếu là gỗ rừng trồng). Diện tích rừng
bị thiệt hại năm 2006 chỉ bằng 45,8% năm trước, do thời tiết khơng nắng,
nóng nhiều và cơng tác bảo vệ rừng được quan tâm hơn (trong đó bị cháy
2,1 nghìn ha, bị chặt phá 2,5 nghìn ha).
Thuỷ sản: Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2006 đạt 3695,9 nghìn tấn,
tăng 6,6% so với năm trước, trong đó ni trồng tăng 14,6% và khai thác
tăng 0,7% (khai thác biển tăng 0,9%). Trong tổng sản lượng thuỷ sản, cá
2633,1 nghìn tấn, tăng 6,6% ; tơm 459,3 nghìn tấn, tăng 5,6%.
Sản lượng thuỷ sản ni trồng 1694,2 nghìn tấn, trong đó cá 1148 nghìn
tấn, tăng 18,2%; tơm 354,6 nghìn tấn, tăng 8,4%. Mặc dù bị ảnh huởng của
bão, lũ lớn, nhiều diện tích ni trồng thuỷ sản ven biển bị mất trắng hoặc
giảm năng suất, nhưng ni trồng thuỷ sản tăng khá do diện tích ni tăng
3,3%; các địa phương tiếp tục đa dạng hóa đối tượng và hình thức ni theo
hướng đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững, không những phục vụ cho
xuất khẩu mà còn tiêu thụ mạnh trên thị trường trong nước. Sản lượng thuỷ
sản khai thác 2 triệu tấn, tăng 0,7% so với 2005, trong đó khai thác biển
1,81 triệu tấn, tăng 0,9%.
Năm 2007: Vượt qua những khó khăn và thách thức do thiên tai, bão
lũ và dịch bệnh gây ra, sản xuất nơng nghiệp tiếp tục duy trì được sự tăng
trưởng. Giá trị tăng thêm toàn ngành tăng khoảng 3,5% so với năm 2006
( kế hoạch 3,5 – 3,8% ). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông,

lâm, ngư nghiệp ước đạt 4,5%( kế hoạch 4,5-4,8%), trong đó: ngành nơng
nghiệp tăng 3%, ngành lâm nghiệp 1,4%, ngành thủy sản 9,9%. Nguyên
nhân tốc độ tăng trưởng ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ đạt mức thấp của
kế hoạch là do diện tích trồng lúa giảm, năng suất và sản lượng lúa đông
xuân ở đồng bằng Bắc bộ đạt thấp do thời tiết không thuận và các dịch bệnh
cây trồng, gia súc và gia cầm ảnh hưởng đến sản xuất. Ngành thủy sản có


tốc độ tăng trưởng cao nhất trong tồn ngành nơng, lâm, ngư nghiệp, tăng
11,5% so với năm 2006
Trồng trọt: Sản lượng lúa tính chung ba vụ đạt 35,87 triệu tấn, tăng
0,1% so với năm 2006, trong đó miền Bắc 12,63 triệu tấn, giảm 3,7%; miền
Nam 23,24 triệu tấn, tăng 2,2%; vụ đông xuân 17,03 triệu tấn, giảm 3,2%;
vụ hè thu 10,11 triệu tấn, tăng 4,3%; vụ mùa 8,73 triệu tấn, tăng 1,9%. Nếu
tính thêm 4,11 triệu tấn ngơ thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm nay
đạt 39,98 triệu tấn, tăng 0,8% so với năm 2006.
Chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển tuy nhiên
tốc độ tăng không cao, chưa ổn định và thiếu đồng đều giữa các địa
phương. Theo kết quả điều tra chăn ni tại thời điểm 1/8/2007 thì cả nước
có 2996 nghìn con trâu, tăng 2,6% so với năm 2006; 6725 nghìn con bò,
tăng 3,3%; 226,0 triệu gia cầm, tăng 5,3%. Riêng đàn lợn sụt giảm mạnh,
chỉ có gần 26,6 triệu con, giảm 1,1%, trong đó một số địa phương giảm
nhiều là: Hải Dương giảm 29,6%; Long An giảm 22,2%; Đà Nẵng giảm
17,6%; Hậu Giang giảm 17,2%; Bình Thuận giảm 16,7%; Sóc Trăng giảm
14,9%; Cần Thơ giảm 14,6%; Bắc Ninh giảm 12,8%; Hải Phòng giảm
12,2%; Đồng Nai giảm 10,5%...
Điều đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp năm 2007 là gieo trồng cây
công nghiệp và cây ăn quả phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa.
Diện tích gieo trồng cây cơng nghiệp lâu năm của cả nước năm 2007 đạt
trên 1,8 triệu ha, tăng 74,9 nghìn ha so với năm 2006; cây cơng nghiệp hàng

năm 840,8 nghìn ha, tăng 6,6 nghìn ha; cây ăn quả 775,5 nghìn ha, tăng 4,1
nghìn ha. Một số cây có diện tích gieo trồng lớn và tăng nhiều so với năm
2006 là: Cao su 549,6 nghìn ha, tăng 27,4 nghìn ha; cà phê 506,4 nghìn ha,
tăng 9,4 nghìn ha; điều 437,0 nghìn ha, tăng 35,2 nghìn ha; lạc 254,6 nghìn
ha, tăng 7,9 nghìn ha; đậu tương 190,1 nghìn ha, tăng 4,5 nghìn ha. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng có một số cây trồng giảm như: diện tích trồng
bông giảm 40,7%; thuốc lá giảm 28,1%; hồ tiêu giảm 1,2%.


Lâm nghiệp: Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2007 theo giá so sánh
1994 ước tính đạt 6503 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2006. Trong năm đã
trồng được 194,7 nghìn ha rừng tập trung, tăng 1% so với năm trước;
khoanh ni tái sinh 969,3 nghìn ha, tăng 1,2%; diện tích rừng được chăm
sóc 487,2 nghìn ha, giảm 4,7%; khai thác 3260,5 nghìn m3 gỗ, tăng 2,2%,
trong đó 80% là khai thác từ rừng trồng. Nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh ni
tái sinh rừng nên diện tích rừng của cả nước năm 2007 ước tính đạt gần
12,85 triệu ha, tăng 311 nghìn ha so với năm 2006, nâng tỷ lệ che phủ rừng
từ 37,9% năm 2006 lên 38,8% năm 2007.
Thủy sản: Giá trị sản xuất thủy sản năm 2007 theo giá so sánh năm
1994 ước tính đạt 46663 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2006, gồm có ni
trồng 30181 tỷ đồng, tăng 16,5%; khai thác 16482 tỷ đồng, tăng 2,1%. Sản
lượng thủy sản cả năm đạt 4149 nghìn tấn, tăng 11,5% so với năm 2006,
trong đó cá 3053,6 nghìn tấn, tăng 13,5%; tơm 498,2 nghìn tấn, tăng 7,6%;
thủy sản khác 597,2 nghìn tấn, tăng 5,2%.
Giá trị và sản lượng thủy sản tăng cao so với năm 2006 chủ yếu là do
các địa phương mở rộng diện tích ni trồng, nhất là các địa phương vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Do tăng cả diện tích và năng suất nên sản lượng
thủy sản ni trồng năm 2007 đã đạt 2085,2 nghìn tấn, tăng 23,1% so với
năm 2006.
Năm 2008. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2008 gặp

một số khó khăn: thời tiết diễn biến bất thường đầu năm với đợt rét đậm, rét
hại kéo dài nhất từ vài chục năm trở lại đây làm thiệt hại trên 200 nghìn ha
lúa và gần 18 nghìn ha mạ, khô hạn ở miền Trung và Tây nguyên, dịch bệnh
gia súc, gia cầm ảnh hưởng đến phát triển đàn, nuôi cá tra phát triển tự phát
và giá mua biến động bấp bênh, giá nhiều loại vật tư nông nghiệp tăng
nhanh. Bên cạnh những khó khăn nông, lâm nghiệp, thủy sản cũng có nhiều
điều kiện thuận lợi:(1) Có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các Bộ,
ngành và sự tích cực của các đơn vị sản xuất; (2) Giá nhiều loại nông sản:


lúa, cà phê, cao su...ở mức cao có lợi và khuyến khích người sản xuất tăng
cường đầu tư. Do vậy, kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
nhiều so với năm trước.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm 2008
theo giá so sánh 1994 ước đạt 144399,63 tỷ đồng, tăng 5,43% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó nông nghiệp đạt 103300,46 tỷ đồng, tăng 4,78% lâm
nghiệp đạt 4917,65 tỷ đồng, tăng 1,5%, thủy sản đạt 36181,52 tỷ đồng tăng
7,91%. Kết quả sản xuất từng ngành khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
như sau:
Trồng trọt.
Cây lúa: Diện tích gieo cấy lúa cả năm ước đạt 7374,3 nghìn ha, tăng
172,5 nghìn ha(+ 2,4%) so năm 2007. Nguyên nhân tăng diện tích là do thời
tiết tương đối thuận lợi và giá lúa từ đầu năm tăng cao nhất từ trước tới nay
nên các địa phương đều chủ động hướng dẫn người nông dân cấy hết diện
tích, đặc biệt là diện tích lúa vụ thu đông/ vụ ba sạ trên nền lúa hè thu chính
vụ ở các tỉnh ĐBSCL tăng trên 1000 ha (+42%) so với năm 2007 .
Năm 2008 tiếp tục là năm sản xuất lúa được mùa lớn trên diện tích
rộng. Nếu sản xuất vụ mùa và thu đông trong những tháng sắp tới không bị
ảnh hưởng nhiều do mưa bão và sâu bệnh thì sản lượng lúa cả năm 2008 có
thể đạt trên 38,5 triệu tấn, tăng trên 2,6 triệu tấn so với năm 2007.

Cây ngô: Diện tích ngô đạt 1075,9 nghìn ha, tăng 4,8 nghìn ha
(+0,4%); năng suất ước đạt 40,1 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha (+2%). Sản lượng đạt
4315,9 nghìn tấn tăng 104,7 nghìn tấn (+2,5%) so cùng kỳ.
Cây hàng năm khác: Các chất bột có củ, diện tích cây rau đậu các
loại, cây công nghiệp hàng năm diện tích và sản lượng đều tăng.
Cây công nghiệp lâu năm: Năm 2008 giá cà phê, cao su, chè, hồ tiêu
đều ổn định và ở mức cao đã kích thích người dân mở rộng diện tích cũng
như chú trọng đầu tư tăng năng suất. Diện tích gieo trồng phần lớn các cây
công nghiệp lâu năm tăng. Sản lượng phần lớn các cây lâu năm tăng khá.


Chăn nuôi: Sau những đợt rét đậm và dịch bệnh lan rộng trong 6
tháng đầu năm, hiện nay chăn nuôi đang có xu hướng phát triển tích cực.
Đàn trâu đạt xấp xỉ năm trước, đàn bò ước tăng 3-4%, đàn lợn ước tăng 1%
và đàn gia cầm ước tăng 6-7% . Thời tiết rét đậm, rét hại đầu năm, dịch tai
xanh trên diện rộng, dịch cúm gia cầm vẫn xảy ra ở nhieuf địa phương và
giá các loại thức ăn tăng cao là những nguyên nhân làm cho chăn nuôi tăng
chậm hơn rất nhiều so với các năm trước.
Lâm nghiệp: Trồng rừng tập trung tháng 9 ước đạt 16,5 nghìn ha, đưa
diện tích trồng 9 tháng đầu năm đạt khoảng 150,3 nghìn ha (tăng 1,3% so
cùng kỳ năm trước). Trồng cây phân tán (chỉ tính cây lâm nghiệp) tháng 9
ước đạt 26,4 triệu cây, chung 9 tháng trồng cây phân tán đạt khoảng 165,1
triệu cây, băng 99,2% so cùng kỳ năm trước. Trong 9 tháng đầu năm, chăm
sóc rừng trồng bằng 99,3% so cùng kỳ, khoanh nuôi tái sinh ước tăng 0,5%
so với cùng kỳ năm trước. Khai thác gỗ trong tháng 9 ước đạt 382,4 nghìn
m3, chung toàn quốc trong 9 tháng ước đạt 2435,3 nghìn m3 (+4,3% so 9
tháng năm 2007), trong đó chủ yếu là gỗ rừng trồng. Khai thác củi 9 tháng
ước đạt 20.132 nghìn ste, tăng 1,8% so với cùng kỳ.
Thủy sản: Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm ước tính đạt
3408,5 nghìn tấn, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt

1374,1 nghìn tấn, tăng 25,2%, tôm đạt 296,7 nghìn tấn, tăng 5,3%. trong 6
tháng đầu năm, sản lượng thủy sản nuôi trồng nước ngọt tiếp tục tăng nhanh
do từ năm trước giá cá tra lên cao, nuôi có lãi lớn và thị trường tiêu thụ
được dự báo khá lạc quan nên người nuôi mở rộng diện tích và thâm canh
tăng năng suất. Do diện tích, sản lượng tăng nhiều nên từ tháng 5 người
nuôi cá tra gặp rất nhiều khó khăn do không bán được cá đã đến kỳ thu
hoạch, dẫn đến tình trạng tồn đọng số lượng lớn trong các hộ, các doanh
nghiệp chế biến thủy sản khó khăn trong việc vay vốn và biến động bất lợi
của thị trường xuất khẩu. Gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp thu
mua nguyên liệu chế biến đã góp phần tích cực giải quyết triệt để tình trạng


cá tra quá lứa, tính đến cuối tháng 9 lượng cá tra quá lứa tồn đọng đã được
các doanh nghiệp chế biến thu mua hết, cá tra hiện đang được giá, dự báo sẽ
thiếu nguyên liệu cá tra chế biến vào những tháng cuối năm 2008 và đầu
năm 2009.
Sản lượng khai thác 9 tháng ước đạt 1580 nghìn tấn, tăng 0,1% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 1435,5 nghìn tấn, bằng cùng
kỳ năm trước. Thời tiết ngư trường những tháng đầu năm thuận lợi hơn so
với cùng kỳ năm trước, không có mưa bão lớn. Vì vậy, tuy giá nhiên liệu và
các chi phí khác tăng cao nhưng ngư dân vẫn bám biển để đánh bắt.
Như vây: Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá đầu
vào ,tăng cao nhưng nông nghiệp vẫn đạt được những kết quả nổi trội: giá
trị sản xuất ước tăng 5,1% (năm 2007 tăng 4,6%); sản lượng lúa tăng
khoảng 2,6 triệu tấn, là mức tăng cao nhất từ trước đến nay, thuỷ sản tăng
gần 9,0%.
Bảng 3: Tốc độ gia tăng giá tri sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản GĐ 2006-2010.
Đơn vị: %
Tốc độ tăng Năm 2006


Năm 2007

Năm

2008 KH

giá trị sản

(9 tháng đầu 2006-2010

xuất

năm)

(bình

4,5

5,4

năm)
4,5

3
1,4
9,9

4,78
1,5

7,91

2,7
2,3
10,5

Nông,
nghiệp

lâm 4,4
&

thủy sản
Nông nghiệp 3,6
Lâm nghiệp 1,2
Thủy sản
7,7

quân


Tóm lại, sau 3 năm thực hiện kế hoạch nông nghiệp đã có rất nhiều
tiến bộ, đang từng bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nông nghiệp đang dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào thiên nhiên
sản lượng của hầu hết các thành phần trong nông nghiệp đều tăng. Tốc độ
tăng giá trị tăng thêm của nông nghiệp cao hơn KH (năm 2007 thấp nhất
trong 3 năm nhưng cũng đạt 3% trong khi đó KH là 2,7%) nhưng tốc độ
tăng của 2 ngành còn lại là lâm nghiệp và thủy sản đều thấp hơn KH. Tuy
nhiên có nhiều cơ sở và điều kiện thuận lợi để nông, lâm nghiệp và thủy sản
nước ta tiếp tục đạt được các thành tựu đáng khích lệ, hoàn thành KH trong

2 năm cuối.
II. Đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp giai đoạn
2001-2005:
A. Kế hoạch phát triển và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành
công nghiệp giai đoạn 2006-2010 như sau:
- Tiếp tục duy trì tốc độ phát triển cao đi đôi với nâng cao chất lượng
sản phẩm,hiệu quả sản xuất cơng nghiệp.Tập trung phát triển có chọn loc
một số ngành cơng nghiệp tiềm năng có hàm lượng công nghệ cao,công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và cơng nghiệp quốc phịng.
- Phát triển đồng bộ mạng lưới sản xuất công nghiệp trong cả nước
trên cơ sở quy hoạch phát triển hợp lý các ngành nghề.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp năng lượng và chú trọng phát trển
các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, phấn đấu giá trị sản xuất
công nghiệp tăng bình qn 15%-15.5%,giá trị tăng thêm trong cơng nghiệp
tăng 9.5%-10.2%.Đến năm 2010,công nghiệp khai thác chếm tỷ trọng 7.6%
giá trị sản xuất,công nghiệp chế biến chếm 88.6%,công nghiệp điện nước
ga chếm 3.8%. Công nghiệp khai thác dự kiến tăng trưởng bìnhqn
khoảng 11%/năm,cơng nghiệp chế biến tăng 16.1%
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp,
tăng cường xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến, sản phẩm có hàm lượng


công nghệ cao. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng ngành công nghiệp xuất
khẩu chếm 76% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tạo điều kiện đưa tỷ
trọng hàng công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến lên 65-70% vào năm
2010.
B.Tình hình thực hiện:
Cơ cấu ngành cơng nghiệp đã có bước chuyển dịch đáng kể theo
hướng cơng nghiệp hố vào từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của
từng ngành từng sản phẩm, gắn kết sản xuất với thị trường trong nước và

quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển
dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị tăng
thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã bước đầu khai thác được các lợi thế
về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị sản phẩm xuất
khẩu. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu nội bộ ngành cơng nghiệp đó là: Tốc độ đổi mới cơng nghệ trong hầu
hết các ngành cơng nhiệp cịn chậm và đang ở mức trung bình là phổ biến;
số ngành, lĩnh vực sử dụng cơng nghệ tiên tiến hiện đại cịn ít. Trong công
nghiệp chế biến,các ngành công nghiệp gia công lắp ráp còn chiếm tỷ trọng
khá lớn nên tỷ lệ chi phí trung gian trong ngành cơng nghiệp có xu hướng
gia tăng trong các năm. Những ngành có tỷ lệ sử dụng nhiều nguyên vật
liệu đầu vào (chiếm tỷ lệ chủ yếu trong chi phí trung gian ngành cơng
nghiệp) có xu hướng tăng nhanh hơn cả về số lượng và quy mơ doanh
nghiệp, trong khi các ngành sử dụng ít ngun liệu đầu vào lại tăng chậm
hoặc có xu hướng khơng tăng, thậm chí giảm.
Trong gần ba năm qua ngành cơng nghiệp ln duy trì tốc độ khá cao
góp phần quan trọng tới sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Bên cạnh
đó cịn có sự chuyển biến tích cực trong nội bộ ngành công nghiệp. Cụ thể
như sau
1.Xét về sự chuyển dịch theo ngành công nghiệp


Bảng 4: Cơ cấu GTSX công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành
công nghiệp
Năm
Công

2005
nghiệp 83.2%


2006
84.5%

2007
87.6%

chế biến
Công
nghiệp 11.2%

10.3%

6.8%

khai thác mỏ
SX phân phối 5.6%

5.2%

5.6%

100%

100%

điện ga,nước và
khí đốt
Tổng

100%


Có thể thấy rằng càng ngày đóng góp của ngành cơng nghiệp chế
biến càng tăng vào giá trị sản xuất ngành công nghiêp ( từ 83.2% năm 2005
lên 84.5% năm 2006 và đến 87.6% năm 2007) Đây là một tín hiệu đáng
mừng cho ngành cơng nghiệp Việt Nam bởi vì cùng với sự tăng lên về
lượng của các ngành trong nội bộ nghành công nghiệp thì tỷ trọng của
ngành cơng nghiệp chế biến tăng lên tương đối thể hiện xu thế phát triển
chung của ngành cơng nghiệp. Và đến năm 2010 thì ngành cơng nghiệp chế
biến đóng góp vào giá trị sản xuất ngành cơng nghiệp là 88.6% là có thể đạt
được. Sở dĩ ngành công nghiệp chế biến tăng nhanh về giá trị sản lượng và
càng ngày càng đóng góp lớn hơn cho ngành cơng nghiệp vì một số ngành
chủ yếu giữ được tốc độ tăng cao ổn định đã quyết định tốc độ tăng cao của
tồn ngành cơng nghiệp như: sản xuất thực phẩm và đồ uống, sản xuất các
sản phẩm từ da và giả da, sản xuất các sản phẩm từ gỗ.sản xuất các sản
phẩm từ cao su và platic, sản xuất các sản phẩm từ kim loại,sản xuất các
thiết bị điện… và một số sản phẩm chủ yếu giữ được tốc độ tăng cao như:
thuỷ sản chế biến, thuốc ống các loại, xà phòng các loại, sứ vệ sinh, xe máy
lắp ráp...


Bên cạnh đó tỷ trọng đóng góp của ngành khai thác giảm dần. Điều
này có thể được giải thích do lượng dầu thô khai thác giảm tương đương
trong khi lượng than sạch khai thác tăng.Nhưng cho dù tăng về sản lượng
thì tỷ trọng của nó trong cơ cấu ngành cơng nghiệp vẫn giảm dần qua các
năm_đây là một tín hiệu đáng mừng. Tỷ trọng ngành công nghiệp sản xuất
và phân phối điện ga khí đốt cũng có xu hướng gia tăng trong 2 năm
2006-2007.
Cơ cấu GTSX công nghiệp theo giá thực tế phân theo các ngành cấp
I của ngành công nghiệp có sự chuyển dịch đúng hướng theo kế hoạch phát
triển ngành cơng nghiệp và từ đó đóng góp vào sự chuyển dịch chung của

nền kinh tế. Tuy nhiên có thể thấy một số tồn tại trong nội bộ ngành cơng
nghiệp như sau:
Chi phí trung gian ngành cơng nghiệp có xu hướng gia tăng cùng với
giá trị sản xuất. Điều đó chứng minh cho nền cơng nghiệp nước ta cịn lạc
hậu và mang tính chất gia cơng nhiều. Ngành cơng nghiệp chế biến là
ngành có tỷ lệ chi phí trung gian lớn nhất nhưng ở nước ta hiện nay chủ yếu
là ngành công nghiệp lắp ráp và dùng nhiều nguyên vật liệu đăc biệt còn
phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngồi. Cịn các ngành cơng nghiệp
khai thác mỏ thì mới chỉ tập trung khai thác về số lượng nên có nguy cơ cạn
kệt sớm trong tương lai. Tuy nhiên, đối với các ngành khai thác mỏ, như
khai thác than, dầu, khí chúng ta khơng thể chỉ chú trọng đến việc phát triển
về quy mô, số lượng doanh nghiệp hay sản phẩm khai thác vì nguồn tài
nguyên của chúng ta có hạn, hơn nữa việc khai thác ngày càng gặp khó
khăn hơn do nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Chúng ta cần chú trọng
phát triển các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm khai thác đạt chất
lượng cao như: lọc, tinh chế dầu mỏ và các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu
mỏ, luyện than cốc,...
2. Xét về sự chuyển dịch theo thành phần kinh tế:


Bảng 5 :Cơ cấu GTSX công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành
phần kinh tế
Năm
Tổng số
I.Kinh tế

2005
100%
nhà 25.1%


2006
100%
22.5%

2007
100%
27.7%

nước
Trung ương
19.3%
Địa phương
5.8%
II.Kin tế ngồi 31.2%

17.7%
4.8%
33.3%

21.7%
6%
33.4%

NN
Tập thể
Tư nhân
Cá thể
III.Khu vực có

0.4%

22.7%
8.1%
44.2%

0.4%
24.3%
8.7%
38.9%

0.4%
22.7%
8.1%
43.7%

vốn ĐTNN
Có thể thấy trong xu thế chuyển dịch ngành công nghiệp phân theo
thành phần quản lý trong các năm 200-2007 qua là: Khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực kinh tế ngồi nhà nước tăng ít tỷ trọng đóng góp vào
GTSX ngành cơng nghiệp cịn khu vực có vốn đầu tư nước ngồi lại có xu
hướng giảm mạnh. Nhìn chung về tỷ lệ thì khu vực nhà nước chếm tỷ trọng
ít nhất điều này phù hợp với xu hướng đổi mới nền kinh tế theo hướng thị
trường. Chúng ta đang tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp và cổ phần hoá
khu vực nhà nước nên số lượng trong khu vực này giảm. Do đó khu vực
nhà nước có tỷ lệ tăng GTSX thấp. Bên cạnh đó khu vực kinh tế ngồi nhà
nước có tốc độ tăng nhanh nhất trong ba khu vực do Luật doanh nghiệp mới
tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Trong cơ cấu ngành nếu tỷ trọng các thành phần kinh tế Nhà nước thấp nhất
nhưng có xu hướng gia tăng. Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiếm tỷ
trọng lớn nhưng có xu hướng giảm. Có thể thấy xu hướng giảm tỷ trọng
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi trong tỷ trọng ngành công nghiệp là tốt



vì ta có thể độc lập vào nền kinh tế tự chủ hơn khi nguồn vốn đầu tư rút về
nước.
III. Ngành dịch vụ
Ở Việt Nam ngành dịch vụ là ngành khá mới mẻ nhưng lại có tốc độ
hồn thiện và phát triển rất nhanh. Khi kinh tế càng phát triển thì người ta
càng cần sự dụng nhiều dịch vụ hơn và cũng đòi hỏi chất lượng ngày 1 tốt
hơn.
A. Mục tiêu và nhiệm vụ chung ngành dịch vụ GĐ 2006-2010
- Tốc độ tăng trưởng GDP ngành dịch vụ giai đoạn 2006- 2010là 7,78,2 %/năm, tăng tỉ trọng dịch vụ trong GDP lên 40- 41% vào năm 2010.
Trong 2 năm tới du lịch VN thu hút được 6 triệu lượt khách quốc tế, 23
lượng khách nội địa.
- Dịch vụ vận tải : khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng 9,4%,khối
lượng luân chuyển hàng hóa tăng 10,7%, khối lượng vận chuyển hành
khách tăng 9,8% , khối lượng luân chuyển hành khách tăng 11,5%. Phấn
đấu đạt thị phần vận tải trên các tuyến bay quốc tế của Việt Nam từ
40-45%. Mở rộng sân bay để có thể tiếp nhận được 13 triệu lượt khách năm
2005 lên 20,8 triệu vào năm 2010, tăng 9,8%/năm. Hàng hóa thơng qua
cảng biển đạt 208 triệu tấn vào năm 2010.
- Bưu chính viễn thơng : phấn đấu số điện thoại trên mạng tăng 15%/
năm. Đến năm 2010, đạt trình độ trung bình khu vực về mật độ điện thoại,
cơng nghệ và các loại hình dịch vụ bưu chính viễn thơng. Hạ tầng bưu
chính viễn thơng đạt trình độ cao trong khu vực. Tổng số máy điện thoại đạt
31 triệu máy, đạt mật độ 35máy/100 dân, internet đạt 12,6 thuê bao/
100dân, tỉ lệ người sử dụng internet đạt 48%.
- Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: Hồn thiện khung pháp lý
và chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán. Ban
hành luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng mở
rộng hơn nữa đối tượng tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán, đặc



biệt là các nhà đầu tư có tổ chức trong đó các các tổ chức tài chính như bảo
hiểm, ngân hàng,…Tăng cường tính cơng khai trong đấu giá chứng khốn,
đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan tới niêm yêt, giao dịch chứng
khoán. Mở rộng hơn nữa quyền tham gia góp vốn mua cổ phần của các nhà
đầu tư nước ngoài . Phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán, cấp phép hoạt động cho các tổ chức tài chính trung gian. Tăng
nhanh số lượng doanh nghiệp thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị
trường chứng khốn đặc biệt là đối với các cơng ty lớn. Tiến tới giá trị giao
dịch vốn trên thị trường đạt 10-15%GDP năm 2010. Dịch vụ bảo hiểm
hướng tới mục tiêu phổ cập trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Dự kiến
tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm bình quân khoảng 20-30%.
B. Tình hình thực hiện
Trong mấy năm gần đây dịch vụ Việt Nam đã có bước chuyển mình
đáng kể nhất là từ năm 2006 trở lại nay. Ngành dịch vụ sẽ hứa hẹn một
tương lai rộng mở. Sau đây ta sẽ thấy rõ điều này hơn và tin tưởng hơn về
sự phát triển vũng chắc của ngành dịch vụ nước nhà.
Năm 2006
Dịch vụ vận tải: Vận chuyển hành khách đạt 1386,6 triệu lượt khách
và 58,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1% về lượt khách và tăng 10,2% về lượt
khách.km so với năm 2005, trong đó vận chuyển hành khách bằng đường
bộ chiếm 85,7% số lượt hành khách vận chuyển, tăng 10,1%; đường sông
tăng 4,3%; hàng không tăng 15,5%; đường biển tăng 11,1%. Khối lượng
hành khách luân chuyển tăng chủ yếu do tăng luân chuyển bằng đường bộ
và đường hàng không. Riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm
cả về số lượt khách và lượt khách.km.
Vận chuyển hàng hoá năm 2006 đạt 350,4 triệu tấn và 88,6 tỷ tấn.km,
tăng 8,1% về tấn và tăng 9,3% về tấn.km so với năm trước. Trong đó, vận
tải cả trung ương, địa phương cũng như vận chuyển trên cả tuyến đường



trong nước, quốc tế và các ngành đường đều tăng cả về tấn hàng hoá và
tấn.km.
Du lịch: Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2006 đạt 3,6 triệu lượt
người, tăng 3% so với năm 2005, chưa đạt được mức tăng trưởng như mong
đợi và là mức tăng tương đối thấp so với tốc độ tăng 18,8% của 2005, chủ
yếu do khách đến từ Trung Quốc giảm tới 28%. Ngoài ra, khách đến từ một
số nước như Cam-pu-chia, Lào, Phi-li-pin, In-đô-nê-xi-a…đều giảm từ
7,7% đến 22%. Theo mục đích đến, khách du lịch nghỉ ngơi chiếm 57,7%
nhưng chỉ tăng 1,5% so với năm 2005; đi công việc tăng 16,2%; thăm thân
nhân tăng 10,4%; riêng khách đến với các mục đích khác giảm 13,1%. Các
nước có lượng khách đến nước ta đạt trên 100 nghìn lượt người vẫn giữ
mức tăng trưởng cao như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ôx-trây-lia, Thái
Lan và Xin-ga-po.
Bưu chính, Viễn thơng: Trên thị trường thơng tin di động, có thêm
mạng điện thoại di động EVN từ tháng 3/2006, thử nghiệm dịch vụ điện
thoại di động CDMA của Viễn thông Hà Nội từ tháng 11/2006; các nhà
cung cấp không ngừng đưa ra các loại hình dịch vụ mới và đa dạng để thu
hút khách hàng; kết cấu hạ tầng viễn thơng ngày càng hồn thiện. Mạng
lưới bưu chính được củng cố. Đến hết tháng 12/2006, trên cả nước đã có
25,4 triệu thuê bao điện thoại, tăng 60,5% so với cùng thời điểm năm 2005,
trong đó Tập đồn Bưu chính, Viễn thông chiếm tới 67,4% thị phần với
17,1 triệu thuê bao (7,6 triệu thuê bao cố định và 9,5 triệu thuê bao di
động). Số thuê bao internet phát triển năm 2006 của toàn mạng đạt 1,19
triệu thuê bao, bằng 95,9% so với năm 2005, do khách hàng chuyển sang sử
dụng thuê bao băng rộng (ADSL). Đến cuối năm 2006, cả nước có 4,1 triệu
thuê bao internet (với 1,77 triệu thuê bao thuộc Tập đồn Bưu chính, Viễn
thơng). Tổng doanh thu bưu chính, viễn thơng năm 2006 đạt 37,4 nghìn tỷ
đồng, trong đó Tập đồn Bưu chính Viễn thơng 34,8 nghìn tỷ đồng.



Năm 2007
Du lịch: Khách quốc tế đến Việt Nam: Khách quốc tế đến nước ta
trong năm 2007 đạt 4,23 triệu lượt người, tăng 18% so với năm 2006. Trong
đó, khách đến với mục đích du lịch nghỉ dưỡng đạt 2,61 triệu lượt người,
chiếm 61,6% và tăng 26%; đến vì cơng việc 673,8 nghìn lượt người, chiếm
15,9% và tăng 17%; thăm thân nhân 601 nghìn lượt người, chiếm 14,2% và
tăng 7,1%; riêng khách đến với mục đích khác giảm 7,7%.Trung Quốc vẫn
là nước dẫn đầu về lượng khách đến Việt Nam, đạt 574,6 nghìn lượt người,
chiếm 13,6% trong tổng số khách đến và tăng 11,3% so với năm trước. Một
số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta lớn vẫn giữ tốc độ
tăng trưởng ổn định là: Hàn Quốc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đài Loan, Ôx-trây-lia . Một số nước có lượng khách đến tuy khơng lớn nhưng có mức chi tiêu
cao đã đạt tốc độ tăng tương đối khá so với năm 2006 là: Liên bang Nga
tăng 50,5%, I-ta-li-a tăng 43%; Niu-di-lân tăng 39,2%; Hà Lan tăng 37,9%;
Bỉ tăng 32,5%.
Theo khảo sát của tạp chí du lịch Conde Nast traveller, Việt Nam đã trở
thành 1 trong 20 điểm đến được u thích nhất. Hình ảnh“ Việt Nam vẻ đẹp
tiềm ẩn, điểm đến an toàn và thân thiện“ đã đông đảo khách du lịch. Thu
nhập từ du lịch chiếm 4,5% trong GDP của cả nước. Du lịch là 1 trong số ít
ngành kinh tế của Việt Nam mang lại nguồn thu trên 3,5 tỷ USD. Du khách
vào VN tăng 20% năm 2006, lượng khách VN du lịch nước ngoài tăng 20%,
du khách đi du lịch nội địa tăng 7%. Thu nhập từ du lịch tăng 22,8% cao hơn
tốc độ tăng bình quân của nền kinh tế.
Du lịch là thị khách của vận chuyển, đặc biệt là vận chuyển hàng không.
Phát triển thị trường du lịch là yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh doanh vận
chuyển, nhất là vận chuyển hàng không. Kết quả của sự liên kết này tạo ra cơ
sở hạ tầng- điều kiện tiên quyết cho phát triển các ngành du lịch. Lao động
trong ngành du lịch chiếm 3% tổng lao động cả nước.



Dịch vụ vận tải: Vận tải hành khách năm 2007 đạt 1535,5 triệu lượt
khách và 67,2 tỷ lượt khách.km; so với năm trước tăng 8,4% về lượt khách
và tăng 8,6% về lượt khách.km. Trong đó, vận chuyển bằng đường bộ đóng
vai trị quan trọng (chiếm 86,6% tổng số lượt khách và 66,2% tổng lượt
khách.km), tăng 9,4% về lượt khách và tăng 9,1% về lượt khách.km so với
năm 2006.
Vận chuyển hàng hoá đạt 378,6 triệu tấn và 95,1 tỷ tấn.km; so với năm
2006 tăng 8,1% về số tấn và tăng 7,4% về số tấn.km. Tuy nhiên hoạt động
vận tải gặp nhiều khó khăn như giá xăng dầu tăng cao đã gây áp lực tăng
cước phí vận tải; thiên tai, lũ lụt xảy ra liên tiếp làm ngập và sạt lở nhiều
đoạn đường sắt và tuyến quốc lộ quan trọng.
Bưu chính, viễn thơng: Hoạt động bưu chính, viễn thơng tiếp tục phát
triển mạnh. Số thuê bao điện thoại phát triển mới trong năm 2007 đạt 18,5
triệu thuê bao (gần bằng số thuê bao phát triển trong 3 năm 2004, 2005,
2006) nâng tổng số thuê bao trên cả nước tính đến hết tháng 12/2007 đạt 46
triệu thuê bao. Số thuê bao internet (quy đổi) phát triển mới năm 2007 đạt
1,18 triệu thuê bao. Đến nay đã có 18,2 triệu người sử dụng internet, chiếm
21,4% dân số cả nước.
Tài chính ngân hàng, chứng khốn: Hệ thống NHTM và tổ chức tín
dụng trong cả nước có tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn với nền kinh tế
tăng 37-38% năm 2006, gấp khoảng 2 lần so với dự kiến ( 17-21% ). Tổng
nguồn huy động vốn của NH lại còn lớn hơn. Tổng huy động của NHTM và
tổ chức tín dụng tăng 36,5% gấp 4 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ở các
tỉnh, thành phố có tốc độ cơng nghiệp hóa nhanh các luồng vốn huy động
thanh toán, cho vay của hệ thống NH cũng có tốc độ tăng cao ngồi dự
kiến, tổng dư nợ vay của các NHTM và tổ chức tìn dụng của nhiều tỉnh,
thành phố tăng 38-40% năm 2006



NHTM cổ phần có tốc độ tăng cao nhất cả về vốn huy động và dư nợ
cho vay. Tổng nguồn vốn huy động tăng trên 70% và dư nợ cho vay tăng
65%, chiếm 24,7% thị phần tín dụng của tồn bộ các NHTM và tổ chức tín
dụng cao hơn nhiều so với tỉ lệ 19,7% của 2006. Có nhiều ngân hàng nước
ngoài mở hoạt động tại VN như ngân hàng ANZ, SCB, HSCB tạo nên sức
ép cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng sơi động,
Thị trường chứng khốn : Có 249 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên
thị trường chứng khốn, tổng quy mơ vốn hốn thị trường đạt 450000 tỷ
bằng 40%GDP. Thị trường chứng khoán thu hút hơn 500 triệu trái phiếu
các loại với tổng giá trị vốn hóa lên 82.000 tỷ đồng bằng 8,4%GDP năm
2006.
Đến tháng 10/2008
Dịch vụ vận tải : Vận chuyển hành khách 10 tháng năm 2008 đạt
1577,1 triệu lượt khách và 67,5 tỷ lượt khách.km, so với cùng kỳ năm trước
tăng 7,8% về lượt khách và tăng 7,5% về lượt khách.km. Vận chuyển hành
khách đường bộ đạt 1420,4 triệu lượt khách và 47,1 tỷ lượt khách.km, so
với cùng kỳ năm trước tăng 8,5% về lượt khách và tăng 7,9% về lượt
khách.km; đường sông đạt 133,5 triệu lượt khách và 2,7 tỷ lượt khách.km,
tăng 1,2% và tăng 3,1%; đường sắt đạt 9,5 triệu lượt khách và 3,7 tỷ lượt
khách.km, giảm 2,6% về số lượt khách và giảm 4,9% về số lượt khách.km;
đường hàng không đạt 8,7 triệu lượt khách và 13,7 tỷ lượt khách.km, tăng
13,5% về lượt khách và tăng 11,2% về lượt khách.km.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển 10 tháng năm nay đạt 493,1 triệu
tấn và 144,2 tỷ tấn.km, tăng 10,4% về tấn và tăng 41,2% về tấn.km so với
cùng kỳ năm 2007, trong đó vận tải hàng hóa đường bộ đạt 353,2 triệu tấn
và 18,6 tỷ tấn.km, tăng 11% về khối lượng vận chuyển và tăng 14,9% về
khối lượng luân chuyển; vận tải đường biển đạt 42,8 triệu tấn và 117,1 tỷ
tấn.km, tăng 30,2% và tăng 50,3%; đường sông đạt 89,8 triệu tấn và 4,6 tỷ



tấn.km, tăng 2,1% và tăng 1,2%; đường sắt 7,2 triệu tấn và 3,6 tỷ tấn.km,
giảm 2,2% và tăng 11%.
Du lịch: Khách quốc tế đến Việt Nam 10 tháng năm 2008 đạt 3,6 triệu
lượt người, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến du lịch
đạt 2,2 triệu lượt người, tăng 2,7%; đến vì cơng việc 723,3 nghìn lượt người,
tăng 34,1%; thăm thân nhân 443,4 nghìn lượt người, giảm 12%. Khách quốc
tế đến qua đường hàng không đạt 2,8 triệu lượt người, tăng 2,7% so với cùng
kỳ năm trước; đường bộ 678,8 nghìn lượt người, tăng 18,8%; đường biển
127,5 nghìn lượt người, giảm 32,4%.
Bưu chính, viễn thơng: Số thuê bao điện thoại phát triển tháng 10 đạt
2,1 triệu thuê bao, nâng tổng số thuê bao 10 tháng năm 2008 lên 19 triệu thuê
bao, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2007. Tính đến cuối tháng 10/2008, cả
nước có 70,9 triệu thuê bao điện thoại.
Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thơng 10 tháng đạt 54,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2007 (riêng Tập đoàn Bưu chínhViễn thơng đạt 39,6 nghìn tỷ đồng, tăng 15,9%), trong đó doanh thu viễn
thơng đạt 36,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,7%; doanh thu bưu chính 1,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 26%.
Thấy rỗ nét nhất là ngành dịch vụ đã có những bước chuyển mình
khá rõ rệt. Đặc biệt là dịch vụ du lịch. Khách quốc tế đến VN năm 2006 đạt
3,6 triệu lượt người, tăng 3% so với năm 2005, 2007 đạt 4,23 triệu lượt
người, tăng 18% so với năm 2006. Năm 2007, thu nhập từ du lịch tăng 25%
so với 2006 và chiếm 4,5% tổng GDP. Vốn từ ngân sách trung ương và địa
phương cấp cho đầu tư cơ sở hạn tầng du lịch có xu hướng tăng mạnh, thu
hút 4,5 tỷ USD vốn FDI đăng ký. Khách quốc tế đến Việt Nam 10 tháng năm
2008 đạt 3,6 triệu lượt người, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2007.


×