Chương 1:
Một số lý luận cơ bản về vai trò của chính phủ và dịch vụ công
1.1Khái niệm và thuộc tính cơ bản của hàng hóa công
1.1.1 Khái niệm:
Hàng hóa công cộng là nhưng loại hàng hóa mà việc một cá nhân này đang
hưởng thụ lơi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng
đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó.
1.1.2 Thuộc tính cơ bản của hàng hóa công cộng :
- Hàng hóa công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Khi có thêm
một người tiêu dùng sử dụng hàng hóa thì cũng không làm ảnh hưởng đến
lợi ích của những người đang tiêu dùng hàng hóa này.
Ví dụ: Công viên công cộng là nơi dành cho mọi người vào với nhiều mục
đích khác nhau như thư giãn, tập thể dục, trò chuyện … Nếu như có thêm những
người vào hay ra khỏi công viên thì cũng không ảnh hưởng đến lợi ích của những
người khác.
- Hàng hóa công cộng không có tính loại trừ, tức là không thể loại trừ hoặc rất
tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu trả tiên cho
việc tiêu dùng của mình.
HHCC mang đầy đủ hai đặc tính trên thì gọi là HHCC thuần túy. Trên thực
tế có rất ít hàng hóa công cộng thỏa mãn cả hai thuộc tính nói trên. Đa số các
HHCC chỉ có một trong hai thuộc tính và có ở những mức độ khác nhau. Những
hàng hóa đó họi là HHCC không thuần túy. Tùy theo mức độ tào ra ngoại ứng trong
sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hóa và tùy theo khả năng có thể thiết lập cơ chế để
mua bản quyền sủ dụng hàng hóa này mà HHCC không thuần túy được chia làm hai
loại:
+ HHCC có thế tắc nghẽn là hàng hóa mà khi có thêm nhiều người sủ dụng
chúng thì có thể gây ra ùn tắc khiến lợi ích cảu những người tiêu dùng trước đó bị
giảm sút.
Ví dụ xe bus công cộng khi có quá nhiều người sủ dụng có thế gây ra quá
tải, chén lấn làm lợi ích của người sử dụng bị giảm đi.
+ HHCC có thể loại trừ bằng giá là những hàng hóa mà lợi ích do chúng tạo ra
có thể định giá.
Ví dụ: Lập các trạm thu phí ở các trục đường quốc lộ.
1.1.3. Dịch vụ công
* Khái niệm và đặc điểm:
Hiện nay, khái niệm dịch vụ công có nhiều cách tiếp cận dưới các góc độ
khác nhau nhưng về cơ bản đều thống nhất tương đối ở các đặc điểm sau của dịch
vụ công:
- Là một loại dịch vụ do Nhà nước (cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc uỷ quyền cho các tổ chức, đơn vị ngoài Nhà
nước thực hiện dưới sự giám sát của Nhà nước.
- Nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, nhân dân (những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu).
- Nhà nước là người chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân, xã hội về chất
lượng dịch vụ cũng như số lượng dịch vụ. Trách nhiệm ở đây thể hiện qua việc
hoạch định chính sách, thể chế pháp luật, quy định tiêu chuẩn chất lượng, thanh tra
kiểm tra giám sát việc thực hiện v.v…
- Không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Đối tượng thụ hưởng Dịch vụ công không trực tiếp trả tiền (đã trả qua hình
thức thuế), tuy nhiên có những trường hợp phải trả lệ phí theo quy định chặt chẽ của
pháp luật.
Vậy có thể hiểu một cách khái quát Dịch vụ công là những dịch vụ do Nhà
nước chịu trách nhiệm, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân
không vì mục tiêu lợi nhuận.
* Phân loại:
Xuất phát từ cơ sở nhận thức như trên, căn cứ vào điều kiện thực tế của Việt
Nam, chúng ta có thể tạm chia dịch vụ công ở nước ta hiện nay thành các loại sau:
Thứ nhất, những dịch vụ sự nghiệp công (có người gọi là hoạt động sự
nghiệp công), phục vụ những nhu cầu thiết yếu cho xã hội, quyền và lợi ích công
dân. Nhà nước trực tiếp (thông qua) các tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
hoặc uỷ quyền cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện, cụ thể như chăm sóc sức
khoẻ, giáo dục, đào tạo, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học, bảo hiểm an sinh xã
hội, phòng cháy chữa cháy, bão lụt, thiên tai, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho
người nghèo ....
Thứ hai, những hoạt động mang tính dịch vụ công ích, đây là các hoạt động
có một phần mang tính chất kinh tế, hàng hoá như cung cấp điện, cấp nước sạch,
giao thông công cộng đô thị, viễn thông, vệ sinh môi trường, xây dựng kết cấu hạ
tầng, vận tải công cộng, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến diêm ...
Bên cạnh đó, hiện nay còn có luồng ý kiến cho rằng có loại thứ ba của dịch
vụ công, đó là dịch vụ hành chính công. Loại này liên quan đến hoạt động thực thi
pháp luật của các cơ quan nhà nước, cụ thể như các hoạt động thẩm định hồ sơ, ký
phê duyệt, tổ chức cho đăng ký, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép khai thác khoáng sản, trật tự an toàn xã
hội, hải quan, chứng thực ....
* Đặc trưng:
Dịch vụ công cũng là một loại hàng hóa công, cho nên nó cũng mang đầy đủ
các đặc trưng của hàng hóa công là không có tính cạnh tranh và loại trừ trong tiêu
dùng. Hai đặc trưng này có ảnh hưởng rất nhiều đến vai trò cung ứng của chính phủ
trong từng giai đoạn khác nhau mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
1.2. Lý Luận về chính phủ và vai trò của chính phủ
1.2.1.khái niệm về chính phủ:
Chính phủ là một tổ chức được thiết lập để thực thi những quyền lực nhất
định, điều tiết hành vi của các cá nhân sống trong xã hội nhằm phục vụ lợi ích
chung của xã hội đó và tài trợ cho việc cung cấp những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
mà xã hội đó có nhu cầu
1.2.1. Sự thay đổi vai trò chính phủ trong thực tiễn phát triển của thế kỉ 20
Thập kỉ 50-70 trong thời kì này nhiều quốc gia có tham vọng xây dung cho
mình một nền kinh tế tự chủ, tự cường và vững mạnh. Vì thế , họ cho rằng chính
phủ có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo con đường phát triển.Thông qua chức
năng kế hoạch hóa và các chính sách bảo hộ nhiều nước đã xây dựng nền công
nghiệp hướng nội với hy vọng có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào nước ngoài.Khi đó
chính phủ được coi là người phân bổ các nguồn lực trong xã hội, xác định các
nghành công nghiệp ưu tiên chiến lược để bảo hộ phát triển. Trong thời kì này nhiều
nước phát triển theo chiến lược hướng nội với khu vực công nghiệp phi hiệu quả,
ngoại tệ thiếu hụt lớn và một nền nông nghiệp què quặt , chính điều này đã khiến
người ta hoài nghi về vai trò của chính phủ. Trong khi đó, một số nước công nghiệp
mới lại chuyển hướng chiến lược hương ngoại với giả thuyết cho rằng tự do hóa
nền kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng và những nước này đã có được tốc độ tăng
trưởng rất ngoạn mục. Điều đó khiến quan điểm về vai trò chính phủ trong thập kỷ
80 đã có một bước ngoặt lớn theo chiều hướng ngược lại.
Thập kỷ 80. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai năm 1979 và cuộc
khủng hoảng nợ ở nhiều nước chây mỹ la tinh đầu thập kỷ 80, nhiều nhà kinh tế đã
chỉ trích cam thiệp sâu của chính phủ vào việc phân bổ nguồn lực, do đó đã gây ra
sự phi hiệu quả lớn. Quan điểm lúc này là thu hẹp sự can thiệp của chính phủ, tạo
điều kiện cho thị trường vận hành tự do hơn. Nhiều lúc, sự can thiệp của chính phủ
được coi là không cần thiết, thậm chí cản trở sự phát triển. tất cả những thay đổi
trong nhận thức đó được phản ánh trong các chính sách điều chỉnh kinh tế mà nội
dung chính đều là để thị trường quyết định nhiều hơn. Hàng loạt các chính sách như
giảm sự định giá quá cao đồng bản tệ, tự do hóa lãi suất, thu hẹp khu vực công
cộng, giảm điều tiết thị trường, xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp đối với thương mại và
đầu tư..đã được ban hành và nhiều khi còn trở thành điều kiện tiên quyết để các tổ
chức tài trợ quốc tế chấp nhận viện trợ cho các nước đang phát triển. Trong thời kỳ
này mục tiêu hiệu quả kinh tế đã được đưa lên hàng đầu, còn mục tiêu công bằng bị
đẩy xuống hàng thứ yếu.
Vì vậy chiến lược này cũng không mang lại được nhiều kết quả như mong
muốn, thậm chí còn gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng. Việc thu hẹp khu
vực công xộn đã kéo theo sự cắt giảm chi tiêu ngân sách, nhất là cho những dịch vụ
thiết đối với người nghèo như giáo dục và y tế. vì thế, nó đã làm dấy lên phong trào
chỉ trích mạnh mẽ quan điểm này. Nhiều người cho rằng cần phải kết hợp giữa điều
chỉnh cơ cấu và bảo vệ những người yếu thếm cũng như khôi phục tăng trưởng kinh
tế
Thập kỷ 90, quan điểm về vai trò của chính phủ trong thập kỷ này được
phản ánh rõ nét trong báo cáo phát triển thế giới năm 1991 của ngân hàng thế giới.
Theo báo cáo này, sự tác động qua lại giứa chính phủ và thị trường hay khu vực tư
nhân không phải là vấn đề can thiệp hay tụ do trong quá trình phát triển. nếu khu
vực tư nhân được coi là có nhiệm vụ sản xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ một
cách hiệu quả nhất thì chính phủ lại có nhiệm vụ xây dựng một môi trường thể chế,
pháp lý và kinh doanh thuận lợi, đồng thời đảm bảo những dịch vụ thiết yếu cho
người nghèo. Theo quan điểm này, chính phủ phải giữ vai trò tăng cường thể chế và
khung pháp lý trong nền kinh tế, tôn trọng và bảo vệ quyển sở hữu tư nhân
Chương 2:
Thực trạng và vai trò của chính phủ trong cung cấp dịch vụ công tại
Việt Nam
2.1. Quá trình chuyển đổi về vai trò cùa chính phủ trong cung cấp dịch vụ
công từ năm 1986 đến nay.
2.1.1 Trước 1986
Giai đoạn những năm trước 1986, nền kinh tế nước ta ở dạng bao cấp với
vai trò độc quyền của Nhà nước đối với các hình thức sở hữu và các Hàng hoá công
cộng. Có thể nói trong giai đoạn này, khu vực công cộng là khu vực chủ đạo, chi
phối mọi mặt của đời sống xã hội. Chính phủ phát triển kinh tế quốc doanh trên tất
cả các lĩnh vực, bao cấp cho kinh tế tập thể, hạn chế kinh tế tư nhân và gia đình, lập
kế hoạch sản xuất, thu mua và phân phối sản phẩm chi tiết đến từng người dân.
Với thực trạng như vậy, có thể thấy đến ngay cả hàng hoá cá nhân cũng
được chính phủ trực tiếp cung cấp. Và tất nhiên hàng hoá công cộng trong đó có
dịch vụ công lại càng được quyết định bởi bàn tay của chính phủ hơn. Chính phủ là
người trực tiếp sản xuất và cung cấp các dịch vụ công cho người dân. Từ các dịch
vụ thiết yếu như điện, nước, y tế, giáo dục, quốc phòng đến các dịch vụ bổ trợ và
giải trí khác như truyền hình, nghệ thuật cũng do Nhà nước độc quyền cung cấp.
Điều này đảm bảo cho vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Nhà nước, tạo ra sự
thống nhất, ổn định trong cả nước. Tuy nhiên nó lại trực tiếp cản trở lợi ích của
người dân, khi mà nhu cầu trong nhân dân đã vượt quá khả năng cung cấp của
Chính phủ. Điều này đã dấn đến sự đổi mới lớn lao, toàn diện năm 1986.
2.1.2. Sau năm 1986
Bước sang giai đoạn đổi mới, cùng với việc chuyển nền kinh tế sang vận
hành theo cơ chế thị trường, dần dần đã có sự phân định ngày càng rõ nét trong vai
trò của khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Chính phủ không cần thiết phải xuất
hiện như một lực lượng kinh doanh nữa, mà chuyển sang là người định hướng mục