Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.17 KB, 6 trang )

T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY ĐẦU DƯỚI XƯƠNG CHÀY
BẰNG ĐINH METAIZEAU
Nguyễn Đức Bình1,2, Nguyễn Hạnh Quang2, Nguyễn Tiến Bình1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả có theo dõi dọc trên 48 bệnh nhân
(BN) gãy đầu dưới xương chày được kết xương bằng đinh Metaizeau tại Khoa Chấn thương
Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Kết quả: Rất tốt: 9,1%; tốt: 81,8%; trung bình:
9,1% và kém: 0,0%. Không ghi nhận các biến chứng viêm xương và khớp giả. Kết luận:
Phương pháp kết hợp xương (KHX) bằng đinh Metaizeau là một chỉ định hợp lý cho gãy đầu
dưới xương chày.
* Từ khoá: Gãy đầu dưới xương chày; Đinh Metaizeau.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, những trường hợp gãy đầu
dưới xương chày thường được mổ mở,
KHX nẹp vít. Kỹ thuật này đem tới sự nắn
chỉnh tốt, tuy nhiên cũng có không ít nguy
cơ nhiễm trùng [1]. Một số báo cáo cho
thấy, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ rất cao [2].
Olerud và Karlstrom [3] báo cáo: KHX nẹp
vít có hiện tượng chậm liền xương, nhiễm
trùng và gãy nẹp. Để giảm những nguy
cơ này, một số phương pháp được áp
dụng gồm: KHX bằng cố định ngoài ở giai
đoạn đầu, sau đó KHX xâm lấn tối thiểu ở
thì sau. KHX bằng đinh nội tủy được coi
là phương pháp lý tưởng cho gãy thân
xương [4] và dần được mở rộng cho gãy


đầu dưới xương chày. Phương pháp này
có ưu điểm không phải mở ổ gãy, độ
vững cao với nhiều điểm có thể cố định.

Tuy nhiên, đầu dưới xương chày loe
rộng, ngắn, một số trường hợp phạm
khớp có thể dẫn tới những biến chứng
như không liền xương, liền lệch và gãy
đinh là những khó khăn khi áp dụng
phương pháp này.
Để khắc phục những vấn đề trên,
chúng tôi áp dụng KHX bằng đinh
Metaizeau - một chùm đinh có đường
kính nhỏ, đàn hồi với đầu được uốn cong [5].
Những đinh này được đóng vào ống tuỷ
và những đầu cong được toả ra các hướng,
neo vào vùng hành xương. Tuy nhiên,
liệu với hai đinh như thông thường có đủ
độ vững không hay phải đóng thêm một
hoặc hai đinh nữa?
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
với mục đích: Đánh giá kết quả điều trị
gãy đầu dưới xương chày bằng đinh
Metaizeau.

1

Bộ môn - Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
Khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
Người phản hồi: Nguyễn Đức Bình ()

Ngày nhận bài: 6/4/2020
Ngày bài báo được đăng: 2/6/2020
2

67


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
48 BN gồm 31 nam, 17 nữ, tuổi từ
30 - 87 (trung bình: 56,1).
* Tiêu chuẩn lựa chọn: BN ≥ 18 tuổi;
gãy kín đầu dưới xương chày loại A
(phân loại AO/OTA), có tổn thương phần
mềm ở mức độ 0, 1, 2 (phân loại Tschern)
và gãy hở độ I, II, IIIA (phân loại Gustilo).
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN gãy xương
bệnh lý; dị dạng ống tuỷ và không đồng ý
tham gia vào nghiên cứu.

2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả
có theo dõi dọc.
* Nội dung nghiên cứu:
- Thăm khám lâm sàng và đánh giá
phim X quang trước mổ.
- Dụng cụ: Chuẩn bị C-arm, bàn mổ
chỉnh hình và dụng cụ phẫu thuật.

- Vô cảm: Gây tê tuỷ sống hoặc gây
mê nội khí quản.
- Kỹ thuật mổ:
+ Đặt BN nằm trên bàn chỉnh hình, kéo
nắn phục hồi giải phẫu ổ gãy xương chày
dưới C-arm.

Hình 1: Tư thế BN.
+ Trong trường hợp có gãy xương mác, nếu có chỉ định mổ sẽ tiến hành phẫu thuật
kết xương mác bằng nẹp vít hoặc đóng đinh Kirschner trước.
+ Dưới C-arm, đóng các đinh Metaizeau xuôi dòng từ đầu trên xương chày qua ổ
gãy xuống đầu dưới xương chày.
+ Kiểm tra dưới C-arm, nếu thấy doãng mộng chày mác, bắt 1 vít vỏ xương cứng
đường kính 3,5 mm qua 3 hoặc 4 vỏ xương để cố định khớp chày mác dưới.
68


T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020
* Bảng tiêu chuẩn đánh giá kết quả
chỉnh trục xương chày theo Johner-Wrush:
Tiêu chuẩn

Hình 2: Chụp C-arm kiểm tra kết quả KHX.
- Chăm sóc sau phẫu thuật:
+ Rút dẫn lưu sau mổ 48 giờ.
+ Hướng dẫn BN tập vận động khớp
cổ chân và khớp gối sau 48 giờ.
+ Tập đi: Những BN được KHX bằng 3
hoặc 4 đinh được tăng cường nẹp bột và
tập đi chống 2 nạng có tỳ một phần lên

chân mổ ngay từ những ngày đầu sau mổ
cho tới hết tuần thứ 6. Những BN được
KHX 2 đinh phải tăng cường bột cẳng
bàn chân, đi chống 2 nạng không tỳ lên
chân mổ trong 6 tuần đầu.
+ Thời gian hẹn BN đến mổ tháo phương
tiện kết xương sau tối thiểu 1 năm.
* Đánh giá kết quả:
+ Kết quả gần: Diễn biến tại vết mổ,
kết quả nắn chỉnh phục hồi giải phẫu và
kết quả kết xương.
+ Kết quả xa: Sau mổ tối thiểu 12 tháng;
đánh giá trên các mặt: tình trạng sẹo mổ,
tình trạng liền xương tại ổ gãy, kết quả
phục chỉnh trục xương theo tiêu chuẩn
của Johner-Wrush [6] và kết quả phục hồi
chức năng của Olerud (1984) [7].

Rất tốt

Tốt

Trung
bình

Kém

Mức độ xoay
của cổ chân


0 - 5º

6 - 10º 11 - 20° > 20°

Trục thẳng

0 - 1°

2 - 5°

Trục nghiêng

0 - 5°

6 - 10° 11 - 20° > 20°

Ngắn chi

Không

Không

6 - 10°

> 10°

< 1 cm > 1 cm

Kết quả chỉnh trục được coi là rất tốt
khi tất cả các chỉ số trên đều đạt mức rất

tốt; các kết quả khác sẽ được lấy tương
ứng với chỉ số có mức biến dạng lớn nhất
trong 4 chỉ số trên.
Đánh giá mức độ xoay bằng cách để
BN nằm sấp, góc xoay của cổ chân được
xác định bởi đường nối giữa hai mắt cá
chân và đường vuông góc với trục dọc
của đùi và mức độ xoay được so sánh
với chân lành (thông thường cổ chân
thường xoay ngoài 12 - 15o).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm nhóm BN nghiên cứu
* Đặc điểm chung:
- 48 BN gồm 31 BN nam (64,6%),
17 BN nữ (35,4%).
- Tuổi từ 30 - 87 (trung bình: 56,1 tuổi).
- Nguyên nhân: Tai nạn giao thông:
33 BN (68,6%); tai nạn sinh hoạt: 14 BN
(29,2%); chấn thương thể thao: 1 BN (2,1%).
* Đặc điểm tổn thương:
- Gãy kín: 34 BN (70,8%); gãy hở: 14 BN
(29,2%).
- Phân loại gãy hở (Gustilo): Độ I: 5 BN;
độ II: 7 BN; độ IIIa: 2 BN.
69


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020
- Phân loại tổn thương phần mềm
trong gãy kín: Độ 0: 15 BN (44,1%); độ 1:

14 BN (41,2%); độ II: 5 BN (14,7%).
- Phân loại gãy (Muller-AO): A1: 16 BN
(33,3%); A2: 23 BN (47,9%); A3: 9 BN
(18,8%).
- Khoảng cách từ khe khớp chày-sên
tới đường gãy: < 3 cm: 29 BN (60,4%);
3 - 5 cm: 19 BN (39,6%).
- Gãy xương mác: 41 BN (85,4%).
- Tổn thương khớp chày-mác dưới:
6 BN (12,5%).
- Kết hợp xương mác: Nẹp: 32 BN
(78%); đinh Kirschnner: 2 BN (4,9%);
không KHX: 7 BN (17,1%).
- Số đinh Metaizeau sử dụng kết xương:
2 đinh: 5 BN (10,4%); 3 đinh: 28 BN (58,3%);
4 đinh: 15 BN (31,3%).
2. Kết quả điều trị
* Kết quả gần:
- Vết mổ: liền sẹo kỳ đầu: 45 BN (93,8%);
nhiễm khuẩn nông: 3 BN (6,2%).
- Kết quả chỉnh trục xương chày sau mổ:
Rất tốt: 10 BN (20,8%); tốt: 35 BN (72,9%);
trung bình: 3 BN (6,3%); kém: 0,0%.
* Kết quả thời điểm 3 và 6 tháng:
- Kết quả chỉnh trục xương chày:
Bảng 1:
Kết quả

3 tháng


6 tháng

Tỷ lệ (%)

n

Rất tốt

10

10

20,8

Tốt

33

33

68,8

Trung bình

4

4

8,3


Kém

1

1

2,1

Tổng

48

48

100,0

70

- Thời gian liền xương: < 12 tuần:
25 BN (52,1%); 12 - 24 tuần: 23 BN (47,9%).
- Kết quả PHCN thời điểm 6 tháng:
Rất tốt: 6 BN (12,5%); tốt: 37 BN (77,1%);
trung bình: 5 BN (10,4%); kém: 0,0%.
* Kết quả xa:
- Kiểm tra 33 BN với thời gian theo dõi
trung bình 28,6 tháng (tối thiểu: 12 tháng
và xa nhất: 59 tháng).
- Tình trạng sẹo mổ: sẹo mềm mại không
viêm rò: 100%.
- Kết quả liền xương đạt 100% .

- Kết quả trục xương chày: Rất tốt:
5 BN (15,2%); tốt: 26 BN (78,8%); trung
bình: 2 BN (6,0%); kém: 0,0%.
- Kết quả PHCN: Rất tốt: 5 BN (15,2%);
tốt: 25 BN (75,8%); trung bình: 3 BN (8,0%);
kém: 0,0%.
- Kết quả xa: Rất tốt: 3 BN (9,1%); tốt:
27 BN (81,8%); trung bình: 3 BN (9,1%);
kém: 0,0%.
BÀN LUẬN
1. Về liền vết thương
Theo các nghiên cứu của Mcnab [8],
Rhinelander [9], đoạn 1/3 dưới và đầu
dưới xương chày là nơi được cấp máu ít
nhất ở cẳng chân. Hơn nữa, phần mềm
xung quanh chỉ có da và gân nên khi gãy
đầu dưới xương chày nếu mổ kết xương
nẹp vít thì nguy cơ nhiễm khuẩn toác vết
mổ lộ xương và nẹp vít rất cao. Nghiên
cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nhiễm
khuẩn là 6,2%, tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Kruppa (7,1%), Nork (6,4%)
và thấp hơn so với nghiên cứu của
Mustaq (9,5%), Palvuvadi (10%).


T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020
2. Về trục xương chày
Chỉ định KHX đinh nội tuỷ có chốt điều
trị gãy đầu dưới xương chày không được

khuyến khích cho ổ gãy ở gần khớp,
do đầu ngoại vi còn quá ngắn, không đủ để
bắt các vít chốt chống xoay. Đinh Metaizeau
với đầu cong phía xa trở nên ưu việt đối
với ổ gãy vùng này với kiểu chốt khoá
bên trong.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại
thời điểm ngay sau mổ có 3 BN lệch trục
ở mức trung bình, trong đó 2 BN vẹo
ngoài 7o và 1 BN vẹo trong 8o. Tỷ lệ BN
đạt kết quả tốt và rất tốt là 93,7%. Tại thời
điểm 6 tuần sau mổ, số BN lệch trục so
với thời điểm ngay sau mổ không thay đổi
(3 BN), nhưng có 1 BN ổ gãy di lệch thêm
từ mức trung bình (vẹo ngoài 7o) xuống
mức kém (vẹo ngoài 18o). Tại thời điểm
3 tháng, số BN lệch trục là 5 vì xuất hiện
thêm 2 BN di lệch thứ phát. Tại thời điểm
trước, cả 2 BN đều có kết quả chỉnh trục
tốt, nhưng sau đó 1 BN vẹo trong 9o và 1 BN
vẹo ngoài 8o. Tỷ lệ tốt và rất tốt là 89,6%.
Tại thời điểm 6 tháng, kết quả chỉnh trục
trên X quang và lâm sàng không thay đổi
so với thời điểm 3 tháng. Điều này có thể
được lý giải bởi ở thời điểm 3 tháng, một
số BN chưa liền xương hoàn toàn nhưng
hầu hết có can cầu đã hình thành, góp
phần không nhỏ vào độ vững của ổ KHX.
Ở kết quả xa, kết quả tốt và rất tốt là 94%.
Tỷ lệ lệch trục khi KHX bằng đinh nội tuỷ

trong nghiên cứu của Prasad là 20%,
của Egol là 14%.
3. Về thời gian liền xương
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy,
KHX bằng đinh đàn hồi đã kích thích hình
thành sớm can xương ngoại vi, góp phần
duy trì độ vững của ổ kết xương, sớm
giúp BN giải phóng khỏi sự hỗ trợ của
nạng, nhanh chóng hoà nhập với sinh

hoạt hàng ngày. Đây là một trong những
ưu điểm lớn nhất của phương pháp KHX
bằng đinh đàn hồi.
Tại thời điểm 1,5 tháng, kết quả phim
X quang cho thấy, có hình ảnh của can
xương ngoại vi ở tất cả BN ở các mức
độ, các lứa tuổi và các dạng gãy khác
nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự xuất
hiện của can xương ở 2 mặt ổ gãy. Tất cả
BN được KHX bằng 3 hoặc 4 đinh (40 BN)
đều có thể tỳ hoàn toàn chân bên gãy mà
không có cảm giác đau.
Tại thời điểm 3 tháng, có 25 BN (52,1%)
xuất hiện can xương ở 2 mặt ổ gãy, tuy
nhiên gần một nửa số BN (23 BN) vẫn
chưa thấy hoặc rất mờ nhạt, đa số là ổ
gãy ngang và ổ gãy chéo. Tất cả BN
được bỏ nạng và tỳ chân hoàn toàn.
Tại thời điểm 6 tháng, hầu hết BN đều
liền xương vững, bắt đầu có sự sửa chữa

can xương; còn 1 BN 65 tuổi, gãy hở
độ IIIA, mất 1 phần xương có ổ gãy vẫn
chưa liền hoàn toàn, sau 12 tháng ổ gãy
liền xương chắc. Thời gian liền xương
trung bình trong nghiên cứu của Collinge
là 21 tuần, của Redfern là 3 tháng.
Đối với xương mác, tất cả đều liền
xương, thời gian liền xương trung bình là
3,5 tháng.
4. Về phục hồi chức năng
Chúng tôi chọn thời điểm PHCN tối
thiểu 6 tháng vì ở khoảng thời điểm này
xương đã liền, BN có thể tỳ chân hoàn
toàn. Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật,
kết quả đánh giá chức năng cổ chân theo
thang điểm của Olerud có 5 BN (10,4%)
đạt kết quả trung bình, không có kết quả
kém, tỷ lệ đạt kết quả tốt và rất tốt là
89,6%. Đối với kết quả xa, chúng tôi
nhận thấy có sự cải thiện, khi 3 BN có
kết quả PHCN trung bình ở thời điểm sau
71


T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020
6 tháng chuyển lên mức tốt; tỷ lệ tốt và
rất tốt là 91%. Trước đó 3 BN này đau
khi đi lại, phù nề, hạn chế vận động khớp
cổ chân. Kiểm tra lại ở thời điểm 15 và
18 tháng, các triệu chứng trên không còn,

BN trở lại với công việc và sinh hoạt
hàng ngày.
Kết quả này bắt nguồn từ những ưu
điểm của KHX bằng đinh đàn hồi, ngoài
đạt được những tiêu chuẩn chung của
KHX bên trong như nắn chỉnh giải phẫu,
đảm bảo độ vững, tạo điều kiện cho phục
hồi chức năng sớm thì những ưu thế
riêng của FIN như KHX kín là không làm
tổn thương thêm phần mềm. Chính vì
vậy, khả năng phục hồi phần mềm quanh
cổ chân thuận lợi hơn, nhất là đối với
vùng cổ chân, phần mềm chỉ là da bọc
xương. Một ưu thế khác là kết quả phục
hồi chức năng của FIN khác hoàn toàn so
với kết quả của KHX nẹp vít, đinh nội tủy
có chốt là những KHX vững chắc. Đó là
sự liền xương mau chóng với sự xuất
hiện của can cầu ở giai đoạn sau (tuần
thứ 3) và sự liên kết lực giữa các đầu
xương gãy với yếu tố phần mềm xung
quanh qua đinh đàn hồi ngay sau khi KHX.
Trong nghiên cứu của De Caffiniere [5],
kết quả PHCN tốt và rất tốt là 85,8%, của
Ehlinger [10] kết quả này là 83,2%.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật
điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng
đinh Metaizeau dưới màn tăng sáng cho
48 BN, chúng tôi có kết luận sau: KHX

bằng đinh Metaizeau hiệu quả đối với gãy
đầu dưới xương chày với ưu điểm phục
hồi tốt về giải phẫu, cố định ổ gãy vững
chắc và bảo tồn tối đa hệ thống mạch
nuôi dưỡng ổ gãy. Kết quả gần liền vết mổ
72

kỳ đầu đạt 100%, kết quả liền xương đạt
100%. Kết quả phục hồi chức năng đạt
rất tốt: 9,1%, tốt: 81,8% và trung bình:
9,1%; không có kết quả kém.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wyrsch B, MM, McAndrew M, et al.
Operative treatment of fractures of the tibial
plafond. A randomized, prospective study.
J Bone Joint Surg Am 1996; 78:1646-1675.
2. McCann PA, JM, Mitchell ST, et al.
Complications of definitive open reduction and
internal fixation of pilon fractures of the distal
tibia. Orthop Rev 2011; 35:413-418.
3. Olerud S, KG. Tibial fractures treated by
AO compression osteosynthesis. Experiences
from a five year material. Acta Orthop Scand
Suppl 1972; 140:1-104.
4. Whittle AP, WG. Fractures of the lower
extremity. Campbells’s Operative Orthopaedics
2003:2757-2761.
5. de la Caffiniere JY, R Benzimra, N
Chanzy. Treatment of distal metaphyseal
fractures of the tibia with the interlocking

flexible osteosynthesis system. Rev Chir Orthop
Reparatrice Appar Mot 1999; 85(1):42-50.
6. R Johner W. Classification of tibial shaft
fractures and correlation with results after rigid
internal fixation. Clinical Orthopaedics and
Related Research 1983; 178:7-25.
7. Olerud C, H Molander. A scoring scale
for symptom evaluation after ankle fracture.
Arch Orthop Trauma Surg 1984; 103(3):190-194.
8. Macnab I, WG De Haas. The role of
periosteal blood supply in the healing of
fractures of the tibia. Clin Orthop Relat Res
1974; 105:27-33.
9. Rhinelander FW. Tibial blood supply in
relation to fracture healing. Clin Orthop Relat
Res 1974; 105:34-81.
10. Ehlinger M, P Adam, A Gabrion, et al.
Distal quarter leg fractures fixation: the
intramedullary nailing alone option. Orthop
Traumatol Surg Res 2010; 96(6):674-682.



×